Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự việt nam từ ...

Tài liệu Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận long biên

.PDF
82
137
96

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY .............................................................6 1.1 Khái niệm chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy ...........................6 1.2 Quy định của Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy ............................................................................................................................8 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH.....................................................................32 2.1 Kết quả đạt được trong công tác xét xử Tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017. .......................................................32 2.2 Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013 – 2017 ..........................................................................34 2.3 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017 ........................................................47 2.4 Đánh giá công tác xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017 ............................................................................59 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ..........................................................................................................................63 3.1 Yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. ...................................................................................................63 3.2 Giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. ...................................................................................................66 KẾT LUẬN ..............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và đang thực hiện đường lối đổi mới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, của việc mở cửa hội nhập và xu hướng toàn cầu hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong đời sống xã hội, nổi bật trong đó chính là các tệ nạn về ma túy. Ma túy làm gia tăng tội phạm, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình, suy thoái nòi giống dân tộc, cầu nối cho căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS. Một trong số những loại tội phạm về ma túy đã và đang có những diễn biến vô cùng phức tạp trong những năm trở lại đây chính là tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Nam Định là một tỉnh có lịch sử phát triển đô thị sớm và thuận lợi giao thông, giao thương buôn bán, chính vì vậy được nhiều đối tượng chọn là địa bàn tiêu thụ và chung chuyển ma túy từ các tỉnh Tây Bắc về phân phối cho một số tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Theo nhận định của các cơ quan chức năng, các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy hoạt động ngày một tinh vi hơn cũng như hình thành các đường dây mua bán ma túy lớn hơn. Trước tình hình này, các cơ quan chức năng tỉnh Nam Định đã và đang tập trung lực lượng xử l tội phạm mua bán trái ph p chất ma túy và đã đạt nhiều kết quả tốt, số vụ án được phát hiện đang tăng thêm, nhiều đường dây buôn bán ma tu bị triệt phá. ên cạnh kết quả đó, do tội phạm về mua bán trái phép chất ma tu trên địa bàn tỉnh Nam Định diễn biến ngày một phức tạp và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, các cơ quan chức năng dù đã nỗ lực nhưng việc xử lý tội phạm mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định và chưa đáp ứng được triệt để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Chính vì vậy với mong muốn nghiên cứu, hoàn thiện những vấn đề lý luận và quy định pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy cũng như khảo sát có 1 hệ thống về thực tiễn xét xử các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Nam Định, cùng với sự giúp đỡ của thầy cô giáo trong khoa Luật Học viện khoa học xã hội, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định” 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ Luật học nghiên cứu về tội phạm về ma túy, ví dụ như: Luận án tiến sĩ luật học Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy ở Việt Nam ” năm 2007, Luận văn thạc sĩ Luật học Trần Quốc Trọng: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005-2010” năm 2012, Luận văn thạc sĩ Luật học Nguyễn Thị Tuyết Lan: “Tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”, năm 2015… Các công trình nghiên cứu đó đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và tình hình tội phạm về ma túy, đưa ra nguyên nhân, các biện pháp phòng ngừa và dự báo tình hình tội phạm về ma túy nói chung, tuy nhiên đó đều là những nghiên cứu về tình hình tội phạm trên những địa bàn khác hoặc nghiên cứu chung cả nước, trong khi đó chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về lý luận và thực tiễn riêng về tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Chính vì vậy tác giả thực hiện luận văn này nhằm đi sâu nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy dưới góc độ Luật hình sự,Luật tố tụng hình sự mới nhất. Luận văn đồng thời sử dụng những số liệu và vụ án thực tế tại Nam Định để minh họa cho những hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số yêu cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy, hướng tới công cuộc đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của uận n Luận văn có mục đích nghiên cứu chính đó là làm rõ những vấn đề lý luận và đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy để từ đó làm rõ những ưu điểm, những tồn tại và đề ra giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về Tội mua bán trái phép chất ma túy. Để đạt được những mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu làm rõ các khái niệm: “Chất ma túy”, “Tội mua bán trái phép chất ma túy” và “Các dấu hiệu pháp l đặc trưng của tội mua bán trái phép chất ma túy”. Khái quát quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trong lịch sử lập pháp Việt Nam từ thời điểm chưa có LHS đến khi LHS năm 2015 có hiệu lực. - Phân tích làm rõ dấu hiệu pháp lý cụ thể của Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 của LHS năm 2015. Đánh giá các tình tiết định tội trong cấu thành tội phạm cơ bản, các tình tiết định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng trên cơ sở so sánh với LHS năm 1999. - Phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Khái quát thực tiễn xét xử Tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, từ đó đề ra một số yêu cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn về tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. 3 4.2 Phạm vi nghiên cứu: - Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 194 LHS năm 1999, Điều 251 của LHS năm 2015 về tội mua bán trái phép chất ma túy và những văn bản pháp luật có liên quan dưới góc độ pháp luật hình sự. - Về thực tiễn: Nghiên cứu tình hình xét xử tội mua bán trái phép hoặc chất ma túy giai đoạn 2013 – 2017 trên địa bàn tỉnh Nam Định. . hương h - uận c c hương h nghi n cứu Phương pháp luận của luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về đấu tranh phòng, chống tội phạm quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm ma tu cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp l như lịch sử pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học pháp l chuyên ngành. - Các phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng t về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống hóa, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh; tổng kết thực tiễn để hoàn thiện pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy. Tác giả dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến nội dung đề tài, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết năm công tác của TAND hai cấp tỉnh Nam Định để phân tích, tổng hợp các luận chứng, các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. 6. Những điểm mới - đóng gó của luận n Về mặt lý luận, luận văn là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015. - Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có nghĩa góp phần nhằm làm sáng t những vấn đề về lý luận và thực tiễn xét xử tội mua bán trái 4 phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định. Ngoài ra việc tìm hiểu thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên thực tế tại địa phương thông qua những vụ án cụ thể có liên quan góp phần đưa ra những yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về loại tội này, tạo thuận lợi cho công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm. 7. Cơ cấu của luận n Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. - Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2013-2017 - Chương 3: Yêu cầu và giải pháp áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1 Khái niệm chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy 1.1.1 Khái niệm chất ma túy  Khái niệm “chất ma túy” theo định nghĩa của các tổ chức quốc tế: - Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc:“Ma tuý là chất hoá học có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng...”. - Theo Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC), “Chất ma túy” là một thuật ngữ được sử dụng đa nghĩa: trong y học, nó đề cập đến bất kỳ chất nào có khả năng ngăn ngừa hoặc chữa bệnh hoặc tăng cường và phục hồi thể chất hoặc tinh thần trong dược học: nó có nghĩa là bất kỳ tác nhân hóa học nào làm thay đổi quá trình sinh hóa hoặc sinh lý của tế bào sinh vật. - Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (1982): “Ma tuý theo nghĩa rộng nhất là mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật”.  Khái niệm "chất ma túy" theo pháp luật Việt Nam Theo quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống ma tuý Việt Nam năm 2000 (sửa đổi năm 2008) cũng như quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLTBCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24/12/2007 thì: “Chất ma túy” là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Qua nghiên cứu nhận thấy các LHS đều không đưa ra định nghĩa về ma túy hay chất ma túy, đối với LHS năm 1999 chỉ tìm thấy tên cụ thể của một số 6 chất ma túy gồm: thuốc phiện, cần sa, côca, hêroin và côcain, đến LHS năm 2015 có bổ sung thêm một số chất ma túy gồm: Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11 và lá khát. Có thể nói việc quy định của BLHS như vậy không có nghĩa là các chất ma túy khác theo các quy định của Luật phòng chống ma túy không bị xử lý mà các chất đó được đưa vào nhóm “các chất ma túy khác”. LHS năm 1999 và LHS năm 2015 đều có một chương riêng quy định về các tội phạm về ma túy, trong các quy định này “chất ma túy” có nghĩa không hoàn toàn đồng nhất với định nghĩa của Luật phòng, chống ma túy mà nó có nghĩa rộng hơn, bao gồm cả những cây, cành, lá, rễ, thân, hoa, quả của những cây có chưa chất ma túy ví dụ như: lá cây côca quả cây thuốc phiện tươi lá, hoa, quả cây cần sa lá khát.Cách quy định như vậy của BLHS là có tiếp thu nội dung và yêu cầu của các Công ước quốc tế về ma túy, đặc biệt là Công ước về chống buôn bán hợp pháp các chất gây nghiện và chất hướng thần năm 1988. [35] Tóm lại chất ma túy là chất tự nhiên hoặc tổng hợp, gây kích thích, ức chế thần kinh, có khả năng gây ảo giác, có khả năng dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Các chất ma túy cụ thể được liệt kê trong các danh mục do Chính phủ Việt Nam ban hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 126/2015/NĐ-CP gồm có 250 chất ma túy và 43 tiền chất. [4, 5] 1.1.2 Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào ví dụ như: bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma tuý để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma tu để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy ma tuý. Như vậy có thể đưa ra khái niệm: Tội mua bán trái phép chất ma túy là những hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế 7 độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà theo quy định của pháp luật hình sự bị xử lý hình sự. 1.2 Quy định của Pháp luật Hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy Tội phạm về mua bán trái phép chất ma túy luôn là loại tội phạm nguy hiểm cần sự quản lý và theo dõi sát sao của Nhà nước. Tìm hiểu lịch sử về tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự Việt Nam có thể nhận thấy pháp luật hình sự Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến quản lý tội phạm về mua bán trái phép chất ma túy từ rất sớm và mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội, pháp luật hình sự lại có sự thay đổi tương ứng nhằm đáp ứng được các yêu cầu trong công cuộc đấu tranh, phòng, chống loại tội phạm này. Để có cái nhìn khái quát và đầy đủ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy, tác giả lựa chọn việc tìm hiểu các quy định về loại tội này thông qua từng giai đoạn cụ thể tương ứng với thời điểm ra đời các BLHS. 1.2.1 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của pháp luật giai đoạn phong kiến và thuộc địa Trong những thế kỷ trước, ma túy chưa được phân thành nhiều loại như hiện nay, chủ yếu được biết đến với tên gọi “thuốc phiện” (hay á phiện, a phiến, nha phiến) được chiết suất từ các hạt trong v mầm cây anh túc. Từ giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, pháp luật phong kiến Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện một số đạo luật đầu tiên quy định về cấm trồng, sử dụng và mua bán thuốc phiện. Dưới triều vua Mịnh Mạng và vua Tự Đức, chiếu dụ cấm thuốc phiện được ban hành tới toàn bộ dân chúng, người vi phạm có thể bị án tử. Thời kì những năm Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp, Việt Nam đã bị biến thành vùng đất mà Pháp đẩy mạnh việc công khai phát triển trồng, sử dụng và buôn bán thuốc phiện. Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ cấp bách của chúng ta lúc bấy giờ là phải tuyệt đối cấm thuốc phiện 8 bởi thuốc phiện chính là thứ mà chế độ thực dân đã đầu độc nhằm hủ hóa dân tộc ta. Ngày 22/12/1952 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 225/TTg quy định cụ thể những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Ngày 15/9/1955, Thủ tướng chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 580/TTG quy định các trường hợp phải đưa ra truy tố trước Tòa như: buôn lậu thuốc phiện có nhiều người tham gia, thủ đoạn gian dối, có giá trị hàng phạm pháp trên 1 triệu đồng… Tiếp đó ộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 635-VHH/HS ngày 29/3/1958 quy định về đường lối truy tố đối với việc đặt tiền cọc mua thuốc phiện lậu và Thông tư 33/VHH-HS ngày 05/07/1958 được ban hành để hướng dẫn đường lối truy tố xét xử buôn lậu thuốc phiện. Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 76/CP về chống buôn lậu thuốc phiện và sử dụng thuốc phiện. Trên cơ sở Nghị định này, TAND tối cao, VKSND tối cao, NV đã ra Thông tư liên ngành hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước. Xét một cách khái quát, từ khi manh nha có những đạo luật dưới dạng chiếu dụ về cấm sử dụng thuốc phiện dưới các triều phong kiến tới khi việc cấm buôn lậu thuốc phiện được đưa vào quy định rõ trong các Nghị định và Thông tư thời kì trước năm 1985, có thể nhận thấy pháp luật thời kỳ này dù đã bước đầu có quyết tâm về phòng, chống ma túy tuy nhiên các văn bản pháp luật còn nằm rải rác, quy định tương đối đơn giản, chất ma túy đề cập trong các văn bản pháp luật mới chỉ là thuốc phiện đồng thời hình phạt đối với hành vi phạm tội chủ yếu mới chỉ dừng lại ở phạt tiền vì vậy chưa có sự phân hóa trách nhiệm hình sự cao. 1.2.2 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 LHS năm 1985 là LHS đầu tiên có quy định các tội liên quan đến ma tuý tuy nhiên tại thời điểm này các quy định còn rất khái quát. Theo đó nếu hành vi mua bán trái phép chất ma túy thực hiện trong nước thì áp dụng Điều 166: “Người nào buôn bán, tàng trữ các chất may tuý, ngoại tệ hoặc buôn bán kim khí quý, đá quý thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.” Khung hình phạt cao 9 nhất quy định tại Điều luật này mới chỉ dừng lại ở phạt tù 20 năm. Nếu buôn bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì áp dụng Điều 97 quy định về tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Ngày 28/12/1989 Quốc hội đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LHS năm 1985, trong đó quy định rõ hơn tại Điều 96a - Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, đặt trong chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt cao nhất có thể bị áp dụng là tử hình. Hướng dẫn khái niệm về hành vi mua bán trái phép chất ma túy đề cập trong Điều 96a LHS 1985, Thông tư liên ngành số 09-TTLN ngày 10/10/1996 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ quy định như sau: “Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi bán hay mua, tàng trữ để bán lại bất hợp pháp (có thể là mua để bán lại chất ma tuý đó, cũng có thể là mua để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại); cũng được coi là hành vi mua bán trái phép chất ma tuý các hành vi trao đổi, thanh toán... bất hợp pháp bằng các chất ma tuý.” Trước xu hướng phát triển của xã hội và tình hình tội phạm về ma túy mỗi năm một gia tăng với những thủ đoạn tinh vi hơn, dần trở thành vấn đề nhức nhối đòi h i phải có sự quản lý chặt chẽ và gắt gao hơn nữa của pháp luật, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã kịp thời đưa quy định tại Điều 61: "... Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm...". Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, LHS năm 1985 tại lần sửa đổi thứ IV năm 1997, tội phạm ma túy đã được quy định thành một chương riêng (Chương VIIA), gồm 14 điều, quy định 13 tội danh trong đó quy định về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” tại Điều 185đ với khung hình phạt cao nhất là tử hình. 10 Có thể nói sau nhiều lần sửa đổi bổ sung, LHS năm 1985 đã trở thành LHS đầu tiên của nước ta đặt ra những quy định nghiêm khắc đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, không chỉ dừng lại ở việc quy định khung hình phạt cơ bản mà còn có cả những khung hình phạt tăng nặng với nhiều mức phạt nghiêm khắc hơn. ên cạnh đó, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/1/1998 và Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 05/8/1998 hướng dẫn chi tiết hơn về các hành vi liên quan đến tội phạm này nhằm góp phần hoàn thiện hơn các quy định của LHS năm1985 về các tội phạm về ma túy. 1.2.3 Tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 LHS năm 1999 là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta. Đây là bộ luật tương đối đầy đủ, hoàn thiện quy định chi tiết các tội phạm về ma túy trong một chương riêng (Chương XVIII) với 10 tội riêng biệt, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, khắc phục những tồn tại và hạn chế mà quy định tại BLHS năm 1985 đã không còn phù hợp với điều kiện phát triển của kinh tế, xã hội. Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 LHS năm 1999 quy định tội ghép, bao gồm 4 hành vi: tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép và chiếm đoạt chất ma túy. Song song với việc ban hành LHS năm 1999, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật phòng chống ma túy, có hiệu lực từ ngày 01/6/2001, là đạo luật đầu tiên về phòng, chống ma túy, tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn ma túy. Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc phòng chống ma túy cũng chiếm vai trò vô cùng quan trọng, bởi thế ngày 24/12/2007, TANDTC, VKSNDTC, BCA, TP đã ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của LHS năm 1999 thay thế Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT và Thông tư liên tịch số 11 02/1998/TTLT. Trước tình hình thực tiễn và nhu cầu đảm bảo sự công bằng, chính xác, khách quan đối với công tác xét xử tội phạm về ma túy, ngày 17/9/2014, TANDTC cũng ban hành Công văn số 234/TANDTC hướng dẫn các Tòa án địa phương trong việc giải quyết án ma túy. Tiếp đó, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, các cơ quan tố tụng Trung ương đã nghiên cứu và ban hành Thông tư số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/12/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17 và để hướng dẫn triển khai thực hiện Thông tư này, ngày 11/12/2015, TANDTC tiếp tục ban hành Công văn 315/TANDTC-PC và Công văn 110-CV/BCS. Nghiên cứu quy định tại Điều 194 LHS năm 1999, có thể thấy các dấu hiệu pháp l cơ bản của tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm:. - Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể trực tiếp của tội mua bán trái phép chất ma túy là chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về hoạt động mua bán chất ma túy. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP thì ma túy là loại chất gây nghiện, hướng thần vô cùng độc hại và nguy hiểm, do tính chất đặc biệt đó của nó mà chỉ có Nhà nước mới có thể độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy với những quy định hết sức nghiêm ngặt. [4] Đối tượng tác động của tội mua bán trái phép chất ma túy chính là các chất ma túy. Liên hợp quốc đã có các Công ước quy định rất cụ thể danh mục các chất ma túy, các chất hướng thần, đó là: Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 [18] Công ước về các chất hướng thần năm 1971 [19] Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988 [20]. Theo các công ước đó Liên hợp quốc chính thức công nhận có 225 chất ma túy và 22 tiền chất. 12 Các chất ma túy thường gặp và là đối tượng phổ biến của các tội phạm về ma túy bao gồm: thuốc phiện (nhựa thuốc phiện hay còn gọi là nhựa đặc của cây anh túc); cần sa (phần ngọn mang hoa và quả của cây cần sa mà nhựa chưa được chiết ra); nhựa cần sa (lá của cây coca-lá chưa dùng để chiết xuất); moocphin (chất chiết từ thuốc phiện); côcain; hêroin; chất hướng thần như amphetamine các tiền chất ma túy; các tiền chất hướng thần; cây trồng có chứa chất ma túy như cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác chưa chất ma túy; các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy (quả thuốc phiện ở dạng khô và dạng tươi) … Hiện nay pháp luật Việt Nam xác định có tất cả 250 chất ma túy và 43 tiền chất được chia thành các danh mục ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ, sửa đổi bổ sung tại Nghị định 126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015. Theo đó chất ma túy và tiền chất được phân chia thành 04 danh mục: Danh mục I: Các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Alphacetylmethadol, Cần sa và các chế phẩm từ cần sa, Heroine, MDMA,… Danh mục II: Các chất ma túy dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y thế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Lá Coca, Cocaine, Acetylmethadol, Benzenthidine,… Danh mục III: Các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ như: Alprazolam, Benzfetamine, Camazepam, Phentermine,… Danh mục IV: Các tiền chất. Ví dụ như: Alpha-phenyl acetoacetonitrile (APAAN), Gamma-butyro lactone (GBL),… 13 - Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội. Với tội mua bán trái phép chất ma túy, mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy chính là các hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Khoản 1 Điều 194 LHS năm 1999 quy định người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Hành vi mua bán trái ph p chất ma túy tại điều luật này đã được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 3.3 mục II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, là một trong các hành vi sau đây: a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác: Đây là hành vi phổ biến nhất của tội mua bán trái phép chất ma túy, dù là người bán đã dùng ma túy mà mình có dưới bất kì hình thức nào (mua, xin, nhặt, cầm hộ hoặc chiếm được… ) để bán cho người khác thì đều nhằm mục đích thu lợi nhuận hoặc hưởng lợi ích nhất định từ việc bán đó. b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi mà người phạm tội dùng tiền, tài sản để có được chất ma túy, dùng chất ma túy có được đó bán cho người khác kiếm lời. Trường hợp này việc có được chất ma túy của người phạm tội xuất phát từ hành vi mua trái phép chất ma túy, các cơ quan tố tụng chứng minh được nguồn gốc ma túy là do người phạm tội mua mà có (không phải do xin, chiếm đoạt, hay do sản xuất mà có) đồng thời chứng minh được mục đích của người phạm tội là dùng chất ma túy mua được đó để bán, không quan trọng là hành vi bán đó đã thực hiện hay chưa. 14 c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi mà người phạm tội dùng lời nói hoặc hành động để người khác cho mình chất ma túy, sau đó bán lại chất ma túy xin được cho người khác nhằm kiếm lời. d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có): Hành vi người phạm tội sử dụng ma túy như vật có giá trị tương đương với tài sản để thanh toán cho nhu cầu của mình. đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác: Hành vi phạm tội này sử dụng tài sản không phải tiền như: vật, giấy tờ có giá, các quyền tài sản,… để đem trao đổi thanh toán lấy chất ma túy nhằm bán lại trái ph p cho người khác. e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi này khác với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở điểm cơ bản là mục đích của việc tàng trữ đó là nhằm bán trái phép chất ma túy đó cho người khác chứ không phải là để sử dụng cho bản thân. g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi chuyển dịch chất ma túy từ nơi này đến nơi khác hoặc từ người này sang người khác bằng bất kì phương tiện và cách thức nào đồng thời luôn phải có mục đích là bán trái phép chất ma túy cho người khác. Cũng tại phần này, pháp luật cũng quy định thêm đối với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy vừa được liệt kê như trên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi khách quan này vì vậy các dấu hiệu về công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả do tội phạm gây ra,… không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với loại tội phạm này. - Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan là những hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu pháp lý: Lỗi, động cơ và mục đích. 15 Yếu tố lỗi là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định tội phạm và TNHS. Người phải chịu TNHS theo luật hình sự Việt Nam không phải đơn thuần chỉ là người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà còn phải đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Với tội mua bán trái phép chất ma túy, người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý, không chỉ nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, thấy được tác hại do hành vi của mình gây ra mà còn vẫn cố tình thực hiện hành vi đó. Dù hành vi mua bán trái ph p chất ma túy được thực hiện với động cơ hay mục đích nào thì đây là lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ, mục đích của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy rất đa dạng nhưng hai yếu tố này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội mua bán trái phép chất ma túy. - Chủ thể của tội phạm: Theo quy định của LHS năm 1999, chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Năng lực TNHS là khả năng của một người ở thời điểm thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nhận thức được hành vi đó của mình là nguy hiểm và điều khiển một cách có ý thức được hành vi đó. Từ đó năng lực TNHS là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và chỉ có người có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Nghiên cứu quy định về phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 và Điều 194 LHS năm 1999 thì: người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS phải chịu TNHS thuộc bất kỳ khoản nào của Điều 194 LHS năm 1999. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, mà chỉ chịu TNHS thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, 3 và 4 của Điều 194 LHS năm 1999. 16 Khoản 1 Điều 194 LHS năm 1999 quy định về cấu thành tội phạm cơ bản của tội mua bán trái phép chất ma túy, theo đó người có hành vi mua bán trái phép chất ma túy sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.  Các dấu hiệu định khung tăng nặng Khoản 2,3,4 Điều 194 LHS năm 1999 quy định về các tình tiết định khung tăng nặng đối với loại tội phạm này, mức hình phạt tương ứng bao gồm phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Tại khoản 2 Điều 194 LHS năm 1999 có quy định các tình tiết tăng nặng bao gồm: a) Có tổ chức; Đây là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 LHS năm 1999), người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức (khoản 2 Điều 20 LHS năm 1999). Như vậy phạm tội mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy dưới sự điều khiển thống nhất của “người tổ chức”. Người tổ chức việc mua bán trái phép chất ma túy là người khởi xướng, cầm đầu việc mua bán trái phép chất ma túy. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, trực tiếp thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Người xúi giục là người thực hiện các hành vi tác động lên một người khác (kích động, dụ dổ, thúc đẩy, khuyến khích,…) nhằm làm cho người đó thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Người giúp sức là người tạo các điều kiện giúp đỡ thể hiện qua việc giúp cung cấp địa chỉ, phương tiện, tiền hoặc các vật chất khác… nhằm giúp cho hành vi mua bán trái phép chất ma túy được diễn ra. Phạm tội mua bán trái phép chất ma túy có tổ chức có thể có đủ những người đồng phạm, cũng có trường hợp không đủ tất cả các loại đồng phạm, tuy nhiên luôn luôn phải có người tổ chức 17 và người thực hành. Nếu thiếu một trong hai người này thì không thể có phạm tội có tổ chức. [19, tr. 105] b) Phạm tội nhiều lần; Tiểu mục 2.3 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT - BCA VKSNDTC - TANDTC - TP có hướng dẫn cụ thể: "Phạm tội nhiều lần là phạm từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng một khoản của điều luật) tương ứng trong phần riêng LHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử". Như vậy tình tiết "phạm tội nhiều lần" đối với tội mua bán trái phép chất ma túy được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy, hai lần bán trái phép chất ma túy) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu điều luật có quy định về số lượng chất ma túy để định khung hình phạt. c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Dựa vào hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT - BCA - VKSNDTC - TANDTC – BTP, tình tiết "lợi dụng chức vụ quyền hạn" được hiểu là người phạm mua bán trái phép chất ma túy đã dựa vào chức vụ, quyền hạn mà mình được đảm nhiệm để thực hiện hành vi phạm tội. Điều 277 LHS năm 1999 cũng có quy định: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ Như vậy đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, tình tết lợi dụng chức vụ, quyền hạn có thể được hiểu là việc người phạm tội dựa vào chức vụ, quyền 18 hạn mà mình đảm nhiệm để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội này. Thực tiễn cho thấy do tính chất siêu lợi nhuận của ma túy mà không ít người có chức vụ trong các cơ quan có chức năng phòng chống ma túy lại chính là những người tham gia vào các đường dây buôn bán ma túy. Sự góp mặt của họ như một hình thức bảo kê đối với tội phạm, thông qua những chức vụ, quyền hạn của mình, họ có thể bao che, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho tội phạm tiến hành hành vi phạm tội trót lọt. Do vậy việc LHS quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn là tình tiết khung tăng nặng của tội mua bán trái phép chất ma túy là rất cần thiết và hợp lý d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Tình tiết này được hưỡng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT - BCA - VKSNDTC - TANDTC - BTP cụ thể: người phạm tội đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc công tác để thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để mua bán trái phép chất ma túy là trường hợp người phạm tội thông qua danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để mua bán trái phép chất ma túy. Việc lợi dụng này thường xảy ra đối với trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong cơ quan, tổ chức, song cũng có thể chỉ đơn thuần là do người không hề có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhưng tự mượn danh nghĩa, lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức của mình để thực hiện hành vi phạm tội. đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; Đây là tình tiết quy định tính chất phạm vi về không gian của hành vi phạm tội. Không gian này được xác định theo lãnh thổ quốc gia. Mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới là việc mua bán ma túy từ nước này sang nước khác, dưới bất kỳ hình thức nào, chỉ quy định “qua biên giới”, không giới hạn chỉ qua biên giới Việt Nam với các nước có biên giới với Việt Nam, hay biên giới giữa 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan