Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở việt nam hiện nay

.DOCX
78
63
72

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ THU HẰNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Quyền con người Mã số:…………………………… LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN LINH GIANG HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số liệu, ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Bùi Thị Thu Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM.......6 1.1. Khái niệm, nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi...................6 1.2. Các điều kiện bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi................24 1.3. Cơ chế bảo đảm thực thi quyền của người được nhận làm con nuôi.............27 1.4. Các biện pháp bảo đảm thực thi quyền của người được nhận làm con nuôi. 35 Tiểu kết Chương 1...........................................................................................40 Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................................41 2.1. Tình hình nhận làm nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay............................... 41 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay........................................................................................................46 2.3. Đánh giá tình hình thực hiện các quy định pháp luật về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam....................................................53 Tiểu kết Chương 2.................................................................................................58 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................................................... 60 3.1. Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay............................................................................................. 60 3.2. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam............................................................................................. 63 Tiểu kết chương 3..................................................................................................70 KẾT LUẬN..........................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................72 DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nội dung CRC Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em Công ước La Hay Công ước La Hay số 33 ngày 29/5/1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 01/02/2012 ICESCR Công ước về các quyền Kinh tế xã hội và văn hóa ICCPR Công ước về các quyền Dân sự và chính trị CEDAW Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ Nghị định 19/2011/NĐ-CP số Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi có nuôi quy định MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến ở các quốc gia và được pháp luật các nước điều chỉnh. Ở Việt Nam, nuôi con nuôi là vấn đề mang tính nhân đạo sâu sắc, được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng, quan tâm, nhất là trong hoàn cảnh đất nước phải chịu nhiều di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp. Bên cạnh việc tạo dựng mái ấm gia đình thay thế cho trẻ em được nhận làm con nuôi (đa phần trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn), việc nuôi con nuôi còn đáp ứng nhu cầu chính đáng của người nhận con nuôi. Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi ở Việt Nam đã được pháp luật điều chỉnh từ lâu và trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi đã luôn được quan tâm hoàn thiện nhằm góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn, phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách. Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về nuôi con nuôi, Việt Nam cũng đã tham gia, ký kết nhiều Công ước quốc tế quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền trẻ em nói chung và quyền của người được cho làm con nuôi nói riêng. Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011, đã thống nhất và quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi nước ngoài trong một đạo luật, tạo ra một cơ chế liên thông trong việc giải quyết nuôi con nuôi, bảo đảm quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình, đặc biệt là môi trường gia đình gốc theo tinh thần của Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (CRC) và Công ước La Hay số 33 ngày 29/5/1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước La Hay) mà Việt Nam là thành viên, có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 01/02/2012. 1 Trong suốt thời gian thực hiện Luật nuôi con nuôi cùng các văn bản hướng dẫn thi hành CRC và Công ước Lay Hay, công tác nuôi con nuôi đã đạt được những kết quả nhất định. Việc bảo đảm các quyền và lợi ích của trẻ em được cho làm con nuôi cũng được thực hiện có hiệu quả; thể chế pháp luật về nuôi con nuôi cơ bản đã hoàn thiện và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã tìm được gia đình thay thế ở trong nước và nước ngoài nhận nuôi; quyết định cho nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước ngoài đương nhiên được công nhận tại 98 nước thành viên Công ước La Hay. Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác quốc tế với những nước nhận con nuôi nước ngoài như: Pháp, Italia, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Đức, Canada, Thụy Sỹ, Ai Len, Na Uy, Luxembourg… Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi cũng chính là bảo đảm các quyền con người được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Hiến pháp năm 2013 đã dành riêng Chương II để quy định Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” và Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định “1. Mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, bộ, ban, ngành, tổ chức xã hội trong việc phối hợp thực hiện tốt trách nhiệm của mình nhằm bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi được thực thi trên thực tế đúng quy định pháp luật, tạo cơ hội tốt nhất cho đối tượng này thực hiện tốt quyền của mình là có được một mái ấm gia đình thay thế, phù hợp, được sống trong một môi trường gia đình trong lành, hạnh phúc, được chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập và phát triển toàn diện về mọi mặt như bao trẻ em khác. Do đó, bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi được đặt ra như một vấn đề thiết yếu, cần được xem xét một cách thấu đáo về mặt lý luận và thực tiễn để đưa ra những đánh giá toàn diện về việc bảo đảm quyền này ở Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu đó, học viên lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành quyền con người, với mong muốn góp phần tăng cường bảo đảm một trong những quyền cơ bản của con người ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đây là một vấn đề tác động không nhỏ đến nhiều mặt của xã hội. Lĩnh vực nuôi con nuôi luôn thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận, các học viên, các nhà quản lý ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, cụ thể như: Nguyễn Hoàng Yến (2012), luận văn thạc sỹ: “Quyền của trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi”, Học viện Khoa học xã hội, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Lê Thị Hiền (2012), luận văn thạc sỹ: “Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài”, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Vũ Kim Dung (2013), luận văn thạc sỹ “Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam trong mối tương quan với Công ước Lahay”, Khoa luật, Đại Học Quốc gia Hà Nội; Vũ Thị Kiều Anh (2014), luận văn thạc sỹ: “So sánh pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam”, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Những đề tài này chủ yếu tiếp cận nghiên cứu ở góc độ tìm hiểu các quy định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, có so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới, có liên hệ với quy định của Công ước La Hay và có tiếp cận đến góc độ quyền của trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi, nhưng chưa đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền và cũng chưa tiếp cận một cách tổng quát về quyền của người được nhận làm con nuôi mà mới chỉ dừng lại ở vấn đề quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi có yếu tố nước ngoài. Như vậy, cho đến nay chưa có một đề tài nào trực diện đề cập đến việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay từ góc độ quyền con người và trong quy mô một đề tài nghiên cứu có tính hệ thống. Do đó, việc lựa chọn đề tài này để nghiên cứu từ góc độ quyền con người có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu tổng quát của đề tài là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp tăng cường việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền của người được nhận làm con nuôi. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi. Phân tích, đánh giá các điều kiện (điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội…) bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam. Nghiên cứu các mối quan hệ có liên quan đến bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam. Phạm vi thời gian: Nghiên cứu việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam từ năm 2011 đến 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn lựa chọn cách tiếp dựa trên quyền, sử dụng phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, lấy khoa học pháp lý là lát cắt chủ đạo. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về quyền con người nói chung và quyền được nhận làm con nuôi nói riêng. Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong nghiên cứu luận văn bao gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp xã hội học pháp luật… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Làm sáng tỏ khái niệm, nội dung quyền được nhận làm con nuôi, xác định các yếu tố hợp thành cơ chế bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi và các điều kiện bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay. Luận chứng về một số giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường việc bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nhận thức rõ hơn về quyền được nhận làm con nuôi và nhu cầu bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận văn có giá trị tham khảo trong việc xây dựng các phương án lập pháp áp dụng vào thực tiễn công tác quản lý của các cơ quan hữu quan, và các đơn vị trong ngành Tư pháp ở Việt Nam. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam. Chương II. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay. Chương III. Quan điểm và giải pháp tăng cường việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi 1.1.1. Khái niệm quyền của người được nhận làm con nuôi 1.1.1.1. Khái niệm con nuôi và nuôi con nuôi Trong các văn kiện quốc tế về quyền con người không có định nghĩa cụ thể về con nuôi và nuôi con nuôi, tuy nhiên định nghĩa này được ghi nhận trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới như sau: a- Pháp luật của Liên Bang Nga Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga (trích) các quy định về nuôi con nuôi, thì nuôi con nuôi là hình thức ưu tiên trong việc thu xếp mái ấm cho những trẻ em không được cha mẹ đẻ chăm sóc[35, Tr. 316]. b- Pháp luật của Guatemala Theo quy định tại Điều 2 Luật Con nuôi của Guatemala thì việc nhận nuôi con nuôi được hiểu là việc trẻ em được nhận làm con nuôi để bảo vệ theo quy định của pháp luật và sắc lệnh được nhà nước giám sát theo đó một người nhận con ruột hoặc con của người khác làm con nuôi. Con nuôi quốc tế: là việc nhận con nuôi theo đó đứa trẻ thường trú hợp pháp tại Guatemala được đưa đến một nước khác làm con nuôi. Con nuôi trong nước: là cha mẹ nuôi và con nuôi là người thường trú hợp pháp tại Guatemala[35, Tr. 345]. c- Pháp luật Việt Nam - Con nuôi: là người được nhận làm con nuôi; có con nuôi trong nước và con nuôi có yếu tố nước ngoài. Con nuôi trong nước: là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau thường trú ở Việt Nam. Con nuôi nước ngoài: là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 3 Luật Nuôi con nuôi thì con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. - Nuôi con nuôi: là việc một người độc thân hoặc một cặp vợ chồng (có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật) có đủ điều kiện về kinh tế, sức khỏe, chỗ ở…, xin nhận một hoặc nhiều trẻ em làm con nuôi, nhằm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi với mục đích xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Và việc nuôi con nuôi này hoàn toàn không vi phạm các điều cấm, được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định[36, tr.7]. Như vậy, việc nuôi con nuôi phải đáp ứng những đặc điểm, bản chất nói trên, nếu không hướng tới hoặc không phù hợp với mục đích xác lập quan hệ cha, mẹ và con trên thực tế thì quan hệ đó không được công nhận là quan hệ nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi có hai hình thức là nuôi con nuôi theo quy định pháp luật và nuôi con nuôi theo phong tục tập quán. Tuy nhiên, hình thức nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, tuy pháp luật không nghiêm cấm, nhưng không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không được công nhận[36, tr.8]. Nuôi con nuôi theo quy định pháp luật là việc nuôi con nuôi đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định và được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đó là hình thức nuôi con nuôi duy nhất được Nhà nước công nhận và bảo hộ. Nuôi con nuôi theo phong tục tập quán là những hiện tượng nuôi con nuôi có tính tự phát trong nhân dân, xuất phát từ tình cảm, tình nghĩa, ân nghĩa hoặc tập quán khác mà không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Luật nuôi con nuôi thì nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. 1.1.1.2. Khái niệm quyền của người được nhận làm con nuôi Về mặt lý luận, từ cách tiếp cận dựa trên quyền thì quyền của người được nhận làm con nuôi chính là quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi. Các quyền này được quy định trực tiếp và gián tiếp trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Cụ thể, trong CRC có nói đến việc bảo vệ quyền và đảm bảo phúc lợi trẻ em trong đó có việc bảo trợ và nuôi con nuôi. Trong Công ước này đã có những nguyên tắc nền tảng bảo vệ quyền trẻ em nói chung và cũng để áp dụng bảo vệ quyền của trẻ em làm con nuôi như các nguyên tắc: Không phân biệt đối xử (đảm bảo quyền trẻ em được nhận làm con nuôi không bị phân biệt đối xử trong môi trường gia đình, nhà trường và xã hội); đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em (bao gồm cả lợi ích của trẻ em làm con nuôi); tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em... Đồng thời, Công ước này cũng có những quy định đặc biệt liên quan đến đối tượng trẻ em là con nuôi. Điều 11 Công ước quy định về nghĩa vụ quốc gia phải có các biện pháp chống lại việc mang trẻ em ra nước ngoài bất hợp pháp và các quốc gia phải ký kết hiệp định song phương hoặc đa phương về vấn đề này. Điều 20, 21 Công ước quy định trực tiếp liên quan đến quyền trẻ em được nhận làm con nuôi. Theo đó, các quốc gia thành viên của CRC thừa nhận hoặc cho phép việc nhận làm con nuôi phải đảm bảo rằng những lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm cao nhất trong vấn đề này. Hiến pháp Việt Nam năm 2013, đã kế thừa và thể hiện một bước chuyển mới rất quan trọng khi ghi nhận các quyền con người tại Chương 2, bổ sung thêm nhiều quyền mới, chuẩn hóa các hình thức ghi nhận và nội dung các quyền cụ thể được quy định từ Điều 14 đến Điều 49 nhằm tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “…mọi công dân đều có quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; được nhà nước bảo hộ…”. Khoản 1, Điều 37 Hiến pháp cũng ghi nhận: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em". Các quy định này là cơ sở quan trọng để hình thành các quy định pháp luật bảo vệ quyền trẻ em nói chung và quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi nói riêng. Theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì quyền của người được nhận làm con nuôi được hiểu là quyền của trẻ em dưới 16 tuổi, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được nhận làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế hoặc làm con nuôi của cô, cậu, dì, chú, bác ruột. Tuy nhiên, việc nuôi con nuôi sẽ được ưu tiên thực hiện đối với trẻ em vì lý do nào đó không có mái ấm gia đình, ví dụ như: trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi... Việc nuôi con nuôi cũng được thực hiện với trẻ em tuy có gia đình gốc, nhưng việc tiếp tục để trẻ em tại gia đình gốc sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của trẻ em. Ví dụ: trẻ em bị cha mẹ lạm dụng, ngược đãi, đánh đập… vấn đề này cũng phù hợp với quy định tại Điều 9 của CRC “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng trẻ em không bị cách ly cha mẹ trái với mong muốn của họ, trừ khi nhà chức trách có thẩm quyền chịu sự xem xét của tòa án quyết định theo luật pháp và các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần thiết vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Quyết định như thế có thể là cần thiết trong trường hợp đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay xao nhãng, hoặc khi cha mẹ sống cách ly và cần phải có một quyết định mới về nơi cư trú của trẻ...”. Cần phân biệt quyền của người được nhận làm con nuôi với quyền nuôi con nuôi. Quyền nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi đều là quyền dân sự của cá nhân đã được nhà nước công nhận và được pháp luật bảo hộ. Nhưng quyền nuôi con nuôi được hiểu là khi một người độc thân (không phân biệt nam/nữ) hoặc một cặp vợ chồng có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định pháp luật và có nguyện vọng nhận một hay nhiều trẻ em làm con nuôi, thì được xem xét giải quyết mà không phụ thuộc vào việc người đó đã có con đẻ hay chưa. Từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền của người được nhận làm con nuôi là quyền con người, được Nhà nước công nhận và được pháp luật bảo vệ nhằm mục đích xác lập quan hệ gia đình bền vững, vì lợi ích tốt nhất cho người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho họ được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình 1.1.1.3. Đặc điểm quyền của người được nhận làm con nuôi Thứ nhất, quyền được nhận làm con nuôi là một quyền con người. Tại Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền Quốc tế 1948 quy định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền…”. Đồng thời, Tuyên ngôn cũng khẳng định trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Lời nói đầu của CRC cũng công nhận rằng, để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông. Từ cách tiếp cận dựa trên quyền, với sự ra đời của CRC, trẻ em đã trở thành một chủ thể của quyền con người, các quyền trẻ em đồng thời cũng là các quyền con người, đòi hỏi nghĩa vụ tôn trọng, thực hiện và bảo vệ từ phía Nhà nước. Quyền được nhận làm con nuôi thực chất là một quyền nhằm đảm bảo cho trẻ em trong một số hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn nhưng vẫn có cơ hội và điều kiện có một mái ấm gia đình, được yêu thương, dạy dỗ để phát triển toàn diện mà không bị phân biệt đối xử. Điều 20 và Điều 21 của CRC cũng đã đề cập trực tiếp đến quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho các em. Như vậy, quyền được nhận làm con nuôi cũng là một quyền trẻ em, hay một quyền con người. Thứ hai, quyền được nhận làm con nuôi liên quan mật thiết với việc hiện thực hóa các quyền con người khác. Gia đình là môi trường xã hội tự nhiên và phù hợp nhất cho sự phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần của mỗi người. Không ai có thể phủ nhận rằng, môi trường gia đình chính là nơi phù hợp nhất để nuôi dưỡng trẻ em. Mỗi đứa trẻ cần được chuẩn bị đầy đủ về thể chất, tinh thần, cần được nuôi dưỡng, giáo dục để được trưởng thành trong môi trường yêu thương, tôn trọng, bình đẳng và nhân ái. Gia đình là cái nôi đầu tiên và quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của mỗi đứa trẻ. Chính vì vậy, để cho mọi trẻ em đều được lớn lên trong một gia đình hạnh phúc, yêu thương và cảm thông là mục tiêu của mọi xã hội, mọi Nhà nước. Mục tiêu này còn là nghĩa vụ phải thực hiện khi các quốc gia trở thành thành viên của các Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có CRC. Việc đảm bảo cho trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt được nhận làm con nuôi chính là đảm bảo quyền được nuôi dưỡng và trưởng thành trong môi trường gia đình của các em. Do đó, quyền được nhận làm con nuôi có liên quan chặt chẽ đến các quyền khác của trẻ em bao gồm: quyền được sống, quyền được đăng ký khai sinh, quyền có họ tên, quyền có quốc tịch, quyền biết về cha mẹ mình và được cha mẹ chăm sóc sau khi ra đời, quyền được bày tỏ ý kiến, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em, quyền được luật pháp bảo vệ, quyền được hưởng sự bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước, quyền được học tập, quyền có mức sống đủ để phát triển thể chất trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội… Quyền được nhận làm con nuôi đảm bảo cho trẻ em có đầy đủ các quyền trên, đảm bảo cho trẻ em được phát triển toàn diện trong môi trường hạnh phúc. Thứ ba, quyền được nhận làm con nuôi là một quyền quan trọng liên quan đến các vấn đề về an sinh xã hội. Quyền được nhận làm con nuôi liên quan đến tính mạng, cuộc sống con người trước nguy cơ không có người chăm sóc, nuôi dưỡng. Trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi hiện nay đã và đang là hiện tượng diễn ra hàng ngày ở khắp nơi trên thế giới. Những trẻ em này bị mất đi cơ hội được chăm sóc, nuôi dưỡng như bao trẻ em khác, việc chăm sóc, nuôi dưỡng các em là đòi hỏi của một xã hội văn minh, là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi Nhà nước và liên quan mật thiết với vấn đề an sinh xã hội. 1.1.2. Nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi 1.1.2.1. Quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc Gia đình gốc được hiểu là gia đình của những người có quan hệ huyết thống. Thông thường gia đình gốc bao gồm cha, mẹ và con đẻ, ông/bà nội, ngoại và cháu, anh chị em ruột, cô, cậu, dì, chú, bác ruột, do luật không quy định hạn chế, nên có thể hiểu gia đình gốc theo nghĩa rộng, gồm những người có quan hệ huyết thống không phân biệt cách nhau bao nhiêu đời, bao nhiêu thế hệ, có quan hệ huyết thống xét cả về mặt trực hệ và bang hệ. Như vậy, một trong những quyền cơ bản của trẻ em là được sống trong môi trường gia đình gốc với cha mẹ đẻ, anh chị em ruột, ông/bà nội/ngoại, cô, cậu, dì, chú, bác ruột[36, tr.12]. Việc bảo đảm cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc tạo điều kiện quan trọng để trẻ em phát triển một cách toàn diện về tình cảm, trí tuệ và thể chất bình thường. Môi trường gia đình gốc là môi trường nuôi dưỡng, bao bọc, giữ gìn và bảo vệ cá nhân và cũng là môi trường sản sinh ra tình cảm yêu thương, gần gũi, gắn bó máu thịt giữa những người trong gia đình với nhau từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Do đó, mọi sự tước đoạt trẻ em ra khỏi môi trường gia đình gốc một cách bất hợp pháp đều bị lên án và phải kịp thời ngăn ngừa và xử lý nghiêm minh. Tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc đã được cộng đồng quốc tế tôn trọng và thừa nhận là một nguyên tắc, được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến trẻ em. Tại Điều 3, Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và bảo vệ trẻ em ghi nhận: “Ưu tiên hàng đầu đối với trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm sóc”. Trong Lời nói đầu của CRC cũng cho rằng: “Gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có thể đảm đương được đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng. Để được phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông”. Trong Lời nói đầu của Công ước La Hay cũng đề cập đến:“Mỗi nước cần phải ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc trong gia đình gốc của mình”. Nội luật hóa các quy định trong CRC và Công ước La Hay, Điều 4 Luật nuôi con nuôi quy định: “Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc”. Tiếp đến Điều 22 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền sống chung với cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Việc trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc cùng với cha, mẹ đẻ và những người thân thích khác là một trong những quyền quan trọng của trẻ em. Để bảo đảm quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, thì trước tiên cha, mẹ đẻ cần nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con đẻ của mình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, mức sống của từng gia đình. Trường hợp bất khả kháng cha mẹ không thể chăm sóc, nuôi dưỡng được con (bị chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, mất khả năng lao động, tàn tật, mắc bệnh hiểm nghèo, không có thu nhập…) thì anh chị ruột, ông/bà nội/ngoại, cô, dì, chú, bác ruột có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em đó theo truyền thống đạo lý của dân tộc. Tôn trọng quyền trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, tức là tôn trọng quy luật tự nhiên và xã hội, bảo đảm sự phát triển bình thường, hài hòa và đầy đủ của trẻ em. Trong khi xem xét giải quyết việc nuôi con nuôi, cần chú ý xem xét điều này. Không đưa trẻ em rời khỏi môi trường gia đình gốc trái ý chí, nguyện vọng và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Chừng nào gia đình vẫn còn khả năng và điều kiện thực tế để nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em, thì chừng đó cần tiếp tục duy trì trẻ em tại gia đình. Trường hợp bất đắc dĩ phải cho trẻ em đi làm con nuôi, thì đây chỉ được coi là giải pháp cuối cùng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. 1.1.2.2. Quyền được tìm gia đình thay thế Gia đình thay thế là gia đình nhận trẻ em làm con nuôi, tức là gia đình cha mẹ nuôi. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, trẻ em làm con nuôi còn có quan hệ với các thành viên khác (những người thân thích) trong gia đình của cha mẹ nuôi. Do đó, có thể nói đầy đủ là gia đình thay thế bao gồm cha, mẹ nuôi và những thành viên trong gia đình cha mẹ nuôi như các con của cha mẹ nuôi, cha mẹ của cha mẹ nuôi (ông/bà nội/ngoại), anh chị em của cha mẹ nuôi (cô, dì, chú, bác của cha mẹ nuôi). Sau khi nhận trẻ em làm con nuôi, trẻ em trở thành một thành viên mới của gia đình cha mẹ nuôi, vì thế trẻ em có quan hệ với tất cả các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi cũng phát sinh các quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhân thân, tình cảm, trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với nhau, kể cả vấn đề đại diện, giám hộ, quyền thừa kế tài sản theo quy định pháp luật[36, tr.12-13]. Trẻ em cần có gia đình thay thế thường là trẻ em vì những lý do nào đó không được sống trong môi trường gia đình gốc của mình, đó là những trẻ em bị mồ côi cha mẹ và không còn người thân thích để chăm sóc, nuôi dưỡng; trẻ em bỏ rơi; trẻ em khác mà cha mẹ không thể nuôi dưỡng, chăm sóc (do mất năng lực hành vi dân sự, tàn tật, mất khả năng lao động và không có thu nhập…). Tuy nhiên, trong một số trường hợp cá biệt, trẻ em tuy vẫn có cha mẹ đẻ, nhưng vì mục đích bảo đảm an toàn tính mạng, nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của trẻ em và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em đòi hỏi phải đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia đình gốc (do cha mẹ nghiện ngập bỏ bê việc nuôi dưỡng...). Trẻ em có quyền được tìm gia đình thay thế khi trẻ bị mất đi gia đình gốc một cách chủ quan (trẻ em bị bỏ rơi) hay khách quan (trẻ em bị mồ côi cả cha lẫn mẹ).Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em là một trong những biện pháp tốt nhất được đặt ra nhằm đảm bảo quyền được chăm sóc thay thế của trẻ. Quyền được tìm gia đình thay thế là để bảo đảm cho những trẻ em không may mắn có một gia đình có thể có cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước hoặc nước ngoài. Tại Khoản 1, Điều 20 của CRC quy định: “Những trẻ em tạm thời hay vĩnh viễn bị tước mất môi trường gia đình của mình, hoặc vì những lợi ích tốt nhất của chính bản thân các em mà không được phép tiếp tục ở trong môi trường ấy phải có quyền được hưởng sự bảo vệ, giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước”. Và tại Điều 21.b của CRC quy định: “Công nhận rằng việc trẻ em làm con nuôi nước ngoài có thể được coi như một biện pháp thay thế của việc chăm sóc trẻ em, nếu trẻ em đó không thể gửi được cho một gia đình bảo trợ hay nhận nuôi, hoặc không thể nào được chăm sóc một cách thích hợp ở ngay tại quốc gia gốc của trẻ em”. Trong Lời nói đầu của Công ước La Hay chỉ ra rằng: “Vấn đề nuôi con nuôi quốc tế có thể có lợi thế đem lại một gia đình lâu dài cho trẻ em không tìm được một gia đình thích hợp tại nước gốc của mình và nuôi con nuôi quốc tế được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em, để ngăn chặn việc bắt cóc, bán hoặc buôn trẻ em” và “Thiết lập những bảo đảm về nuôi con nuôi quốc tế diễn ra là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em được công nhận trong luật pháp quốc tế” (Điều 1.a Công ước La Hay). Để đảm bảo quyền tìm gia đình thay thế cho trẻ em, Điều 22 Luật Trẻ em quy định: “Trẻ em được chăm sóc thay thế khi không còn cha mẹ; không được hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng thiên tai, thảm họa, xung đột vũ trang vì sự an toàn và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi”. Quy định này trong việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi, trước hết là căn cứ vào yếu tố gia đình, sau đó là yếu tố họ hàng, rồi đến yếu tố quốc tịch gắn liền với lãnh thổ, cuối cùng mới đến nước ngoài. Để bảo đảm cho trẻ em thực hiện tốt quyền được tìm gia đình thay thế, Điều 15 Luật nuôi con nuôi quy định rất cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em trong trường hợp trẻ em không được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em đó. Về nguyên tắc, trẻ em phải được ưu tiên sống trong gia đình gốc, nếu không được mới giải quyết cho làm con nuôi trong nước và cuối cùng mới cho làm con nuôi nước ngoài. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều phải thực hiện lần lượt theo thứ tự ưu tiên tìm gia đình thay thế cho trẻ em làm con nuôi trong nước rồi mới đến làm con nuôi nước ngoài. Trong những trường hợp nhất định, vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em chỉ có thể đạt được khi cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Chẳng hạn, trong trường hợp đoàn tụ gia đình (làm con nuôi của người có quan hệ họ hàng hoặc cha dượng, mẹ kế); trường hợp trẻ mắc bệnh hiểm nghèo mà người trong nước không đủ điều kiện để nhận nuôi hoặc trẻ em đã lớn tuổi mà cơ hội được nhận làm con nuôi bị hạn chế. Đối với những trường hợp này, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi cho phép không cần phải tiến hành biện pháp tìm gia đình thay thế trong nước, không phải thông qua thủ tục giới thiệu trẻ em mà được giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài theo thủ tục nhận con nuôi đích danh. Như vậy, quyền được tìm gia đình thay thế là một quyền cơ bản quan trọng của trẻ em sống trong hoàn cảnh đặc biệt. Quyền này tạo ra cho trẻ em một cơ hội có được một gia đình, được chăm sóc, nuôi dưỡng, thương yêu, chia sẻ và hưởng thụ những tình cảm hạnh phúc gia đình, được học tập, phát triển toàn diện về mọi mặt như bao trẻ em khác. Gia đình sẽ là điểm tựa là cái nôi nuôi dưỡng ước mơ, là vườn ươm biến những ước mơ của trẻ em trở thành hiện thực. Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em vừa mang tính nhân văn, vừa mang tính nhân đạo sâu sắc. 1.1.2.3. Quyền được bày tỏ ý kiến đồng ý làm con nuôi Trong hoạt động nuôi con nuôi, bảo đảm và tôn trọng lợi ích của trẻ em là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia. Tôn trọng quyền của trẻ em, quyền được bày tỏ ý kiến đồng ý làm con nuôi là rất quan trọng, quyết định đến tương lai của trẻ em được cho làm con nuôi. Điều 12 của CRC quy định: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành các quan điểm riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách phù hợp với tuổi và độ trưởng thành của trẻ em. Vì mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, hoặc trực tiếp thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của luật pháp quốc gia”. Công ước La Hay quy định trẻ em đồng ý làm con nuôi, theo những hình thức do pháp luật đòi hỏi và sự đồng ý đó được thể hiện hoặc xác nhận bằng văn bản, nếu đòi hỏi phải có sự đồng ý này. Tương đồng với các quy định trong CRC và Công ước La Hay, Luật nuôi con nuôi quy định trường hợp nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải có sự đồng ý của trẻ em đó. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Sự đồng ý hoàn toàn tự nguyện, tức là đồng ý vô điều kiện, không kèm theo bất kỳ một khoản tiền hay bồi thường nào, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sự khiếm khuyết nào (có thể là sự lừa dối, xuyên tạc, cưỡng ép, gây ảnh hưởng thái quá hoặc do hiểu nhầm). Không chỉ trẻ em mà những chủ thể có liên quan đến việc cho nhận con nuôi phải đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện. Tự nguyện cũng là một trong những nguyên tắc được thừa nhận tại Điều 4 Công ước La Hay.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan