Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Báo cáo tổng kết nhiệm vụ quan trắc môi trường nước lưu vực sông đồng nai...

Tài liệu Báo cáo tổng kết nhiệm vụ quan trắc môi trường nước lưu vực sông đồng nai

.DOC
93
227
124

Mô tả:

I. MỞ ĐẦU 1.1. Khái quát về lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai Lưu vực hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai là một trong những lưu vực sông lớn của Việt nam. Lưu vực sông có diện tích khá rộng (37.885 km 2) và liên quan đến nhiều địa phương. Chế độ dòng chảy ở lưu vực sông phụ thuộc nhiều vào chế độ mưa và chế độ triều từ biển Đông. Chế độ thủy văn biến đổi lớn theo không gian và thời gian: mưa nhiều thì dòng chảy mạnh, mưa ớt thỡ dòng chảy yếu. Khi có triều cường thì dòng chảy mạnh hơn, xâm nhập vào đất liền và khi triều kộm thỡ ngược lại. Khí hậu trong lưu vực có hai mựa chớnh (mùa mưa và mùa khô) nên chế độ dòng chảy ở lưu vực sông cũng hình thành tương ứng: chế độ dòng chảy mùa mưa, chế độ dòng chảy mùa kiệt. Sự biến đổi dòng chảy giữa hai mùa rất tương phản nhau. Về điều kiện tự nhiên, 11 tỉnh thuộc lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai có diện tích hơn 5 triệu ha. Nền nhiệt độ trên lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai tương đối cao và ổn định. Lưu vực sông chịu ảnh hưởng chủ yếu của ba hệ thống hoàn lưu: gió mùa mùa đông, gió mùa mùa hè và giú tớn phong xen kẽ vào các thời kỳ suy yếu của từng đợt gió mùa. Do đó hướng gió thịnh hành ở lưu vực sông thay đổi rõ rệt theo mùa. Sự biến đổi của độ ẩm phụ thuộc theo mùa, với độ ẩm tương đối trung bình năm từ 78% - 86%. Trong lưu vực sông có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến trung tuần tháng 11. Thời gian còn lại trong năm là của mùa khô. Lượng mưa hàng năm trên lưu vực khá lớn, nhiều nơi đạt trên 2000mm, nhưng tập trung nhiều vào mùa mưa. Về điều kiện kinh tế xã hội, dân số trên lưu vực có khoảng 16 triệu người với tỷ lệ dân số đô thị hóa bình quân toàn lưu vực khoảng 51%. Vùng hạ lưu của sông là vùng tập trung phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ và đô thị hóa mạnh nhất trong hệ thống cỏc vựng kinh tế lớn của Việt Nam mà trọng tâm là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Như vậy sông Sài Gòn – Đồng Nai giữ vai trò đặc biệt trong phát triển kinh tế xã hội của 11 tỉnh, thành phố có liên quan đến lưu vực. Hệ thống này vừa là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt và các hoạt động kinh tế trên lưu vực, đồng thời là môi trường tiếp nhận và vận chuyển các nguồn đổ thải trên lưu vực. Trên lưu vực sông đang diễn ra mâu thuẫn hết sức gay gắt giữa các mục tiêu khai thác, sử dụng nguồn nước để phát triển kinh tế - xã hội với các mục tiêu quản lý, bảo vệ nguồn nước để sử dụng lâu bền. 1.2. Mục đích nhiệm vụ quan trắc Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn là nơi phát triển kinh tế xã hội quan trọng nhất của đất nước; nguồn nước sông có tầm quan trọng đặc biệt đối với các tỉnh/ tp trên lưu vực, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho công nghiệp, tưới tiêu nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch sông nước… Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì các nguồn thải sinh hoạt, công nghiệp, chất thải rắn đô thị, công nghiệp và chất thải nguy hại đã và đang đe dọa nghiêm trọng về khả năng ô nhiễm nguồn nước sông. Do đó công tác quan trắc môi trường nước lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn cần thiết phải được thực hiện liên tục, nhằm đánh giá một cách chính xác hiện trạng, theo dõi diễn biến chất lượng môi trường nước. Tạo cơ sở cho việc ra quyết định, xây dựng các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. 1.3. Nội dung quan trắc - Lấy mẫu và phân tích các mẫu nước mặt, mẫu thủy sinh và mẫu trầm tích tại 28 vị trí trên lưu vực sông Đồng Nai, Sài Gòn và tại khu vực cửa sông trong 4 đợt/năm vào cỏc tháng 4, 6, 9, 12 (tại đỉnh triều). - Số lượng thông số quan trắc : mẫu nước mặt (20 thông số), mẫu thủy sinh (3 thông số), mẫu trầm tích (12 thông số). - Đỏnh giá kết quả quan trắc chất lượng nước và dự báo diễn biến môi trường nước lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai trong năm 2007. 1.4. Các cơ quan phối hợp thực hiện - Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Đông Nam Bộ; Phân viện Khí tượng thủy văn và Môi trường phía Nam (đơn vị đối tác chính); Viện Môi trường Tài nguyên (đơn vị phân tích kiểm tra mẫu đối chứng). II. PHƯƠNG PHÁP QUAN TRẮC - PHÂN TÍCH 2.1. Phương pháp và thiết bị lấy mẫu 2.1.1. Các vị trí lấy mẫu (Xem bảng 2.1) - Số lượng điểm quan trắc: 28 điểm với tần suất quan trắc 4 lần/năm (tháng 4, 6, 9, 12); riêng đối với trầm tích đáy tần suất là 2 lần/năm vào tháng 4 và tháng 9. 2.1.2. Sơ đồ vị trí các điểm quan trắc và lấy mẫu (bản đồ đính kèm) Bảng 2.1. Thông tin về các điểm lấy mẫu (vị trí, hướng nước chảy, thời gian lấy mẫu) STT Vị trí lấy mẫu Ký hiệu điểm Thuộc sông Thuộc huyện/tỉnh Kinh độ Vĩ độ Bình Dương Bỡnh Dương-Tõy Ninh 106020.891' 110 20.100' 106020.394' 11018.484' 1 Hồ Dầu Tiếng 1 SGN-1-34 Sài Gòn 2 Chân đập Dầu Tiếng SGN-1-36 Sài Gòn 3 Cầu Bến Súc SGN-1-37 Sài Gòn BD-TN-TP.HCM 106027.091' 11009.388' 4 Sông Thị Tính SGN-1-39 Thị Tính 106035503' 11015.310' 5 Cửa sông Thị Tính SGN-1-40 Sài Gòn 106036.203' 11002.403' 6 Cầu Phú Cường SGN-1-41 Sài Gòn 106038.732' 10058.933' 7 Cầu Phú Long SGN-1-43 Sài Gòn 106041.635' 100 53.915' Cầu An Hạ lấy mẫu Cầu Vị Antrí Lộc Cầu Bình Triệu Cầu Gòn Hòa CầuSài Phước Bến Nhà Rồng CầuTân Đồng Nai (Đập Cầu Thuận Trị An) Cầu Chữ (Đập TrịYAn) Trạm bơm NM Mũi Đèn đỏ Tân nước Thiện NM nước Thiện Cầu Bình Điền SGN-1-44 Ký hiệu SGN-1-46 điểm SGN-1-47 SGN-1-48 SBE-1-29 SGN-1-49 SDN-1-73 SGN-1-50 106041.620' Kinh độ 0 106 39.129' 0 106 42.840' 0 106 1060043.614' 45.492' 106 042.476' 107043.277' 03.033' 106 100 47.347' độ 100Vĩ 51.618' 0 10 49.244' 0 10 110048.011' 15.148' 10 046.329' 11045.438' 06.023' 10 SGN-1-51 SDN-1-75 SDN-1-88 Kờnh Xáng Thuộc sông Vàm Thuật Sài Gòn Sài Gòn Sụng Bé Sài Gòn Đồng Nai Sài Gòn Đụi-Tẻ-Tàu hủ -Bến nghé Đồng Nai Nhà Bè 106041.126' 106054.364' 106045.731' 10045.078' 11001.037' 10043.919' SDN-1-91 Chợ Đệm Bình Dương Bình DươngTP.HCM Bình DươngTP.HCM Bình DươngTP.HCM TP.HCM Thuộc TP.HCM huyện/tỉnh TP.HCM TP.HCM Bình Phước TP.HCM Đồng Nai-Bỡnh TP.HCM Dương TP.HCM Đồng Nai-Bỡnh Đồng NaiDương TP.HCM TP.HCM 106035.79' 10042.036' 8 STT 9 10 11 17 12 18 13 14 19 15 16 Tân 20 Bến đò Lợi Hòa SDN-1-78 Đồng Nai Đồng Nai-Bỡnh Dương 106048.409' 11001.480' 21 Cầu Ông Buông SDN-1-84 Đồng Nai Đồng Nai 106054.156' 10053.094' 22 Bến đò Hãng Da SDN-1-85 Đồng Nai 106050.552' 10052.508' 23 Phà Bỡnh Khỏnh SDN-1-90 Nhà Bè 106046.385' 10040.067' 24 Tam Thôn Hiệp SDN-1-93 Lòng Tàu 106052.028' 10036.237' 25 Cửa Vàm Cỏ Sông Soài Rạp SDN-1-95 Soài Rạp 106044.097' 10028.397' 26 Cảng Gò Dầu TVA-1-68 Thị Vải Đồng Nai 107001.340' 10039.325' 27 Cảng PhỳMỹ TVA-1-70 Thị Vải Bà Rịa-Vũng Tàu 107001.616' 10035.150' 28 Cảng Cỏi Mộp TVA-1-71 Thị Vải Bà Rịa-Vũng Tàu 107001.645' 10032.321' Đồng NaiTPHCM Đồng NaiTPHCM Đồng NaiTPHCM TPHCM – Long An 2.1.3. Thời gian lấy mẫu: các mẫu được lấy chia thành 4 đợt, cụ thể: - Đợt 1: ngày 14 và 15/04/2007. - Đợt 2: ngày 29 và 30/06/2007. - Đợt 3: ngày 14 và 15/09/2007. - Đợt 4: ngày 08 và 09/12/2007. - Đồng thời tiến hành khảo sát đo nhanh liên tục trong hệ thống lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai: ngày 12 - 14/09/2007. 2.1.4. Phương pháp và thiết bị lấy mẫu nước mặt Các phương pháp và thiết bị lấy mẫu nước mặt đều đã được chuẩn hóa và được công nhận. a. Các thiết bị lấy mẫu nước mặt - Tời thủy văn lấy mẫu có dây cáp dài 30m và quả nặng 18kg được gắn vào trục có tay quay (ghe) và máy bơm lấy mẫu nước sử dụng nguồn điện (xe). - Máy định vị vệ tinh Koden (Nhật) và Lowrance (Mỹ). - Máy đo chất lượng nước 6 chỉ tiêu TOA (Nhật). - Máy đo độ đục Lovibond (Mỹ). - Máy đo pH WTW 320 (Đức). - Máy đo độ dẫn điện WTW LF320 & LF330 (Đức). - Xô bằng nhựa, có dung tích 20l, dùng để chứa mẫu nước trước khi pha trộn (lấy mẫu tại 3 thủy trực sau đó trộn đều). - Bình vật liệu PE có dung tích 2l, dùng để đựng mẫu sau khi đã hòa trộn. Xô và bình được rửa sạch sẽ và tráng bằng chính mẫu nước trước khi chứa mẫu.. b. Phương pháp lấy và xử lý mẫu nước mặt Mỗi mặt cắt lấy 3 thủy trực (bờ phải, giữa sông, bờ trái) bằng cách lấy mẫu từ mặt xuống đáy và trộn mẫu của 3 thủy trực với nhau, sau đó chiết mẫu thành 2 bỡnh (2L/bỡnh), một chai mẫu cho phân tích vi sinh, một chai DO được cố định tại chỗ. 2.1.5. Phương pháp và thiết bị lấy mẫu thủy sinh - Mẫu thực vật và động vật phiêu sinh định tính được thu bằng lưới vớt phiêu sinh kiểu Juday (hình nón) với kích thước mắt lưới là 25àm. - Mẫu thực vật phiêu sinh định lượng được thu theo Phương Pháp Sedgewick Rafter, thể tích mẫu được thu ngoài thực địa là 1lít. - Mẫu động vật phiêu sinh định lượng được thu bằng cách lọc qua lưới 10 lít nước. - Mẫu động vật không xương sống cỡ lớn được thu bằng gàu đáy kiểu Petersen với tổng diện tích là 0,1m2. Tất cả vật chất thu được từ gàu đáy chuyển qua sàng và sau đó sàng kỹ loại bỏ bớt các vật chất trước khi cho mẫu vào lọ. - Các mẫu được cố định ngay tại hiện trường bằng dung dịch formol bão hòa sao cho nồng độ formol cuối cùng trong mẫu vào khoảng 4% và mỗi mẫu thu được đánh dấu, ghi chú trờn nhón. - Ngoài ra, ghi chú thực địa cũng được thực hiện: thời điểm thu mẫu, vị trí lấy mẫu, đặc điểm dòng chảy, màu nước, nước lớn hay ròng, đặc điểm nền đáy, gần hay xa khu dân cư, nhà máy, xí nghiệp… - Các mẫu nước mặt và mẫu thủy sinh được bảo quản đưa về phòng thí nghiệm tiến hành phân tích ngay sau khi lấy mẫu. 2.1.6. Phương pháp và thiết bị lấy mẫu trầm tích đáy sông Trầm tớch đáy được lấy lên nhờ gàu xúc kiểu hàm ngậm, được thiết kế để xâm nhập vào tầng trầm tích nhờ trọng lượng của gàu. 2.2. Các thông số, phương pháp và thiết bị quan trắc - phân tích - Số lượng thông số quan trắc: mẫu nước mặt (23 thông số); mẫu thủy sinh (3 thông số); mẫu trầm tích (11 thông số), cụ thể: + Quan trắc chất lượng nước mặt về hóa lý: trong số 28 điểm quan trắc đầy đủ 21 thông số hóa lý cơ bản; có 6 điểm quan trắc bổ sung thông số Dầu mỡ và 6 điểm quan trắc bổ sung thông số Dư lượng DDT. + Quan trắc chất lượng nước về mặt thủy sinh: quan trắc 3 thông số chỉ thị sinh học (động vật nổi, thực vật nổi, động vật đáy) song song với các chỉ tiêu hóa lý. Số điểm quan trắc: đầy đủ 28 điểm. + Quan trắc trầm tích: 11 thông số. Số điểm quan trắc: 4 điểm. Tần suất: 2 lần/năm. a)Phương pháp và thiết bị phân tích mẫu nước mặt: Phương pháp và thiết bị phân tích mẫu nước mặt: các phương pháp và thiết bị sử dụng để phân tích đều là các phương pháp đã được chuẩn hóa và công nhận. - pH: đo bằng máy đo MP220 của hãng Mettler Toledo, Thụy Sĩ. pH: đo bằng máy đo MP220 của hãng Mettler Toledo, Thụy Sĩ. - Nhiệt độ: đo bằng máy đo của hãng TOA-DKK, Nhật Bản. Nhiệt độ: đo bằng máy đo của hãng TOA-DKK, Nhật Bản. - Độ đục: đo bằng máy của hãng Lovibond, Mỹ.Độ đục: đo bằng máy của hãng Lovibond, Mỹ. - Độ dẫn điện: đo bằng máy của hãng WTW, Đức. Độ dẫn điện: đo bằng máy của hãng WTW, Đức. - TDS: TDS: phương pháp trọng lượng, sử dụng cân phân tích AG245 hãng Mettler, Thụy Sĩ. - BODBOD5: phương pháp cấy và pha loãng theo TCVN 6001-1995. - COD: ph COD: phương pháp oxy hóa bằng KMNO 4 trong môi trường acid, theo TCVN 6491-1999. - DO: mẫu được cố định oxy tại chỗ, đem về phòng thí nghiệm xác định theo phương pháp chuẩn độ Winkler, TCVN 5499-1995. DO: mẫu được cố định oxy tại chỗ, đem về phòng thí nghiệm xác định theo phương pháp chuẩn độ Winkler, TCVN 5499-1995. - TSS: ph TSS: phương pháp xác định tổng chất rắn lơ lửng sấy khô ở 103 – 105 0C theo APHA-2540D, sử dụng cân phân tích AG245 hãng Mettler, Thụy Sĩ. - Amoniac, Nitrat, Nitrit, PO43-, Clorua: phương pháp sắc ký ion theo ISO-103401:1992. Thiết bị Ion Chromatography System + DS plus TM Auto Suppressor (IC)Alltech - Mỹ. Amoniac, Nitrat, Nitrit, PO43-, Clorua: phương pháp sắc ký ion theo ISO-10340-1:1992. Thiết bị Ion Chromatography System + DS plus TM Auto Suppressor (IC)-Alltech - Mỹ. - Tổng sắt (T-Fe): phương pháp trắc quang theo TCVN 6177-1996. Tổng sắt (T-Fe): phương pháp trắc quang theo TCVN 6177-1996. Máy Shimadzu UV 1601PC, Nhật Bản. - Chì (Pb), Cadimi (Cd): phChì (Pb), Cadimi (Cd): phương pháp hấp thu nguyên tử theo TCVN 6193-1996. Máy AAS 3300 của hãng Perkin Elmer, Mỹ. - Tổng Coliform: ph Tổng Coliform: phương pháp định lượng Coliform - kỹ thuật đếm số có xác suất lớn nhất (MPN) theo TCVN 6187-2-1996. - Dầu khoáng: ph Dầu khoáng: phương pháp hồng ngoại theo ISO-11046-1994. Máy quang phổ hồng ngoại FTIR-8400S của hãng Shimadzu, Nhật Bản. - Hóa chất bảo vệ thực vật: ph Hóa chất bảo vệ thực vật: phương pháp sắc ký khí. Thiết bị sắc ký khớ ghộp đầu dò bắt giữ điện tử (GC-mECD) Agilent 6890N. b)Phương pháp và thiết bị phân tích mẫu thủy sinh: Phương pháp và thiết bị phân tích mẫu thủy sinh: - Việc định danh thủy sinh vật được dựa trên cơ sở hình thái học (morphology) với sự trợ giúp của các tài liệu phân loại của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này đã được công nhận rộng rãi. - Mẫu định lượng thực vật phiêu sinh được phân tích theo các phương pháp buồng đếm Sedgewick Rafter. Sự sắp xếp danh mục tảo theo hệ thống phân loại được dựa theo cách sắp xếp của tác giả G. S. Prescott. - Mẫu định lượng động vật phiêu sinh và động vật không xương sống cỡ lớn sống đáy được phân tích bằng cách đếm tất cả các cá thể có trong mẫu định lượng. c)Phương pháp và thiết bị phân tích mẫu trầm tích đáy: Phương pháp và thiết bị phân tích mẫu trầm tích đáy: - Các kim loại nặng trong trầm tích: được xác định theo TCVN 6496-1999. Các kim loại nặng trong trầm tích: được xác định theo TCVN 6496-1999. - Các chất hữu cơ độc hại trong trầm tích: được xác định trên thiết bị sắc ký khớ ghộp khối phổ (GC-MS). Các chất hữu cơ độc hại trong trầm tích: được xác định trên thiết bị sắc ký khí ghép khối phổ (GC-MS). 2.3 Công tác đảm bảo và kiểm soát chất lượng (QA/QC) trong quá trình quan trắc đã thực hiện 2.3.1. Chuẩn bị lấy mẫu: tất cả các can và chai lọ dùng lấy mẫu được rửa bằng xà bông, sau đó bằng hỗn hợp K2Cr2O7 trong H2SO4; tráng cẩn thận với nước sạch và nước cất. Trước khi chứa mẫu tráng 3 lần với chính mẫu; 2.3.2. Bảo quản mẫu: giảm tối đa thời gian vận chuyển mẫu – bảo quản tối và lạnh; - Các hóa chất sử dụng trong bảo quản và phân tích phải có độ tinh khiết cần thiết (GR for analysis, Merck or equal); - Giảm tối đa thời gian phân tích: các mẫu được phân tích trong vòng 24h (phân tích ngay trong ngày nếu vận chuyển về PTN trong giờ làm việc): + pH, To, DO, EC: đo tại chỗ, các thiết bị được cân chỉnh trước mỗi đợt quan trắc; + TN: axít hóa với H2SO4 conc. tới pH 1.5-2 và bảo quản lạnh ở 4 oC; + SS: phân tích càng sớm càng tốt, bảo quản không quá 24 h; + SO42-: bảo quản ở 4 oC và phân tích trong vòng 7 ngày; + TP : bảo quản ở 4 oC và phân tích trong vòng 7 ngày; + COD và BOD5: bảo quản ở 4 oC và phân tích trong vòng 24h; + Kim loại nặng: bảo quản ở 4 oC và phân tích trong vòng 7 ngày; - Nhật ký lấy mẫu: các mẫu được ghi chép chi tiết trong nhật ký lấy mẫu, bao gồm: ký hiệu mẫu, điều kiện lấy mẫu, thời tiết, giờ lấy mẫu, người lấy mẫu, ... 2.3.3. Mẫu QC tại chỗ - Mẫu kiểm tra vận chuyển: sử dụng dung dịch với nồng độ cho trước (tạo bởi nước cất và hóa chất tinh khiết). Mẫu được cho vào can đựng mẫu và vận chuyển ra điểm lấy mẫu. Can mẫu này không mở tại điểm lấy mẫu. Mẫu này cho phép xác định sự nhiễm bẩn và mất mẫu trong quá trình xử lý, vận chuyển và bảo quản. Bên cạnh đó nó cũng sử dụng để xác định sai số phân tích; - Mẫu thêm: sử dụng ống chứa dung dịch chuẩn với nồng độ cho trước. Tại điểm lấy mẫu, các ống được mở ra cho vào dung dịch nước cất và sau đó phân tích tại PTN. 2.3.4. Mẫu QC - PTN: - Mẫu trắng của thiết bị: sử dụng nước cất để kiểm tra nhiễu và giới hạn phát hiện của thiết bị; - Mẫu trắng phương pháp: sử dụng nước cất và các hóa chất chuẩn bị (môi trường, chất che, chất tạo màu...) nhưng không phải chất cần phân tích để tạo mẫu. Mẫu này cho phép chúng ta đánh giá giới hạn phát hiện của phương pháp và độ tinh khiết của các hóa chất sử dụng; - Đường chuẩn: sử dụng dung dịch chuẩn để kiểm tra độ tuyến tính của thiết bị và xác lập đường chuẩn cho các tính toán kết quả phân tích; - Kiểm tra độ lặp lại: lập lại các phân tích ít nhất 3 lần đối với một số chỉ tiêu (đặc biệt đối với phân tích KLN) – tính độ chênh lệch; 2.3.5. Kiểm tra chéo liên phòng thí nghiệm - Thực hiện kiểm tra chéo một số chỉ tiêu tại phòng thí nghiệm Viện Tài nguyên và Môi trường – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: trong tổng số 28 điểm quan trắc lấy ra 6 mẫu để kiểm tra chéo các thông số hóa lý (18 chỉ tiêu - trừ các chỉ tiêu đo nhanh) kiểm tra chéo 2 đợt/ 4 đợt quan trắc; trong 4 điểm quan trắc trầm tích đáy lấy ra 2 mẫu - kiểm tra chéo 1 đợt/ 2 đợt quan trắc. III. NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ DIỄN BIẾN CHẤT LƯỢNG NƯỚC SễNG QUA KẾT QUẢ CỦA BỐN ĐỢT QUAN TRẮC 3.1. Kết quả quan trắc: (bảng số liệu đính kèm) Khu vực sông Sài Gũn cú 16 điểm lấy mẫu, chạy dọc từ phía thượng lưu (Hồ Dầu Tiếng) xuống đến vị trí Cầu Bình Điền. Khu vực sông Đồng Nai khảo sát 6 điểm bao gồm: Cầu Phước Hòa, Cầu Đồng Nai, Trạm bơm Nhà máy nước Thiện Tân, Bến đò Lợi Hòa, Cầu Ông Buông và Bến đò Hãng Da. Khu vực các cửa sông là 6 điểm nằm về phía nam của Tp Hồ Chí Minh (phà Bỡnh Khỏnh, Tam Thôn Hiệp và cửa Vàm Cỏ - sông Soài Rạp ) và về phía tây của tỉnh Bà Rịa Vũng tàu (cảng Gò Dầu, cảng Phú Mỹ và cảng Cỏi Mộp). Kết quả phân tích hóa lý nước mặt tại 28 vị trí qua 4 đợt quan trắc được trình bày trong các bảng A1, A2, A3, B1, B2, B3, C1, C2, C3 và D1, D2, D3. Diễn biến giá trị trung bình các thông số quan trắc được trình bày trong bảng E1, E2, E3. Các vị trí đồng thời thu thập mẫu trầm tích đáy là cầu Phú Cường, trạm bơm nhà máy nước Thiện Tân, cầu Ông Buông và cảng Phú Mỹ. 3.2. Tiêu chuẩn áp dụng 3.2.1 Đối với lưu vực sông Sài Gòn Khu vực thượng nguồn từ Hồ Dầu Tiếng đến Cầu Phú Cường nước được sử dụng để dùng cấp nước cho nhà máy nước Thủ Dầu Một nên trong báo cáo này sẽ áp dụng tiêu chuẩn nước mặt loại A, dùng cho cấp nước sinh hoạt (TCVN 5942-1995). Khu vực từ Cầu Phú Long đến Cầu Bình Điền áp dụng tiêu chuẩn nước mặt (TCVN 5942-1995) nguồn loại B, nước sử dụng cho các mục đích khác ngoài mục đích cấp nước sinh hoạt. 3.2.2 Đối với lưu vực sông Đồng Nai : áp dụng tiêu chuẩn nước mặt (TCVN 59421995) loại A, nước dùng cho cấp nước sinh hoạt. 3.2.3 Đối với lưu vực cửa sông : áp dụng tiêu chuẩn nước mặt (TCVN 5942-1995) nguồn loại B. 3.3 Đánh giá diễn biến trên phương diện hóa lý, thủy sinh và trầm tích đáy 3.3.1. Các yếu tố vật lý Nhiệt độ (0C): là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến các quá trình sinh học và đời sống của hệ thủy sinh trong môi trường nước. Sự gia tăng hay giảm nhiệt độ cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn nước. Diễn biến nhiệt độ theo thời gian Kết quả quan trắc chất lượng nước mặt 4 đợt trong năm 2007 trên lưu vực sông Sài Gòn cho thấy nhiệt độ trong năm dao động trong khoảng 27,0 – 32,7 0C, giá trị nhiệt độ trung bình năm là 29,90C, không có sự chênh lệch nhiều so với năm 2006 (29,7 0C). Giá trị nhiệt độ trong 3 đợt khảo sát (tháng 4, 6, 9) có các giá trị trung bình, thấp nhất và cao nhất trong từng đợt cao hơn đợt 4 (tháng 12) do thời điểm lấy mẫu khác nhau: từ tháng 4 đến tháng 9 thời tiết chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam với nền nhiệt độ không khí trung bình cao hơn tháng 12 diễn ra vào đầu mùa khô, lúc này thời tiết bị ảnh hưởng bởi gió mùa Đông Bắc dẫn đến nền nhiệt độ trung bình trong không khí lạnh hơn. Nhìn chung, nhiệt độ trong nước mặt lưu vực sông Sài Gòn không có sự biến động lớn theo thời gian mà tương đối ổn định nằm trong khoảng an toàn cho đời sống của các loài thủy sinh trong môi trường nước cũng như cho quá trình sử dụng nước của con người. Số liệu quan trắc nhiệt độ của nước mặt lưu vực sông Đồng Nai thấp hơn lưu vực sông Sài Gòn, không có sự dao động lớn theo thời gian (từ 26,0 – 39,3 0C ) và nằm trong ngưỡng khá an toàn cho các hoạt động của thủy sinh vật trong môi trường nước. Cũng tương tự lưu vực sông Sài Gòn, các giá trị cao nhất, thấp nhất và trung bình trong đợt 4 thấp hơn 3 đợt còn lại. Trong từng đợt khảo sát không có giá trị nhiệt độ nào có những biến động do bị ảnh hưởng bởi những nguồn thải nóng hay lạnh gây nên. Căn cứ vào kết quả đo đạc nhiệt độ qua 4 đợt quan trắc trong năm 2007 tại khu vực cửa sông cho thấy giá trị nhiệt độ không có sự dao động lớn theo thời gian, nhiệt độ trung bình trong từng đợt khảo sát dao động trong khoảng khá nhỏ từ 28,4 – 30,7 0 C, là khoảng nhiệt độ khá an toàn cho môi trường sống của thủy sinh vật cũng như cho các mục đích sử dụng của con người. Hình 3.1. Diễn biến nhiệt độ nước mặt theo thời gian năm 2007 Hình 3.2. Diễn biến nhiệt độ nước mặt theo không gian năm 2007 Diễn biến nhiệt độ theo không gian Giá trị nhiệt độ ở các vị trí trên các lưu vực khụng có sự biến động lớn theo không gian. Không có vị trí nào có nhiệt độ thay đổi đột biến do bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các nguồn thải nóng hay lạnh trong khu vực. Cũng tương tự kết quả quan trắc năm 2006, khoảng chênh lệch nhiệt độ giữa các điểm khảo sát trong năm 2007 không cao và khá an toàn cho môi trường (hình 3.2). Giá trị pH : pH biểu diễn nồng độ H+ có trong nước, đây là chỉ thị về tính acid hoặc tính kiềm của môi trường nước. Dải đo của pH là từ 0 đến 14, trong đó mức 07 được xem là mức trung hòa. Dung dịch với độ pH dưới 07 được xem là có tính acid và trên 07 được xem là có tính bazơ. Trong đó vùng pH từ 6,5 – 8,2 là khá thích hợp cho phần lớn các thủy sinh động vật trong nước. Diễn biến pH theo thời gian Kết quả phân tích giá trị pH trên lưu vực sông Sài Gòn trong năm 2007 dao động từ 5,8 – 8,0, giá trị trung bình là 6,9 cao hơn kết quả đo năm 2006 (6,5) . Các giá trị pH lớn nhất và nhỏ nhất theo từng đợt khảo sát cũng có sự dao động khá lớn từ 7,0 – 8,0 và từ 5,8 - 6,8. Điều này cho thấy nước mặt lưu vực sông Sài Gòn biến động trong khoảng từ môi trường có acid yếu đến môi trường trung hòa.Trong đợt khảo sát vào tháng 06/2007, giá trị pH thấp nhất và cao nhất trong lưu vực đều cao hơn giá trị của các đợt còn lại. Trong các đợt khảo sát tháng 4, 9 & 12 thì giá trị pH có sự tương đồng theo thời gian, giá trị trung bình trong từng đợt trên lưu vực sông Sài Gòn tương đương nhau (hình 3.3). Trên lưu vực sông Đồng Nai, nhỡn chung pH không có sự dao động lớn theo thời gian, giá trị trung bình 4 đợt dao động từ 6,3 - 7,9 và giá trị trung bình năm là 7,1, cao hơn giá trị trung bình đo được trên lưu vực sông Sài Gòn và tương tự giá trị khảo sát năm 2006. Theo kết quả khảo sát khu vực cửa sông cho thấy giá trị pH không có sự dao động lớn theo thời gian quan trắc. Các giá trị pH nhỏ nhất, trung bình và lớn nhất trong từng đợt khảo sát biến động không nhiều. Giá trị pH trung bình năm 2007 cũng tương tự năm 2006, dao động trong khoảng khá bé từ 6,7 – 7,5. Điều này cho thấy chất lượng nước mặt lưu vực cửa sông trong 4 đợt khảo sát đều nằm trong khoảng trung tính. Hình 3.3. Diễn biến pH nước mặt theo thời gian năm 2007 Diễn biến pH theo không gian (hình 3.4) Kết quả quan trắc năm 2007 cho thấy, đoạn từ Hồ Dầu Tiếng đến cầu Bình Điền (lưu vực Sông Sài Gòn), giá trị pH trong cả 4 đợt đều thấp hơn các điểm quan trắc khác và có sự dao động khá lớn giữa các điểm. So với tiờu chuẩn nước mặt nguồn loại A dùng cho cấp nước sinh hoạt: vị trí Cầu Phú Cường (đợt 1 và 4), cầu Bến Súc (đợt 4) và sông Thị Tính (đợt 1) không nằm trong ngưỡng cho phép; các vị trí khác trên các lưu vực đều có giá trị pH đạt chuẩn cho phép. So với năm 2006, kết quả năm 2007 không có sự chênh lệch lớn tại cầu Phú Cường nhưng tại cầu Bến Súc và sông Thị Tính, pH có xu hướng giảm. Theo kết quả đo nhanh bằng thiết bị đo liên tục cú ghộp nối định vị vệ tinh gắn với máy phân tích nước điều khiển bằng máy tính điện tử được tiến hành bởi Viện hóa học thực hiện ngày 12-14/09/2007 cho thấy phần lớn các đoạn trên sông Sài Gòn từ khu vực Thủ Dầu Một về phía hạ lưu có giá trị pH biến thiên trong khoảng từ 3,5 – 6,0, nước thể hiện tính acid khá cao và càng gần về phía hợp lưu thì pH có xu hướng càng gia tăng. Vấn đề acid hóa sông Sài Gòn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp nước sinh hoạt, thủy lợi và quá trình nuôi trồng thủy sản trong vùng. Theo số liệu quan trắc trong năm 2007, nhìn chung giá trị pH đo được trong nước mặt trải dài từ vị trí Cầu Phước Hòa đến Bến đò Hãng Da trên lưu vực sông Đồng Nai không có sự dao động lớn theo không gian. Tuy giá trị đo được có xu hướng giảm dần về phía hạ lưu nhưng so với tiờu chuẩn nước mặt nguồn loại A - nước sử dụng cho cấp nước sinh hoạt thì giá trị pH trên lưu vực sông đều đạt ngưỡng quy định. Theo kết quả đo nhanh bằng thiết bị đo liên tục cú ghộp nối định vị vệ tinh gắn với máy phân tích nước điều khiển bằng máy tính điện tử được tiến hành bởi Viện hóa học ngày 12-14/09/2007 cho thấy phần lớn các đoạn trên sông Đồng Nai từ thượng lưu về phía hạ lưu đều có giá trị pH nằm trong khoảng 5,5 – 6,0 và càng gần về phía biển thì pH có xu hướng càng tăng. Do đó, so với lưu vực sông Sài Gòn thì giá trị pH trên lưu vực sông Đồng Nai dao động trong khoảng an toàn hơn do sông Đồng Nai có lưu lượng lớn chảy xiết nên khả năng tự làm sạch cao, do đó mức độ ô nhiễm trên sông Đồng Nai cũng thấp hơn lưu vực sông sài Gòn. Nhìn chung không có sự biến động lớn giá trị pH giữa các vị trí quan trắc trên khu vực các cửa sông. So với tiêu chuẩn nước mặt nguồn loại B-nước sử dụng cho các mục đích khác thì pH trên khu vực cửa sông đều nằm trong ngưỡng cho phép. Trên toàn khu vực, không phát hiện giá trị pH tại vị trí nào vượt quá ngưỡng cho phép của tiêu chuẩn, nằm trong khoảng trung tính và khá an toàn cho môi trường. Hình 3.4. Diễn biến pH nước mặt theo không gian năm 2007 Chất rắn lơ lửng (SS): trong nguồn nước được tạo ra do quá trình bào mòn, rửa trôi tự nhiên của đất đá trong lưu vực và một phần do ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt, dịch vụ, công nông nghiệp. Diễn biến SS theo thời gian (hình 3.5) Hàm lượng SS trong năm 2007 trên lưu vực sông Sài Gòn dao động từ 2,5 – 225,0 mg/l, giá trị trung bình là 113,8 mg/l, không có sự chênh lệch nhiều so với năm 2006 (102 mg/l). Trong 4 đợt khảo sát thì hàm lượng SS trong lưu vực sông Sài Gòn vào tháng 4, 9 và 12 không có sự chênh lệch lớn và cao hơn đợt tháng 4. Trên lưu vực sông Đồng Nai, nhìn chung hàm lượng chất rắn lơ lửng trong năm 2007 cũng có sự dao động lớn theo thời gian. Các hàm lượng SS nhỏ nhất, trung bình và lớn nhất đều có những thay đổi đáng kể theo thời gian. Mức độ dao động thấp nhất là vào tháng 06/2007 và mức độ dao động cao là vào tháng 09/2007, tháng có lượng mưa và lũ lớn trên lưu vực. Qua các kết quả quan trắc tại khu vực các cửa sông cho thấy hàm lượng chất rắn lơ lửng trong nước mặt không có sự biến động theo thời gian. Các giá trị SS nhỏ nhất, trung bình và cao nhất giữa các đợt khảo sát không có sự chênh lệch nhiều, dao động từ 53 – 284 mg/l. Giá trị lớn nhất (vị trí cảng Gò Dầu) thấp hơn 1,5 lần năm 2006. Hình 3.5. Diễn biến tổng chất rắn lơ lửng theo không gian năm 2007 Diễn biến SS theo không gian (hình 3.6) Dọc theo chiều dài lưu vực sông Sài Gòn, hàm lượng SS có xu hướng gia tăng ở các vị trí tiếp nhận nước thải từ một số khu công nghiệp và nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư nằm trong khu vực nội thành Tp. HCM, bao gồm các vị trí quan trắc từ cầu Bến Súc đến cửa sông Thị Tính và từ Bến Nhà Rồng đến cầu Chữ Y. - Khu vực từ Hồ Dầu Tiếng đến Cầu Phú Cường: hàm lượng SS thấp nhất tại khu vực Hồ Dầu Tiếng sau đó gia tăng dần về phía sông Thị Tính. Hàm lượng SS trong nước mặt khu vực này nhìn chung đều không đạt tiêu chuẩn chất lượng nước mặt nguồn loại A - nước dùng cho cấp nước sinh hoạt (TCVN 5942-1995 A: SS = 20mg/l). Các đợt 2 và 3 trong tháng 06 & 9, nằm trong mùa mưa lũ nên ảnh hưởng của nước mưa chảy tràn qua cỏc vựng đất canh tác nông nghiệp làm rửa trôi đất gây xói mòn kéo theo một lượng chất rắn vào môi trường nước mặt trong khu vực thượng lưu. Do đó so với tiêu chuẩn nước mặt loại A (TCVN 5942-1995: SS=20mg/l), ngoại trừ điểm hồ Dầu Tiếng, các điểm còn lại đều có hàm lượng chất rắn lơ lửng trong nước mặt khu vực này đều vượt ngưỡng quy định. - Khu vực từ Cầu Phú Cường về phía hạ lưu (Cầu Bình Điền) : Đối với khu vực từ Cầu Phú Long đến Cầu Sài Gòn, nhìn chung hàm lượng chất rắn lơ lửng tại các vị trí trong khu vực này có xu hướng giảm so với đoạn thượng lưu và đều đạt tiêu chuẩn cho phép. Từ vị trí Bến Nhà Rồng đến cầu Bình Điền hàm lượng SS có sự gia tăng đáng kể, đặc biệt tại các vị trí chảy qua địa phận Tp.HCM như Cầu Chữ Y, kết quả 3 đợt 1, 3 và 4 đều vượt tiêu chuẩn nước mặt loại A. Do đây là các vị trí nằm trong khu trung tâm, chịu ảnh hưởng nhiều bởi nước thải sinh hoạt của các khu dân cư, nước thải sản xuất từ các xí nghiệp nhà máy với quy mô vừa và nhỏ trong khu vực. Hàm lượng SS của nước mặt trên lưu vực sông Đồng Nai cũng có sự dao động đáng kể giữa các vị trí khảo sát trong đợt tháng 9/2007, vị trí cầu Phước Hòa và cầu Ông Buông có giá trị tăng đột biến, vượt tiêu chuẩn nước mặt nguồn loại A - nước dùng cho mục đích sinh hoạt. Trong đó mức độ ô nhiễm cao nhất là tại vị trí Cầu Sụng Buụng, là vị trí nằm trên 1 nhánh sông nhỏ (sụng Lỏ Buụng) chảy vào sông Đồng Nai chịu ảnh hưởng bởi nước thải từ các khu công nghiệp Biờn Hòa II, Amata, Long Bình... Mặc dù nước thải tập trung của những khu công nghiệp này đều đã được xử lý trước khi xả ra nguồn nước mặt nhưng chất lượng nước sông ít nhiều vẫn bị ảnh hưởng của ô nhiễm. Giá trị đo được tại các điểm còn lại trong cả 4 đợt không có biến động lớn, đạt tiêu chuẩn cho phép hoặc xấp xỉ ngưỡng tiêu chuẩn. Kờờ́t quả khảo sát tại khu vực các cửa sông cho thấy hàm lượng SS giữa các vị trí khảo sát có sự dao động lớn và có xu hướng giảm dần tại cảng Phí Mỹ. Tuy nhiên, so với các lưu vực sông Sài Gòn và Đồng Nai thì hàm lượng chất rắn lơ lửng khu vực cửa sông có sự gia tăng đáng kể. Giá trị SS dao động trong khoảng khá rộng từ 53 – 284mg/l. So với tiêu chuẩn nước mặt nguồn loại B, nước dùng cho các mục đích khác thì hàm lượng SS trên các khu vực cửa sông khảo sát trong 4 đợt quan trắc năm 2007 hầu hết đều vượt chuẩn. Vì khu vực cửa sông chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ bởi các dòng triều xâm nhập và nước thải sinh hoạt, sản xuất từ các khu công nghiệp phân bố trong khu vực như Nhơn Trạch I, II, III, V, Mỹ Xuân A, Mỹ Xuân B, Gò Dầu, Phú Mỹ, Cỏi Mộp. Hình 3.6. Diễn biến tổng chất rắn lơ lửng trong nước mặt theo không gian năm 2007 Độ đục: Độ đục của nước đặc trưng cho lượng chất hữu cơ, phù sa, các hạt lơ lửng,… và có tỷ lệ tuyến tính với hàm lượng chất rắn lơ lửng có trong nước. Độ đục cao sẽ làm giảm khả năng truyền ánh sáng trong nước, ảnh hưởng khả năng quang hợp của các sinh vật tự dưỡng trong nước, gây giảm thẩm mỹ và làm giảm chất lượng của nước khi sử dụng. Tuy nhiên độ đục còn phụ thuộc vào độ sâu dòng chảy và độ sâu của mẫu khảo sát. Độ đục càng cao thì mức độ nước nhiễm bẩn càng lớn. Diễn biến Độ đục theo thời gian (hình 3.7) Kết quả phân tích độ đục trên lưu vực sông Sài Gòn trong năm 2007 có sự chênh lệch khá lớn, dao động từ 2,1 – 319 NTU, giá trị trung bình năm là 160,6 NTU – cao hơn 1,5 lần năm 2006. Trong từng đợt khảo sát đều cho thấy giá trị độ đục nhỏ nhất, trung bình và cao nhất có sự biến động theo thời gian. Các giá trị độ đục trung bình trong từng đợt khảo sát dao động trong khoảng khá lớn 73,3 – 162,3 NTU. Giá trị đo được trong đợt 2 (tháng 6/2007) cao hơn ba đợt còn lại, nguyên nhân đợt 2 diễn ra trong tháng giữa mùa mưa, sự bào mòn đất đá và rửa trụi trờn bề mặt, theo mưa chảy vào lưu vực; ngoài ra, còn do chất thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, sinh hoạt và dịch vụ không được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi xả ra môi trường đã làm tăng độ đục trong nguồn nước mặt. Theo kết quả quan trắc giá trị độ đục trong 4 đợt năm 2007 trên lưu vực sông Đồng Nai cho thấy độ đục tại các vị trí quan trắc có sự dao động lớn theo thời gian. Thể hiện qua các giá trị độ đục thấp nhất, cao nhất và trung bình trong từng đợt khảo sát có sự thay đổi rất lớn, dao động từ 4,8 – 354 NTU, có xu hướng cao hơn kết quả quan trắc năm 2006 (5,5 - 200 NTU). Trong đợt quan trắc tháng 09/2007, giá trị độ đục trên lưu vực sông Đồng Nai khá cao, giá trị trung bình trong toàn lưu vực lên đến 182 NTU, cao gấp 2,1 lần so với giá trị độ đục trung bình vào tháng 6, gấp 5,7 lần giá trị trung bình tháng 12 và gấp 10,3 lần giá trị trung bình tháng 4. Có thể thấy rằng độ đục có sự gia tăng vào các tháng có lượng mưa lớn do sự rửa trôi các chất lơ lửng , đất đá trên các vùng có địa hình cao xuống dòng sông (tháng 6 và tháng 9). Giá trị độ đục trên khu vực các cửa sông trong năm 2007 cũng tương tự như lưu vực sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, có sự dao động lớn theo thời gian. Các giá trị độ đục nhỏ nhất, trung bình và cao nhất trong từng đợt khảo sát dao động từ 5,9 – 237,0 NTU. Hình 3.7. Diễn biến Độ đục nước mặt theo thời gian năm 2007 Diễn biến Độ đục theo không gian (hình 3.8) Dọc theo chiều dài lưu vực sông Sài Gòn nhận thấy giá trị độ đục có sự biến đổi theo không gian khá rõ rệt. Khu vực Hồ Dầu Tiếng giá trị độ đục đo được là rất thấp do trong hồ không có sự xáo trộn lớn của dòng nước, sau đó tăng dần và đạt cao nhất tại khu vực thuộc sông Thị Tính. Độ đục trong nước mặt tại đây cao nhất so với các vị trớ khỏc trờn toàn lưu vực do nước mặt khu vực này chịu ảnh hưởng bởi nước thải từ các khu công nghiệp và đặc biệt tại vị trí cửa sông Thị Tớnh đó và đang diễn ra hoạt động khai thác cát. Qua khỏi cửa sông Thị Tính, độ đục giảm dần, từ vị trí Bến Nhà Rồng Đồng về hạ lưu giá trị độ đục có xu hướng gia tăng. Đây là khu vực đi qua trung tâm Tp.HCM nên chịu ảnh hưởng nhiều bởi nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất trong khu vực. Nhìn chung giá trị độ đục dọc tại các vị trí trên lưu vực sông Đồng Nai không có biến động lớn trong đợt 1, 2 và 4. Ngoại trừ đợt quan trắc vào tháng 09/2007. Chênh lệch giữa điểm có giá trị thấp nhất (cầu Đồng Nai – đập Trị An) và điểm có giá trị cao nhất (cầu ụng Buụng) lờn đờờ́n 344 NTU. Tại khu vực các cửa sông, nhìn chung độ đục tại hợp lưu sông Vàm Cỏ – sông Soài Rạp đạt giá trị cao nhất và sau đó giảm dần về phía Cảng Gò dầu, Cảng Phú Mỹ, Cảng Cái Mép. Giá trị độ đục tại khu vực hợp lưu giữa hai con sông có chiều hướng tăng cao do có sự xáo trộn lên tục của các dòng nước và sự ảnh hưởng trực tiếp của cỏc dũng triều. Từ các đánh giá diễn biến độ đục theo không gian và thời gian cho thấy độ đục có sự gia tăng vào các tháng có lượng mưa lớn (tháng 6 và tháng 9) do sự rửa trôi các chất lơ lửng , đất đá trên các vùng có địa hình cao xuống dòng sông và sau đó có xu hướng giảm dần vào các tháng có lượng mưa trên khu vực thấp. Hình 3.8. Diễn biến Độ đục nước mặt theo không gian năm 2007 3.3.2. Xột trên phương diện nhiễm mặn Sự xâm nhập mặn từ biển vào nội đồng là do ảnh hưởng của thủy triều trong điều kiện địa hình của sông hay kênh rạch thấp hơn. Thủy triều trên lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai mang tớnh bỏn nhật triều không đều. Mức độ nhiễm mặn phụ thuộc theo mùa rõ rệt. Vào mùa mưa, lượng mưa lớn có tác dụng đẩy xâm nhập mặn về phía hạ lưu. Tuy nhiên, các hồ chứa có chức năng điều hòa dòng chảy rất lớn do vậy sự xâm nhập mặn hiện nay đó ớt mang tính thời vụ như trước khi có sự hiện diện của các hồ chứa. Xâm nhập mặn được đặc trưng bằng sự tăng hàm lượng ion Clorua trong nước. Nồng độ Clorua lớn khiến tổng chất rắn hòa tan TDS tăng dẫn đến độ dẫn điện EC tăng. Đối với nước mặt thì 3 thông số này thường tỉ lệ thuận với nhau và mang thông tin hỗ trợ nhau. Giữa độ dẫn điện và TDS có mối liên hệ nhất định, do đó hai đại lượng này thường được sử dụng để thay thế lẫn nhau. Người ta cũng sử dụng thông số TDS để đánh giá mức độ nhiễm mặn của nước sông, bởi vì các cation và anion chiếm uu thế là ion Natri và ion Clo. Ngoài ra, cũng cần lưu ý một số ngành công nghiệp sản xuất cũng có thể thải ra lượng lớn các ion Clo trong nước thải, ví dụ công nghiệp sản xuất hóa chất (xút, clo), công nghiệp sản xuất phân bón... Tuy nhiên, đối với khu vực hạ lưu sông Sài Gũn thỡ nồng độ Clo hiện diện trong nước chủ yếu từ sự xâm nhập mặn của thủy triều biển Đông. Tiêu chuẩn nước mặt không quy định nồng độ giới hạn hàm lượng của Clorua nói riêng cũng như của TDS hay EC nói chung, nhưng đối với nguồn nước được dùng cấp nước cho sinh hoạt thì Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo giới hạn nồng độ Clorua trong nước là 250mg/l. Các hình 3.9, 3.10, 3.11 cho thấy có sự tương đồng rất lớn giữa lượng Clorua, nồng độ TDS và độ dẫn điện tại các điểm trên toàn các lưu vực khảo sát trong cả 4 đợt năm 2007. Nói chung là trong đợt 3, các điểm quan trắc có nồng độ Clorua, TDS và độ dẫn điện thấp nhất so với 3 đợt còn lại. Trên lưu vực sông Sài Gòn, tương tự kết quả năm 2006, đoạn từ Hồ Dầu Tiếng đến cầu Bình Triệu đều không phát hiện có sự nhiễm mặn ở cả bốn đợt. Ngược lại, đoạn từ cầu Sài Gòn đến Bến Nhà Rồng, xuất hiện hiện tượng nhiễm mặn trong đợt 1 (tháng 4); càng về hạ lưu, mức độ nhiễm mặn gia tăng, tất cả các điểm quan trắc đều vượt ngưỡng khuyến cáo dùng cấp nước cho sinh hoạt của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (> 250 mg/l), đặc biệt là trong đợt 1, từ cầu Sài Gòn đến cầu Bình Điền, kết quả đợt 1 cao hơn 3 đợt còn lại và dao động từ 439 – 1361 mg/l. Bốn điểm cuối có nồng độ Clo đo được trong các đợt 1 và 2 đến hơn 1000mg/l. Thêm vào đó, diễn biến về độ dẫn điện và TDS từ khu vực Thủ Dầu Một đến ngã ba Đèn Đỏ đo đạc bằng thiết bị đo liên tục cú ghộp nối định vị vệ tinh gắn với máy phân tích nước điều khiển bằng máy tính điện tử được tiến hành bởi Viện hóa học vào ngày 12-14/09/2007 cũng cho thấy các thông số này trong nước mặt sông Sài Gũn trờn đoạn quan trắc tăng dần từ thượng lưu (Thủ Dầu Một) đến hạ lưu (mũi Đèn Đỏ). Các điểm quan trắc trên lưu vực sông Đồng Nai đều thuộc khu thượng lưu và trung lưu sông Đồng Nai nên nồng độ Clorua cũng như TDS và độ dẫn điện của khu vực này khá thấp, hoàn toàn mang đặc trưng của nguồn nước ngọt, chưa có dấu hiệu nhiễm mặn. Nồng độ Clo, TDS và độ dẫn điện của các điểm quan trắc qua 3 đợt khá ổn định, không có sự tăng giảm bất thường. Nồng độ Clo đều thấp hơn 32,3 mg/l, nằm trong mức giới hạn của Tổ chức Y tế thế giới về nồng độ Clorua trong nước (250mg/l). Hình 3.9. Diễn biến nồng độ ion Clorua nước mặt theo không gian năm 2007 Hình 3.10. Diễn biến tổng chất rắn hòa tan nước mặt theo không gian năm 2007
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan