Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam...

Tài liệu Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

.PDF
90
294
55

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NGỌC DIỆN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NGỌC DIỆN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI 2 HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Ngọc Diện MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT ............................................................ 7 1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị bắt .................................................................................................................. 7 1.2. Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam ............................................................................................ 16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................ 41 2.1. Tổng quan thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................. 41 2.2. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của người bị bắt trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ................................................................ 44 2.3. Những kết quả, vi phạm, sai lầm và nguyên nhân ................................... 47 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT ................................................................................... 64 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt ............................................................................... 64 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tố tụng hình sự vềbảo đảm quyền con người của người bị bắt ........................................................... 70 3.3. Một số giải pháp khác .............................................................................. 76 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự BPNC : Biện pháp ngăn chặn CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng NTHTT : Người tiến hành tố tụng QCN : Quyền con người THA : Thi hành án TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS/VKSND : Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng 2.1: 2.2: Bảng thống kê các trường hợp bắt và tạm giữ từ năm 2012 – 2016 Bảng thống kê các trường hợp bắt và tạm giam từ năm 2012 – 2016 Trang 51 54 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo vệ quyền con người là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc gia của mình dựa trên các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để bảo đảm các quyền con người được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước ta đã không ngừng thể chế hóa nội dung quyền con người trong các quy định của pháp luật, đã tham gia ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế về bảo đảm quyền con người. Các cơ quan, cá nhân bảo vệ pháp luật không ngừng tạo cho mọi người có môi trường tự do, bình đẳng để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ con người khỏi các hành vi xâm hại. Bảo đảm quyền con người không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận nó mà còn phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành, mọi người tham gia. Hoạt động áp dụng BPNC bắt người là hoạt động phức tạp, nhạy cảm, là hoạt động mà quyền con người dễ bị xâm phạm nhất. Bắt người là một chế định pháp lý trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đây thực chất là các biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền của con người. Mục đích của các BPNC là để đảm bảo cho các CQTHTT thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các biện pháp ngăn chặn này cũng nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhưng mặt khác, những BPNC cũng như các hoạt động của các CQTHTT, NTHTT cũng rất dễ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của công dân, đến quyền con người. Cho nên vấn đề đặt ra là CQTHTT, NTHTT cần có nhận thức đầy đủ về quyền con người và tầm quan trọng của việc bảo đảm nó. 1 Đồng thời cần phải hiểu rõ các quy định pháp luật về việc đảm bảo quyền con người, bên cạnh nó cần nắm bắt trình tự thủ tục cũng như điều kiện áp dụng BPNC bắt người. Đây vấn đề rất quan trọng để các chủ thể thực thi pháp luật tránh những vi phạm về quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà Hiến pháp đã quy định. Ngoài ra còn nâng cao nhận thức của công dân tự bảo vệ những quyền cơ bản của mình trong hoàn cảnh bị áp dụng BPNC bắt người, từ đó có những phản hồi tích cực giúp cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảm quyền con người hơn nữa trong hoạt động tố tụng của mình. Thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình trong những năm qua cho thấy có nhiều trường hợp vi phạm QCN đối với người bị bắt trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng đối với người bị bắt. Vì vậy trên cơ sở thực tiễn, những quy định của pháp luật tố tụng về việc áp dụng BPNC bắt người cũng như việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động này, nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết và vô cùng quan trọng cho sự phát triển bền vững. Đặc biệt trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì đây là yếu tố cần được chú ý quan tâm hơn nữa. Với lý do nêu trên tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý nước ta vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các mức độ và góc độ khác nhau. Đối với người bị buộc tội nói chung, người bị bắt trong tố tụng hình sự nói riêng cũng có nhiều công trình đã đề cập nghiên cứu. Ở phạm vi nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền con 2 người nói chung trong tố tụng hình sự, cụ thể có nhiều công trình đã công bố như: Sách chuyên khảo: “Quyền con người”, năm 2015 do GS,TS Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB Khoa học xã hội. Sách chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người”, năm 2011 do GS, TSVõ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội. Sách:“Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam”, năm 2010, NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Sách: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Trần Quang Tiệp (2004), NXB chính trị quốc gia Hà Nội. Sách: “Một số vấn đề về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Vũ Văn Nhiêm (2010), NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các công trình tiêu biểu khác như: Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đặng Công Cường (2013), “Vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay”,của tác giả Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Ở cấp độ các bài báo, tạp chí khoa học có thể kể đến: Bài viết của tác giả Nguyễn Tiến Đạt (2006), Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, Tạp chí khoa học pháp lý số 3 (34); Bài viết của tác giả Đắc Minh (2014), Công dân có quyền im lặng khi bị bắt, TANDTC - Công lý số 86, thứ 6 ngày 24/10; Bài viết của tác giả Bình Sơn (2014), Sôi động về quyền im lặng, Tạp chí dân chủ và pháp luật-BTP, số 11 (272); Các công trình trên các tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng. Bước đầu đã đặt nền móng cho việc đặt quyền con người lên hàng đầu. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào tiếp cận một cách trọn v n, toàn diện, hệ thống, đồng bộ về vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn một địa bàn nghiên cứu, cụ thể là tại tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng, cũng như các công trình nghiên cứu mà mình tiếp cận được, tác giả vận dụng đi sâu nghiên cứu về việc 3 bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghi n c u Mục đích của luận văn là nhằm đưa ra những giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. 3.2. Nhiệm vụ nghi n c u Một là làm sáng tỏ một số cơ sở lý luận quy định về bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng nói chung và trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người nói riêng. Hai là đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền con người trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người của cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Quảng Bình qua đó chỉ ra những điểm còn thiếu sót, chưa hợp lý trong quy định của pháp luật áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người với việc bảo đảm quyền con người. Ba là đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người. 4. Đối t ng và ph m vi nghiên cứu 4.1. ối tư ng nghi n c u Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. 4.2. hạm vi nghi n c u Đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu được bao quát trong phạm vi liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. Do giới hạn của 4 luận văn chỉ nghiên cứu bảo đảm quyền của người bị bắt theo quy định của BLTTHS nên tác giả chỉ nghiên cứu bảo đảm quyền của người bị bắt gồm: Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, quả tang, truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ. 5. Ph ng ph p uận và ph ng ph p nghiên cứu 5.1. hương pháp luận Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận, thế giới quan của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. 5.2. hương pháp nghi n c u Các phương pháp cụ thể được s dụng trong quá trình nghiên cứu kết hợp việc s dụng các phương pháp như phương pháp lý luận, phân tích, so sánh, chứng minh được s dụng để làm rõ những vẫn đề lý luận chung về bảo đảm quyền con người của người bị bắt. Phương pháp nghiên cứu, lý luận, phân tích, hệ thống, đối chiếu, suy luận, logic được s dụng để làm rõ các vấn đề thực trạng về quyền con người của người bị bắt từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic được s dụng để kiến nghị hoàn thiện các giải pháp bảo đảm quyền con người của người bị bắt. 6. Ý ngh a uận và thực tiễn của uận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong pháp luật tố tụng hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật và đánh giá khách quan thực tiễn bảo đảm quyền con người trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người, từ đó đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong hoạt động trên. 5 Đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người và tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong luật tố tụng hình sự Việt nam. 7. C cấu của uận văn Ngoài lời cam đoan, bảng chữ viết tắt, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm ba chương: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị bắt. - Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị bắt trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. - Chương 3: Các giải pháp bảo đảm quyền con người của người bị bắt 6 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BẮT 1.1. Một số kh i niệm iên quan đến bảo đảm quyền con ng ời của ng ời bị bắt 1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người Quyền con người là một phạm trù đa diện, rất rộng, đa dạng, có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau (như: lịch s , văn hóa, xã hội học, chính trị học, triết học, luật học, quan hệ quốc tế....), do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố [40, tr.4]. Tuy nhiên mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc thì: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [20 tr.21], [39]. Với khái niệm trên đã chỉ ra quyền con người là những quy định của pháp luật nhằm bảo đảm nhân phẩm, tự do cơ bản của con người không bị xâm phạm. quan điểm này còn mang tính chung chung chưa cụ thể, chưa bộc lộ được hết những thuộc tính của quyền con người. Bên cạnh đó, quyền con người còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người [20, tr.21]. 7 Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh thì quyền con người gắn chặt với hoạt động xã hội, các mối quan hệ xã hội và các phương thức sống của cá nhân. Quyền con người là biểu hiện tiêu chí tác động qua lại, củng cố các mối liên hệ, phối hợp hành động và hoạt động giữa con người và con người, ngăn ngừa các mâu thuẫn đối đầu và xung đột giữa họ trên cơ sở kết hợp tự do cá nhân với tự do của những người khác, với hoạt động bình thường của nhà nước và xã hội. Những quyền như quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, quyền được bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được tự do ngôn luận, tự do chính kiến, tự do tín ngưỡng, được tham gia vào các quá trình chính trị là những điều kiện cần thiết để con người tổ chức đời sống trong xã hội văn minh và cần phải được nhà nước thừa nhận và bảo vệ một cách vô điều kiện [48, tr.13]. Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Từ việc đánh giá làm rõ khái niệm về quyền con người tác giả luận văn xây dựng khái niệm quyền con người như sau: Quyền con người là những nhu cầu, l i ích vốn có, tự nhi n. ư c áp dụng cho tất cả mọi cá nhân, không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất c chủ thể nào. Mọi quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối li n hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. ư c ghi nhận trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. 1.1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người Có thể thấy quyền con người chỉ có giá trị khi nó được bảo đảm. Và vì vậy, khái niệm bảo đảm quyền con người là khái niệm luôn gắn với khái niệm 8 quyền con người. Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi nhận và thực hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về các quyền con người vào trong pháp luật mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào quyền tự nhiên của con người, bởi tự thân những quyền tự nhiên không thể tự mình vận hành trong một xã hội rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc gia. Phải thông qua Nhà nước, thì những cam kết quốc tế về quyền con người mới hình thành nên những địa vị pháp lý của con người, đồng thời quyền con người chỉ được bảo đảm khi được quy định bằng pháp luật và có cơ chế bảo đảm, vận hành bởi pháp luật. Do đó, bảo đảm quyền con người là sự kết hợp địa vị pháp lý và địa vị thực tế của con người trong xã hội, là một trong những biểu hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính tích cực công dân. Các quyền kinh tế, chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để thực hiện quyền và tự do của con người. Chúng chỉ trở thành những bảo đảm quyền con người qua hình thức pháp lý và những nỗ lực tổ chức bảo đảm thực hiện của Nhà nước. Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là đảm bảo cho những người đó có địa vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định. Tuy nhiên, bảo đảm QCN trong TTHS không chỉ là sự ghi nhận về mặt pháp lý các QCN trong TTHS, bảo vệ và bảo đảm thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Bảo đảm quyền con người của người phải là sự bảo đảm cho các chủ thể mang quyền được thực hiện đầy đủ và hợp pháp các quyền được đề cập trong các quy định của pháp luật [32]. Tác giả Vũ Văn Nhiêm cho rằng: Bảo đảm quyền con người bằng pháp luật được coi là biện pháp cơ bản, có hiệu lực và hiệu quả nhất. Bởi lẽ bảo vệ quyền con người ở nước ta hiện nay gắn liền với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân và chỉ có thể được thực hiện 9 thông qua biện pháp pháp luật. “Đảng ta đã nhiều lần khẳng định mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là do con người và vì con người. Do vậy việc hướng đến mục tiêu giải phóng con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người chính là mục đích nội tại của Đảng và Nhà nước ta” [30, tr.163]. Qua nghiên cứu khái niệm bảo đảm quyền con người mà các nhà khoa học đã đưa ra thì ta có thể nhận thấy việc bảo đảm quyền con người nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng bao hàm các đặc điểm: Đó là sự điều chỉnh về mặt lập pháp, sự thực thi về mặt hành pháp, và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp, nhằm mục đích làm cho quy định của pháp luật các quốc gia phù hợp với các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế, làm cho các quy định pháp luật này được tuân thủ, chấp hành và áp dụng nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để, tạo lòng tin ở công dân. Cho nên việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực này không thể chỉ quy định chung chung mà cần phải rõ ràng, cụ thể. Hơn nữa trong lĩnh vực tố tụng hình sự thì vấn đề bảo đảm quyền con người càng quan trọng hơn nữa. Bởi lẽ hoạt động tố tụng là hoạt động linh hoạt, nhạy cảm, áp dụng quy phạm pháp luật cho nên quyền con người dễ bị vi phạm hơn hết vậy nên bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là nhiêm vụ hàng đầu và vô cùng quan trọng. Vì vậy, theo tác giả, bảo đảm quyền con người là sự ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền con người, để quyền con người đư c tôn trọng và thực thi trên thực tế, mặt khác có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn những nguy cơ, hành vi có thể xâm phạm đến quyền con người. B n cạnh đó bảo đảm cũng có thể hiểu là phải chắc chắn và luôn đư c thực hiện. Việc bảo đảm tốt các quyền con người sẽ giúp giảm thiểu, ngăn ngừa những mâu thuẫn xã hội, củng cố sự đoàn kết nhất trí, thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của một đất nước, qua đó góp phần bảo đảm an ninh quốc gia. 1.1.2. Khái niệm người bị bắt, phân loại người bị bắt Hoạt động bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị, xã hội vì bắt người đúng hay không đúng các quy định của pháp luật có liên quan 10 và ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của công dân: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, vấn đề bắt người quy định trong Tố tụng hình sự luôn đòi hỏi phải đảm bảo tính chặt chẽ, mang lại hiệu quả, để góp phần hoàn thiện pháp luật. Mặt khác, bắt người là biện pháp ngăn chặn cần phải được đánh giá hiệu quả thực tiễn của nó trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm phát huy tác dụng tích cực, khắc phục những hạn chế. Theo Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã đưa ra khái niệm về bắt người như sau: “ ể kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn c ch ng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn” trong đó có biện pháp bắt BLTTHS 2015 khoản 1 Điều 109: “ ể kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn c ch ng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng”...trong đó có biện pháp ngăn chặn bắt [3]. Theo tác giả, khái niệm người bị bắt được phát biểu như sau: “Người bị bắt là người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, bao gồm bị can, bị cáo, người đang bị truy nã, người đang bị dẫn độ hoặc thậm chí là người chưa bị khởi tố về hình sự có thể bị áp dụng trong những trường h p khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật tạo điều kiện thuận l i cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.” Theo quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 11 quy định: “Các trường h p bắt người gồm bắt người bị tạm giữ trong trường h p khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị y u cầu dẫn độ”. Như vậy, người bị bắt được phân loại trong các trường hợp sau đây: 1.1.2.1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét x để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét x và thi hành án hình sự. Đối tượng của việc bắt người để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét x không phải là đối tượng bắt tạm giam. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất, vì thế không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam. Việc quyết định bắt bị can bị cáo để tạm giam không phải căn cứ vào tính chất của tội phạm đã xảy ra, nhân thân người phạm tội và thái độ của người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm. Điều đó có nghĩa là chỉ được bắt để tạm giam đối với một người khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội mà xét thấy đáng bắt để tạo điều kiện cho việc điều tra x lý tội phạm. Người phạm tội nhưng không đáng bắt thì kiên quyết không bắt.Đối với họ có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Ví dụ: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét x thì không cần bắt tạm giam. Đối với những bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nghiêm trọng như phạm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giết người, cướp tài sản hoặc phạm các tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng họ sẽ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có hành động cản trở việc điều tra, xét x thì cần kiên quyết bắt để tạm giam. 12 1.1.2.2. Bắt người trong trường h p khẩn cấp Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định chỉ được bắt khẩn cấp khi có một trong các căn cứ (trường hợp) sau đây: Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm tra, xác minh các tin tức thu thập chứng cứ và có đủ cơ sở để khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng nên cần bắt ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội. Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Đây là trường hợp hành vi phạm tội đã được thực hiện, người phạm tội không bị bắt ngay lúc đó, nhưng người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm tận mắt chứng kiến hành vi phạm tội và trực tiếp xác định đúng là người đã thực hiện tội phạm, xét thấy cần phải ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra chưa có đủ tài liệu, chứng cứ xác định một người phạm tội, mới phát hiện được những dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người đó và từ những dấu vết ấy mà người đó bị nghi thực hiện một tội phạm. Nếu xét thấy cần bắt ngay để ngăn chặn việc họ trốn 13 hoặc tiêu hủy chứng cứ, thì phải ra lệnh bắt khẩn cấp. 1.1.2.3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải điều tra, xác minh. Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đang thực hiện tội phạm là trường hợp phạm tội quả tang thường gặp trong thực tế. Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện. Trường hợp thứ hai: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp kẻ phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Trường hợp thứ ba: Đang bị đuổi bắt. Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong hoặc đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Bắt người đang bị truy nã không nằm trong các trường hợp bắt người phạm tội quả tang, vì hành vi của người đang bị truy nã là hành vi bỏ trốn sau khi đã thực hiện tội phạm. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn chặn người phạm tội quả tang nên BLTTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang. 1.1.2.4. Bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Theo quy định Luật tương trợ tư pháp thì dẫn độ là một hình thức hợp tác tương trợ tư pháp giữa các nước. Theo đó nước được yêu cầu sẽ bắt giữ và chuyển giao người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc người đã bị Tòa án của 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan