Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh phú yên...

Tài liệu Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh phú yên

.PDF
91
556
100

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ............…/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ TUYẾT VY BẢO ĐẢM PHÁP LÝ THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở TỈNH PHÚ YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LƢƠNG THANH CƢỜNG THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin nêu trong luận văn là trung thực, chính xác. Các trích dẫn trong luận văn đều được chú thích đầy đủ và chính xác. Các kết quả trình bày trong luận văn không trùng lắp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố. Học Viên Nguyễn Thị Tuyết Vy Lời Câm Ơn Với tình câm trån trọng nhçt, tác giâ xin gửi lời câm ơn chån thành và såu sắc tới PGS.TS Lương Thanh Cường, Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giâ trong quá trình hoàn thành Luận văn Thäc sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bâo đâm pháp lý thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở tînh Phú Yên. Xin trån trọng câm ơn Ban Giám đốc, các thæy giáo, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình, chu đáo trong quá trình tham gia giâng däy và truyền đät kiến thức cho tác giâ. Xin được bày tô lời câm ơn chån thành đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của Học viện Hành chính Quốc gia đã täo điều kiện thuận lợi nhçt cho tác giâ trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình cao học cũng như hoàn thành Luận văn này. Xin được gửi lời câm ơn chån thành đến lãnh đäo và công chức cơ quan Hội Nông dån huyện và Ban Tổ chức Huyện ủy Tåy Hoà nơi tác giâ đã và đang công tác, các cơ quan ở huyện Sông Hinh và thành phố Tuy Hòa, tînh Phú Yên đã täo điều kiện thuận lợi cho tác giâ trong quá trình khâo sát, lçy số liệu, hoàn thành Luận văn này. Kính mong nhận được sự góp ý của quý thæy giáo, cô giáo, đồng nghiệp, các học viên Học viện Hành chính Quốc gia và quý bän đọc để Luận văn được hoàn thiện và hữu ích hơn. Xin trån trọng câm ơn! Học Viên Nguyễn Thị Tuyết Vy MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN BẢO ĐẢM PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN .................................................................................................. 10 1.1. Quan niệm về quyền tiếp cận thông tin ............................................... 10 1.1.1. Thông tin ....................................................................................... 10 1.1.2 Quyền tiếp cận thông tin ................................................................ 11 1.1.3 Ý nghĩa của quyền TCTT................................................................ 15 1.1.4. Chủ thể thực hiện quyền TCTT ..................................................... 18 1.1.5. Nội dung quyền TCTT ................................................................... 20 1.1.6. Những nguyên tắc của quyền TCTT.............................................. 21 1.2. Bảo đảm pháp lý quyền tiếp cận thông tin ........................................... 25 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm pháp lý quyền TCTT..................... 25 1.2.2. Các bảo đảm pháp lý quyền tiếp cận thông tin............................. 27 1.3. Các yếu tố tác động đến bảo đảm pháp lý quyền TCTT...................... 36 1.3.1. Nhu cầu thông tin và nhận thức về quyền TCTT .......................... 36 1.3.2. Năng lực, trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp thông tin38 1.3.3. Sự phát triển của công nghệ thông tin .......................................... 39 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 41 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở TỈNH PHÚ YÊN ... 43 2.1. Thực trạng bảo đảm pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên .............................................................................................................. 43 2.1.1. Thực trạng các quy định của chính quyền tỉnh Phú Yên về bảo đảm quyền TCTT ..................................................................................... 43 2.1.2. Thực trạng các hoạt động bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân ở tỉnh Phú Yên ............................................................. 47 2.1.3. Nhận xét về các bảo đảm pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên ............................................................................................ 53 2.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm pháp lý về quyền TCTT ở tỉnh Phú Yên59 2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền TCTT .............................. 59 2.2.2. Nâng cao nhận thức về quyền TCTT ............................................ 60 2.2.3. Tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả Luật TCTT .................... 64 2.2.4. Đẩy mạnh công khai, minh bạch hoạt động của chính quyền địa phương .................................................................................................... 65 2.2.5. Tăng cường giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền TCTT ....................................................................................................... 68 2.2.6. Các giải pháp khác ....................................................................... 69 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 72 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 2. HRC : (Human rights committee) Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc 3. HĐND : Hội đồng nhân dân 4. TCTT : Tiếp cận thông tin 5. TTHC : Thủ tục hành chính 6. UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Thông tin là một nhu cầu khách quan, thực tế của con người. Thông tin gắn bó chặt chẽ, mật thiết và có tính quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Thông tin tạo ra các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật và các cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử. Mọi tri thức của nhân loại đều được cập nhật, lưu trữ và phổ biến dưới dạng thông tin. Chính vì vậy, nhu cầu về thông tin đang gia tăng một cách nhanh chóng. Tiếp cận thông tin trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần phải bảo đảm đối với mọi công dân bởi thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách và hoạt động của các cơ quan nhà nước được coi là yếu tố cốt yếu trong mọi hoạt động khi xã hội được quản lý, vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Tiếp cận thông tin (TCTT) là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Tôn trọng và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin là một xu thế tiến bộ và mang tính chất tất yếu trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Quyền TCTT được tôn trọng giúp người dân trong một quốc gia có thể biết và giám sát một cách chặt chẽ những việc mà nhà nước làm, giảm thiểu những hành vi lạm quyền, tham nhũng và những hành vi khác đi ngược lại lợi ích của người dân. Pháp luật về quyền TCTT có vai trò quan trọng trong việc quy định quyền của người dân khi tiếp cận với những thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ, đảm bảo cho người dân thực hiện quyền TCTT một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Quyền TCTT đã được thừa nhận và quy định rộng rãi trong hệ thống pháp luật quốc tế và hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, các chính sách, Hiến pháp và luật của nước ta trước đây chỉ quan tâm chủ yếu đến quyền của người dân được phổ biến, được tuyên truyền các đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, đến việc công 1 khai, công bố các văn bản của các cơ quan nhà nước. Quyền thông tin là quyền rất mới ở Việt Nam, chỉ đến năm 1992, lần đầu tiên Hiến pháp đã ghi nhận “quyền được thông tin” của công dân (Điều 69, Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001). Tuy nhiên, đó vẫn là tinh thần cũ, người dân là đối tượng thụ động tiếp nhận thông tin từ các cơ quan nhà nước. Đến gần đây, “quyền tiếp cận thông tin” mới được ghi nhận một cách đầy đủ hơn tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013. Cùng với đó, Luật Tiếp cận thông tin được Quốc hội thông qua ngày 06/4/2016, có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/7/2018 tới đây là một động thái cho thấy, Nhà nước ta đã nhận thức và đang từng bước hoàn thiện cơ chế đảm bảo cho quyền TCTT dần được ứng dụng vào đời sống. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, chủ yếu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, việc hiểu và thực hiện quyền TCTT của nhân dân tỉnh Phú Yên còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như thể chế chưa hoàn thiện, nhận thức của xã hội về TCTT chưa được nâng cao, việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập, chưa có hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết,... việc thực hiện quyền TCTT ở tỉnh Phú Yên chưa đạt được những kết quả như mong muốn. Người dân chủ yếu tiếp cận thông tin thông qua các cơ quan báo chí, mạng lưới đài phát thanh, truyền hình Trung ương, địa phương, qua người quen,… Bên cạnh đó, hoạt động công khai, minh bạch thông tin trong quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước chưa đem lại hiệu quả. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa còn chịu nhiều khó khăn hơn do bị hạn chế bởi điều kiện về cơ sở hạ tầng và thậm chí là ngôn ngữ khiến nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật khó đến được với nhân dân, khó để người dân hiểu và thực hiện đúng. Người dân có quyền được biết thông tin theo quy định của pháp luật nhưng hiện rất ít người nhận thức được quyền này của mình. Từ đây, những thông tin chính sách kinh tế - xã hội của địa phương chưa được người dân tiếp cận một cách đầy đủ và chính xác. Đây là một trong những lý do khiến Phú 2 Yên chưa thể khai thác tối đa các tiềm năng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Từ các lý do trên cho thấy, việc chọn và nghiên cứu về th c hi n u n ti c n th ng tin t nh h h n là yêu cầu khách quan, tất yếu, cấp thiết cả về lý luận cũng như thực tiễn, tạo điều kiện cho cá nhân tại tỉnh Phú Yên có thể sử dụng quyền này một cách hợp pháp và hợp lý, đảm bảo lợi ích chính đáng, khai thác thông tin một cách chính xác tạo đà cho sự phát triển của tỉnh nhà. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Kể từ thời điểm quyền được thông tin được đề cập trong Hiến pháp năm 1992, quyền TCTT được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và đặc biệt là từ khi Luật TCTT được đưa vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội thì số lượng sách, bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến quyền TCTT phát triển một cách mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ, quyền TCTT có sức thu hút lớn về mặt khoa học và thực tiễn. Việc nghiên cứu về quyền TCTT đã được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp trong các cuộc hội thảo, các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn, các bài nghiên cứu của các nhà khoa học trong những năm gần đây: Cuốn sách “Tiếp cận thông tin: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và Việt Nam”, GS.TS Nguyễn Đăng Dung và đồng chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu của nhiều tác giả, cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể, toàn diện về nhiều khía cạnh khác nhau của quyền tiếp cận thông tin: lịch sử hình thành, các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật các nước và của Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin. Bài viết “Quyền tiếp cận thông tin – quy định quốc tế và đặc điểm chung của luật một số nước” của TS. Tường Duy Kiên đăng trên tạp chí 3 Nghiên cứu lập pháp số 112 – 114 (tháng 1/2008). Từ lịch sử phát triển, tác giả đã nêu được nội hàm, các khía cạnh của khái niệm quyền TCTT; phân tích cụ thể các đặc điểm chung của Luật TCTT của một số nước trên thế giới. Bên cạnh đó, tác giả cũng đi sâu phân tích những lợi ích của QTCTT như: tăng cường mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và công dân, giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17 (154), tháng 9/2009. Đây là số chuyên đề về quyền TCTT do Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp phối hợp với Tạp chí nghiên cứu lập pháp xuất bản. Cuốn tạp chí tập hợp các bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả như: Thái Vĩnh Thắng (2009), Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân; Dương Thị Bình (2009), Thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam; Nguyễn Thị Hạnh (2009), Sự cần thiết ban hành luật tiếp cận thông tin; Mai Thị Kim Huế (2009), Phạm vi chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin; Chu Thị Thái Hà (2009), Thông tin được tiếp cận và nội hàm của quyền tiếp cận thông tin; Nguyễn Thị Thu Vân (2009), Cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin… Nội dung các bài viết đã đề cập đến những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất liên quan đến quyền TCTT như thực trạng về quyền TCTT và sự cần thiết ban hành Luật TCTT ở Việt Nam, những nội dung cốt lõi của Luật TCTT đặc biệt là cơ chế đảm bảo quyền TCTT. Số chuyên đề cũng cung cấp thông tin về quyền TCTT được đề cập trong các văn kiện quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới từ đó nghiên cứu, đánh giá, góp ý và đề xuất hướng tiếp cận cho Luật TCTT ở Việt Nam vào thời điểm vẫn còn là một Dự án Luật. Luận án “Quyền TCTT trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của TS Bùi Thị Hải (2016). Luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính nhà nước, 4 chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tiếp cận thông tin; đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng, củng cố khuôn khổ pháp lý về quyền TCTT trong quản lý hành chính nhà nước phù hợp với Hiến pháp, thông lệ quốc tế và hoàn cảnh, điều kiện thực tế của Việt Nam. Luận án “Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Thái Thị Tuyết Dung (2014) đã làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và thực trạng việc thực hiện quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm quyền được thông tin trong điều kiện nước ta. Luận văn “Quyền TCTT và viện bảo đảm thực hiện ở Việt Nam” của tác giả Đoàn Ngọc Chung (2014) nghiên cứu tổng quát về tình hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Luận văn “Xây dựng cơ chế bảo đảm quyền quyền TCTT ở Việt Nam từ kinh nghiệm ở các nước trên thế giới” của tác giả Đinh Quỳnh Mây (2014) làm rõ khái niệm, nhận diện đúng bản chất về quyền TCTT, khái quát pháp luật tiếp cận thông tin ở các nước khác nhau để đưa vào các nhóm, các xu thế khác nhau và rút ra kinh nghiệm trong việc hoàn thiện thể chế ở Việt Nam. Các bài viết, bài tạp chí của các tác giả như: Đào Trí Úc (2011), Tự do thông tin trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4; Trần Ngọc Đường (2008), Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với quyền được tiếp cận thông tin, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01 (112+114); Vũ Văn Nhiêm (2010), Quyền được thông tin từ góc độ bảo đảm quyền con người và liên hệ với dự luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam (Nghiên cứu lập pháp số 9 (170); Nguyễn Công Hồng và Hoàng Thị Ngân (2010), Nhà 5 nước pháp quyền và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề; Lê Thị Hồng Nhung (2011), Quyền tiếp cận thông tin dưới góc độ quyền con người, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp… Những bài viết này đã đề cập đến một số khía cạnh về quyền TCTT trên những phương diện và phạm vi khác nhau như thực trạng pháp luật về TCTT ở Việt Nam, những nội dung cơ bản quyền TCTT ở nước ngoài, những giới hạn của quyền TCTT, những kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện luật tiếp cận thông tin ở các quốc gia, tính cấp thiết của việc ban hành Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam… Các công trình nghiên cứu nêu trên đã giúp cho học viên có cách nhìn tổng quan về quyền TCTT cũng như cung cấp nhiều tư liệu và các luận điểm khoa học quan trọng, giúp học viên trong việc kế thừa và phát triển nội dung luận văn này. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách cụ thể và riêng biệt về việc bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT nói chung và cụ thể ở Phú Yên nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục ích nghi n cứu Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT từ đó đề xuất những giải pháp tăng cường bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và hoàn cảnh, điều kiện thực tế ở Phú Yên. 3.2. Nhi vụ nghi n cứu Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về thông tin, quyền TCTT và bảo đảm pháp lý về quyền TCTT. Hai là, đánh giá về thực trạng bảo đảm pháp lý về quyền TCTT ở tỉnh Phú Yên như: hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, nhận thức của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, các chủ thể có trách nhiệm cung cấp 6 thông tin, hoạt động công khai, minh bạch thông tin, hình thức, trình tự, thủ tục và các điều kiện khác phục vụ việc TCTT. Ba là, nghiên cứu về các giải pháp tăng cường bảo đảm pháp lý về quyền TCTT ở Phú Yên như: hoàn thiện về pháp luật TCTT, nâng cao nhận thực của các chủ thể, tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định hiện hành, đẩy mạng công khai, minh bạch cũng như tăng cường giám sát, thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quyền TCTT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghi n cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quan niệm, tư tưởng luật học về thông tin, quyền TCTT và các bảo đảm pháp lý về quyền TCTT và thực trạng thực hiện những khái niệm nói trên trong pháp luật nước ta nói chung và các văn bản của tỉnh Phú Yên nói riêng. 4.2. hạ vi nghi n cứu Về nội dung, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT thông qua việc nghiên cứu một số văn kiện quốc tế, pháp luật nước ta và các văn bản có liên quan về quyền TCTT cũng như các quan điểm học thuật về khái niệm này. Cùng với đó, liên hệ tới thực tiễn tại địa phương, đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm mục đích đảm bảo quyền TCTT đối với công dân. Về thời gian, học viên nghiên cứu các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT ở Phú Yên trong những năm gần đây. Trong đó tập trung phân tích bối cảnh hiện tại của việc bảo đảm quyền TCTT với dấu mốc thời gian là sửa đổi ban hành Hiến pháp năm 2013 và Luật TCTT năm 2016. Đây là những văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc đề cao tăng cường sự chủ động công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước để Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. 7 Về không gian, các bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT được học viên nghiên cứu từ thực tiễn ở tỉnh Phú Yên. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Đây phương pháp luận nền tảng của các bộ môn khoa học xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng vận dụng quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tiếp cận thông tin; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: hệ thống, thống kê, phân tích tài liệu, xã hội học, tổng hợp, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Trong đó, phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt để đảm bảo các vấn đề, nội dung của luận văn được trình bày theo trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, phát triển các vấn đề để đạt được mục tiêu nghiên cứu. Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố, các bài viết nghiên cứu để chứng minh cho các luận điểm. Ở mỗi chương sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ đạo để làm rõ mục đích nghiên cứu. Cụ thể là: Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê để trình bày những vấn đề lý luận cơ bản, những quan điểm về thông tin, quyền TCTT cũng như các biện pháp bảo đảm pháp lý về thực hiện TCTT. Chương 2 sử dụng phương pháp phân tích, xã hội học để đưa ra thực trạng hiện nay của bảo đảm pháp lý về quyền TCTT ở Phú Yên đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đánh giá để nhận xét về thực trạng đó nhằm đề ra những giải pháp phù hợp. 8 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp bổ sung những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận, giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về bảo đảm pháp lý thực hiện quyền TCTT; nhận xét về thực trạng thực hiện tại Phú Yên; góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, cơ quan nhà nước và nhân dân tỉnh Phú Yên về thực hiện quyền TCTT và bảo đảm để quyền TCTT được thực hiện một cách hiệu quả. Ngoài ra, kết quả của luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học cũng như một số chuyên ngành liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 02 Chương như sau: - Chương 1. Lý luận bảo đảm pháp lý vể quyền tiếp cận thông tin - Chương 2. Thực trạng và giải pháp tăng cường bảo đảm pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên 9 Chương 1: LÝ LUẬN BẢO ĐẢM PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN 1.1. Quan niệm về quyền tiếp cận thông tin 1.1.1. Th ng tin Ngày nay, trong đời sống hàng ngày, thông tin là yếu tố thường xuyên được đề cập đến, ở đâu người ta cũng nói đến thông tin. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thông tin nào đó. Nói cách khác, thông tin là nền tảng của tất cả các hoạt động của xã hội. Xét từ góc độ lịch sử, thông tin tạo ra các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật, gắn bó chặt chẽ, mật thiết và có tính quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Mọi tri thức của nhân loại đều được cập nhật, lưu trữ và phổ biến dưới dạng thông tin về những điều đã diễn ra, về những điều người ta đã biết, đã nói, đã làm. Thông tin không thể cầm giữ như các hiện vật được. Người ta bắt gặp thông tin chỉ trong quá trình hoạt động, thông qua tác động trừu tượng của nó. Chính vì vậy, tùy theo góc độ và mục đích sử dụng, có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Theo cách hiểu thông thường, thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin hình thành trong quá trình nhận biết hiện tượng xung quanh, trong quá trình giao tiếp [19]. Nếu dựa trên quan điểm triết học, “thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh... hay nói rộng hơn bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người” [48]. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “thông tin là tin tức được truyền đi cho biết hoặc tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh” [59]. Theo các cách hiểu trên, mọi tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới tự nhiên và xã hội đều trở thành thông tin. Thông tin hình thành trong quá trình giao tiếp: một người có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác thông 10 qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu, hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường xung quanh. Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi thông tin đều có ý nghĩa với nhà nước, xã hội và đều được sử dụng trong quản lý nhà nước, đều là nhu cầu cần tiếp cận của mọi công dân. Khoản 1 Điều 2 Luật TCTT năm 2016 quy định “Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra”. Luật còn giải thích thêm rằng “Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản”. Theo đó, khái niệm thông tin được đề cập trong Luật TCTT có nghĩa rằng, thông tin đó phải do cơ quan nhà nước tạo ra trong quá trình thực thi công vụ, được người có thẩm quyền ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản và được lưu giữ trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác. Như vậy, mỗi lĩnh vực nghiên cứu khác nhau thì có định nghĩa về thông tin khác nhau. Các khái niệm, quan điểm về thông tin nêu trên rất đa dạng và đều phù hợp theo từng lĩnh vực nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài, chỉ đề cập đến thông tin mà công dân có thể tiếp cận do cơ quan nhà nước tạo ra. 1.1.2 Qu n ti c n th ng tin Ngày nay, trong một thế giới mở, nhu cầu thông tin của cá nhân, tổ chức ngày càng nhiều, càng đa dạng, phong phú, tùy theo nhu cầu của mình mà cần những thông tin khác nhau: thông tin về tri thức của nhân loại trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội; thông tin chính trị, thông tin kinh tế, xã hội, thông 11 tin pháp luật; thông tin trong nước, thông tin quốc tế... Với vai trò của thông tin như đã nói ở trên thì nó có tầm quan trọng như một thứ tài sản, tài sản ấy thuộc sở hữu chung của cộng đồng mà không một cá nhân hay tổ chức nào được độc quyền nắm giữa hay ngăn cản và ngăn cấm người khác tiếp cận, trừ phi những thông tin này có liên quan đến việc đảm bảo an ninh quốc gia hoặc đời tư cá nhân được luật pháp quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Vì lẽ đó, tiếp cận thông tin dần trở thành một thuật ngữ ngày càng phổ biến. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm quyền TCTT được sử dụng để biểu đạt một loại quyền rất căn bản mà mọi người ở tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng. Đó là quyền được tiếp cận các thông tin đang được các cơ quan nhà nước quản lý, kiểm soát để thỏa mãn nhu cầu trong của sống của mình hay để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác được pháp luật ghi nhận. Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin và nhu cầu TCTT đối với con người và xã hội, quyền TCTT được quốc tế cũng như các quốc gia ghi nhận ở hai góc độ là quyền con người và quyền công dân. Thứ nhất, quyền TCTT luôn là một bộ phận không thể thiếu của quyền con người. Trong tất cả các công ước quan trọng về quyền con người như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966… đều ghi nhận quyền thông tin, quyền TCTT như một cấu thành căn bản. Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tực do giữ quan điểm không có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận cà chia sẻ các ý tưởng và và thông tin bằng bất kì bằng phương tiện nào mà không có giới hạn về biên giới”. Phát triển những nội trên, khoản 2 Điều 19 ICCPR cũng quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp vào. Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền này bào gồm cả quyền 12 tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ” [24]. Mặc dù Điều 19 ICCPR không đề cập đến thuật ngữ “quyền tiếp cận thông tin” nhưng tại Bình luận chung số 34 của Ủy ban nhân quyền (HRC) đã đặc biệt lưu ý đến quyền tiếp cận các thông tin được nắm giữ bởi cơ quan nhà nước. HRC giải thích rằng, quyền này được bao hàm trong khoản 2 Điều 19 ICCPR. Theo đó, mọi người có quyền tiếp cận thông tin mà các cơ quan công quyền nắm giữ. Các thông tin ấy bao gồm các dạng hồ sơ do một cơ quan công quyền nắm giữ, bất kể hình thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Các cơ quan công quyền là các cơ quan được nêu trong đoạn 7 của Bình luận chung này bao gồm “Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của Chính phủ, dù ở cấp độ nào quốc gia, khu vực hay địa phương”. Quyền TCTT làm tăng tính chủ động của chủ thể có nhu cầu thông tin khi có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải cung cấp thông tin mà họ cần với điều kiện thông tin đó nằm trong giới hạn cho phép. Một điều cần lưu ý là quyền TCTT cũng chỉ có nghĩa là quyền tìm kiếm, tiếp nhận thông tin mà không bao gồm quyền chia sẻ, phổ biến thông tin được cơ quan nhà nước, các tổ chức và các nhân khác trong xã hội chia sẻ. Nó khác với thuật ngữ “quyền tự do thông tin” …hàm chứa một nội hàm rộng với nghĩa là công nhận và bảo hộ quyền của con người được tự do tìm kiếm, tiếp nhận, lưu giữ, phổ biến, sử dụng thông tin dưới tất cả các hình thức khác nhau với bất kỳ người nào khác. Mục đích của việc bảo hộ tự do thông tin này là tạo ra sự lưu thông thông tin trong xã hội một cách tự do mà không phải chịu một rào cản bất hợp lý nào. Hay nói cách khác, quyền tự 13 do thông tin chủ yếu hướng đến khả năng phổ biến thông tin mà không bị giới hạn bởi quyền lực hay những công cụ nào khác [17, tr.33-34]. Như vậy, dưới góc độ quyền con người, quyền TCTT là quyền rất căn bản mà mọi người ở tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng. Đó là quyền được biết thông tin của Nhà nước, nắm bắt được những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục và những vấn đề khác trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích, đến cuộc sống của họ nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận. Thứ hai, quyền TCTT là quyền cơ bản của công dân vì được pháp luật các nước ghi nhận trong Hiến pháp, được các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa. Chủ thể của quyền TCTT luôn là các cá nhân đặt trong mối quan hệ với nhà nước, và nhà nước là một bên bảo đảm thực hiện quyền này bằng pháp luật dựa trên mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể. Ở Việt Nam, quyền TCTT được Hiến định trong nhóm quyền cơ bản của con người, công dân tại Điều 25, Hiến pháp 2013 “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam hiến định về quyền TCTT, bởi quyền này trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 đã được ghi nhận với tên gọi là quyền được thông tin tại Điều 69. Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm của quyền TCTT đến năm 2016 mới được giải thích một cách chính thức và đầy đủ trong Luật TCTT. Theo đó, Luật TCTT năm 2016 chỉ ra rằng TCTT là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra vì đây là loại thông tin được đánh giá là quan trọng nhất và đại diện cho loại thông tin mà các công dân bình thường đều cần đến khi thực hiện các quyết 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan