Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở việt nam hiện nay

.PDF
102
288
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HUYỀN TRANG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thị Huyền Trang MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT ............................................................................ 9 1.1. Trẻ em khuyết tật ............................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm trẻ em .................................................................................. 9 1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật ............................................................... 11 1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ .............. 17 1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ ............................... 18 1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật ................................................................. 20 1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật........................................................................................... 22 1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật ............................................. 22 1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật .............................. 27 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 29 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................... 30 2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ...................... 30 2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ................................................................... 31 2.2.1. Thành tựu ........................................................................................... 32 2.2.2. Hạn chế ............................................................................................... 34 2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật ........... 37 2.3.1. Quyền được giáo dục ......................................................................... 38 2.3.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội...................................................... 42 2.3.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe ......................................................... 46 2.3.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí ............... 50 2.3.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng ..................... 53 2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong cộng đồng ... 57 2.4.1. Thành tựu.......................................................................................... 57 2.4.2. Hạn chế .............................................................................................. 60 Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 63 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT ....................................... 64 3.1. Phƣơng hƣớng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ................. 64 3.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về trẻ em khuyết tật ...................................................................................... 64 3.1.2. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ...................................................................................... 65 3.1.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền về trẻ em khuyết tật trong cộng đồng ........................................................................................... 67 3.1.4. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế ............................... 67 3.2. Giải pháp Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ......................... 69 3.2.1. Về xây dựng pháp luật ....................................................................... 70 3.2.2. Về một số quyền cụ thể ...................................................................... 75 3.2.3. Về phía cộng đồng.............................................................................. 84 3.2.4. Về phía bản thân trẻ khuyết tật .......................................................... 86 Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Childs) CRPD Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (Convention on the Rights of Persons with Disabilities) ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Convenant on Civil and Political Rights) ICCSCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights). UDHR Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc thành lập (1945), nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thông qua, trong đó có một số lượng ngày càng lớn văn kiện đề cập đến quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Đây là các nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn trong việc bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Nhóm này bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người thiểu số, người lao động di trú… Trong đó, người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất trên thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Quyền của người khuyết tật được pháp luật quốc tế ghi nhận, và ngày càng được quan tâm đặc biệt. Tháng 11 năm 1989, Công ước về Quyền trẻ em được thông qua, đây là Công ước đầu tiên về quyền con người mà trong đó có dẫn chiếu cụ thể đến người khuyết tật, và có một điều riêng biệt về quyền và nhu cầu của trẻ em khuyết tật (Điều 23). Sau đó, hàng loạt các hướng dẫn, các quy tắc, các khuyến nghị về vấn đề này được ban hành nhằm thúc đẩy và bảo vệ hơn nữa quyền của nhóm người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng, quan trọng nhất là Công ước về quyền của những người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007 đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. 1 Ở Việt Nam, người khuyết tật được hưởng tất cả các quyền công dân cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật của họ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định những đối xử ưu đãi với người khuyết tật, nhằm bù đắp những thiệt thòi của họ, cũng như để đảm bảo sự bình đẳng thực chất về các quyền và cơ hội với mọi công dân. Đặc biệt, Luật người khuyết tật năm 2010 vừa mới được thông qua, đã góp phần cải thiện đời sống người khuyết tật, làm thay đổi nhận thức xã hội về người khuyết tật, tạo môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật. Nhưng trên thực tế, xuất phát từ việc bản thân người khuyết tật bị hạn chế trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng, xã hội, cũng như những cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật, nên các quy định Nhà nước đưa ra thường dựa trên cơ sở suy đoán về mức độ suy giảm sức khỏe của họ. Những suy đoán đó đa phần chứa đựng yếu tố chủ quan nên nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu, không phù hợp với khả năng và chưa thực sự tạo điều kiện cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, họ là đối tượng phải chịu những khó khăn rất lớn về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời, tình trạng khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội mặc dù xét ở góc độ con người, tất cả sinh ra đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau về sự tự do, bình đẳng, được tôn trọng phẩm giá, được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân… Đặc biệt, với những trẻ em khuyết tật, thì những khó khăn còn tăng lên đáng kể. Bởi trước hết, trẻ em nói chung vốn là đối tượng cần sự quan tâm, chăm sóc, được tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, với những trẻ em mang trong mình nhiều thiệt thòi từ khi sinh ra như: dị tật bẩm sinh; vĩnh viễn không nghe được âm thanh của 2 cuộc sống; không được trò chuyện như các bạn cùng trang lứa; hay không cảm nhận thấy ánh sáng của cuộc đời… thì việc tiếp cận những gì tốt đẹp nhất dường như quá xa vời. Phải sống trong sự kì thị, phân biệt đối xử của mọi người xung quanh, kết hợp với mặc cảm tự ti về bản thân mình, khiến nhiều trẻ em khuyết tật không dám đến các nơi công cộng vì sợ những ánh mắt để ý; không dám đến trường vì sợ bạn bè trêu chọc… Bên cạnh đó, một thực tế chỉ ra rằng, đa số trẻ em khuyết tật đều sống trong nghèo khó; và dễ bị bạo hành hoặc lạm dụng; bị đối xử vô trách nhiệm, ngược đãi hay bóc lột; trong khi đó, việc tiếp cận với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lại gặp nhiều trở ngại vì những lý do khách quan và chủ quan. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật thực sự phải trải qua nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rào cản để được hưởng trọn vẹn những quyền vốn có của mình. Rào cản này không chỉ nằm ở bản thân của sự khuyết tật, mà còn là tổng hợp những trở ngại về mặt xã hội, văn hóa, quan điểm và cả về vật chất mà trẻ em khuyết tật phải đối mặt trong đời sống hàng ngày. Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Với cách tiếp cận thông qua lăng kính nhân quyền, luận văn mong muốn góp phần tích cực vào việc đề xuất những ý kiến, giải pháp trong hoạch định và thực thi chính sách pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Đồng thời qua đó, nâng cao hiểu biết, thái độ cảm thông đến nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng được chú trọng 3 thì quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương nói chung và quyền của người khuyết tật nói riêng cũng nhận được nhiều chú ý, các công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh đó, trẻ em cũng là chủ đề đã được nghiên cứu từ rất lâu, với nhiều công trình dưới các hình thức như giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, luận án, luận văn, bài báo, các buổi hội thảo… nhằm mục đích tăng cường hơn nữa công tác bảo vệ lợi ích và quyền của trẻ em trong phạm vi quốc gia và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát về nhóm người khuyết tật hoặc nhóm trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện, đi sâu về lĩnh vực Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam dưới góc độ quyền con người nhìn từ chính sách đến thực tiễn thi hành. Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau: - Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động – xã hội. - Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội. - Lê Bạch Dương – Đặng Nguyên Anh – Khuất Thu Hồng – Lê Hoài Trung – Robert Leroy Bach (2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam, Nxb Thế giới - Hà Đình Bốn – Phó Vụ trưởng vụ Pháp chế - Bộ Lao động thương binh và xã hội, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, Đặc san (2010), “Tuyên truyền pháp luật, (số 05), Chủ đề: Luật người khuyết tật”, Hà Nội. 4 - Báo cáo đánh giá (2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam – Đưa luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của Người khuyết tật, tháng 12/2009, của Eric Rosenthal và Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của UNICEF Việt Nam. - Báo cáo của nghiên cứu viên về (2011), Người khuyết tật ở Việt Nam, Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam, là xuất bản phẩm thứ 9 trong tập hợp các ấn phẩm được Quỹ dân số Liên hợp Quốc (UNFPA) công bố vào 2011. - Báo cáo thường niên năm (2010), Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD. - Báo cáo (2010), Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam, 2010 do UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em. Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu về người khuyết tật khá phong phú, song so với yêu cầu thực tiễn thì còn khiêm tốn, chỉ dừng lại ở mức chung, khái quát nhất, chưa đi sâu vào các mảng cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề Quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm kiến thức về đảm bảo quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu tổng quan về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. - Đánh giá được thực trạng đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay trong các khía cạnh xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật, từ phía cộng đồng… Từ đó rút ra được các quyền mà trẻ em khuyết tật dễ bị xâm phạm và bị bỏ qua trên thực tế. 5 - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt nam hiện nay, hướng đến phù hợp với pháp luật quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền của trẻ em khuyết tật. - Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. - Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút ra được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó. - Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau: - Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. - Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lenin; Các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng trên thế giới. - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên 6 quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền của trẻ em khuyết tật. 6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con người về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền và đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật. Luận văn cũng nêu bật được các quyền mà trẻ em khuyết tật Việt Nam dễ và đang bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật, rút ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 7. Điểm mới của luận văn Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ thống thông qua lăng kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, và đã có những điểm mới nổi bật như sau: - Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến trẻ em khuyết tật, luận văn đã đưa ra được khái niệm trẻ em khuyết tật, khái niệm quyền trẻ em khuyết tật và khái niệm đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật. - Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực cụ thể, nêu rõ thành tựu, hạn chế và đưa ra được nguyên nhân có các thành tựu và hạn chế đó. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm có hiệu quả các quyền của trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi pháp luật, thái độ của cộng đồng và nhận thức của bản thân trẻ bị khuyết tật. 7 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau: Chương 1. Lý luận chung về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. 8 Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT 1.1. Trẻ em khuyết tật 1.1.1. Khái niệm trẻ em Từ lâu, trẻ em vốn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương và được nhà nước, cá nhân, các tổ chức xã hội quan tâm bảo vệ. Do đó, việc xác định thế nào được gọi là trẻ em chính là cơ sở để thực hiện và phát huy sự quan tâm đó. Trong Công ước về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1). Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay trong lời nói đầu của Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non nớt về thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là người từ 0 đến dưới 18 tuổi. Do mỗi nước có quan niệm không giống nhau về trẻ em, nên độ tuổi được xác định là trẻ em cũng khác nhau, và Công ước về quyền trẻ em đã quy định vấn đề này theo hướng mở. Tức là, tuổi 18 được coi là mức tiêu chuẩn nhưng không phải cố định, bắt buộc, mà cho phép mỗi quốc gia tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của nước mình, có thể quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn (dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, việc quy định mang tính chất mềm dẻo này, có thể 9 làm số lượng trẻ em được bảo vệ theo Công ước giảm đi ở một số nước, nhưng lại có tác dụng tích cực trong việc tăng lên về số lượng các quốc gia chấp nhận tham gia công ước. Điều đó kéo theo việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo quy định của điều ước quốc tế này trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Liên quan đến khái niệm Trẻ em, Liên hợp quốc còn dùng khái niệm “người chưa thành niên”. Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên ngày 20/11/1985) nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Họ là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào các hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Liên hợp quốc đặt các em trong đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các nước thành viên tham gia CRC phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích cực, huy động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành niên nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên phạm pháp một cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả. Ở Việt Nam cũng không có một định nghĩa chung về trẻ em. Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì trẻ em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với CRC vì Điều 1 Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi. Bên cạnh khái niệm trẻ em, cũng giống như pháp luật quốc tế, pháp luật 10 Việt nam còn có khái niệm “người chưa thành niên” (là những người dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005); “lao động chưa thành niên” (là những người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007), và “người chưa thành niên phạm tội” (là những người phạm tội khi còn dưới 18 tuổi, theo các quy định có liên quan trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009). Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo Luật giáo dục năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 lại quy định người đang được nuôi dưỡng, đào tạo trong hệ thống giáo dục mầm non “từ ba tháng đến sáu tuổi” được coi là trẻ em (Điều 21), còn người từ 6 tuổi đến 18 tuổi gọi là học sinh. Mặc dù không có một điều khoản thống nhất quy định rõ ràng về độ tuổi trẻ em, nhưng về cơ bản, các quy định xung quanh khái niệm này đều tương thích với điều khoản ghi nhận tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989. Do đó, có thể đưa ra định nghĩa chung nhất về trẻ em ở Việt Nam đó là: Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, vẫn còn non nớt về thể chất và trí tuệ, do đó cần sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền. Đây là cách định nghĩa phù hợp với tinh thần của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời không mâu thuẫn với quy định của pháp luật quốc tế. Việc xác định thống nhất khái niệm về trẻ em có ý nghĩa khá quan trọng. Bởi nó sẽ là cơ sở để làm rõ các khái niệm có liên quan đồng thời tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. 1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật Trên phạm vi quốc tế lẫn khu vực hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể về trẻ em khuyết tật. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì vậy, để hiểu chính xác khái niệm trẻ em khuyết tật, trước hết, cần đi tìm hiểu khái niệm người khuyết tật. Trong một thời kỳ dài, người khuyết tật được coi là đối tượng phúc lợi 11 xã hội, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương và lòng nhân đạo chứ không được nhìn nhận dưới tư cách chủ thể có quyền như công dân bình thường. Những văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như: Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Convenant on Civil and Political Rights – ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICCSCR)… cũng không trực tiếp đề cập đến người khuyết tật. Đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX, dưới sự đấu tranh mạnh mẽ của người khuyết tật và các hiệp hội của họ trên thế giới, nhận thức về người khuyết tật là đối tượng của phúc lợi xã hội mới dần dần được thay thế thông qua việc coi trọng năng lực của nhóm đối tượng này và coi vấn đề khuyết tật là vấn đề bình thường trong xã hội. Sự chuyển biến về nhận thức đã dẫn đến thay đổi cả cách gọi tên của nhóm này. Thay cho việc dùng từ Những người tàn tật (Disable persons) có hàm ý miệt thị và hạ thấp, hiện nay, nhóm xã hội này được gọi một cách tôn trọng là Những người khuyết tật (Persons with Disabilities). Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi nhận thức đó diễn ra trong khoảng thời gian tương đối dài và không phải đã hết sự khác biệt. Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác nhau về khái niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. [25] - Quan điểm khuyết tật cá nhân hay Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế: Cho rằng khuyết tật là do chính bản thân con người đó, không liên quan quá nhiều đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh người khuyết tật. Quan niệm này nhìn nhận người khuyết tật như những người 12 có vấn đề về thể chất, cần được chữa trị bằng các phương pháp khoa học như: thuốc điều trị hoặc công nghệ trị liệu. Lý giải rõ thêm cho quan điểm này, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã phân ra ba loại mức độ suy giảm đó là: Khiếm khuyết (impairment), Khuyết tật (disability), và Tàn tật (Handicap). Trong đó: Khiếm khuyết chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình thường của một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khuyết tật chỉ sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn Tàn tật để chỉ tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ. Như vậy, quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật y tế nhìn nhận vấn đề khuyết tật là hạn chế ở chính bản thân họ. Mô hình này chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Khi bị khuyết tật, chính bản thân những người này cần phải thay đổi chứ không phải xã hội hay môi trường xung quanh họ cần phải thay đổi. - Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: cho rằng, nhiều người bị khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng xã hội đã biến họ thành khuyết tật; con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô hình này coi xã hội là vấn đề cần giải quyết, và giải pháp là phải thay đổi toàn bộ xã hội. Bên cạnh đó, nhấn mạnh việc xóa bỏ các yếu tố rào cản, tạo điều kiện cho người khuyết tật được đối xử như những người bình thường khác, giúp họ nhận thức đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân. Đây là mô hình khá nổi trội trong những nghiên cứu về khuyết tật trên thế giới vào những năm 1990, nó được coi là mô hình có cơ sở lý thuyết và có quy tắc riêng, là nền tảng những biến chuyển của vấn đề người khuyết tật. Điểm khác biệt chủ yếu giữa hai quan điểm này là: nếu ở mô hình y tế, nguyên nhân gây nên khuyết tật được xác định là do chính bản thân người khuyết tật thì ở mô hình xã hội, khởi nguồn khuyết tật là ở xã hội. Hơn nữa, 13 bản chất của mô hình y tế là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ người khuyết tật; còn mô hình xã hội, bản chất của khuyết tật là các rào cản đã ngăn cản người khuyết tật tham gia vào các hoạt động đời sống. Nhìn chung mỗi quan điểm đều có những điểm mạnh và hạn chế nhất định: Quan điểm khuyết tật y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như y tế phục hồi chức năng và đảm bảo xã hội. Còn quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội cho thấy nguyên nhân gốc rễ của việc người khuyết tật bị tách biệt khỏi cuộc sống chung, những bất lợi và vấn đề phân biệt đối xử. Hiện nay trên thế giới, cũng không có khái niệm về người khuyết tật được áp dụng chung cho tất cả các nước. Tùy vào điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống văn hóa mà mỗi quốc gia có định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Như, Điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người khuyết tật năm 1990 quy định: Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lí hay sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường. Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều và/hoặc khuyết tật khác. Còn Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm thần. Hay ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa: 14 Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội. Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa: “Người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động trong cuộc sống”. Cũng theo đạo luật này, những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (Có triệu chứng hoặc không có triệu chứng). Tháng 03/2007, Công ước về quyền của người khuyết tật (Convention on the Rights of Persons with Disabilities - CRPD) đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó, tại Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái niệm “người khuyết tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về “người khuyết tật” được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này. Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan