Lời mở đầu
Trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt về mọi
mặt, đòi hỏi các chủ thể kinh tế ngoài nguồn vốn tự có phải
biết huy động vốn để đáp ứng các yêu cầu của quá trình sản
xuất - kinh doanh, đồng thời quan trọng hơn nữa là việc phân
phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh một cách
hợp lý,đạt được hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các
chế độ, chính sách Pháp luật hiện hành. Hoạt động tài chính
doanh nghiệp là hoạt động xuyên xuốt tất cả các khâu của
quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu huy động vốn cho tớ
khâu cuối cùng là phân phối lãi thu đượctừ các hoạt động
đó. Kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng đồng thời là kết quả tài chính của doanh nghiệp. Do
vậy mà hoạt động tài chính có vai trò to lớn đôi với hoạt
động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, đồng thời
nó cũng là một chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Ngày nay, trong điều kiện các quan hệ kinh tế dược mở
rộng, tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp không những
được quan tâm bởi các nhà quản lý doanh nghiệp mà các đối
tượng khác có quan tâm tới như các cổ đông, các nhà đầu tư,
các đối tác, các cơ quan quản lý Nhà nước... cũng rất quan
tâm tới tình hình tài chính doanh nghiệp. Chính vì vậy mà
việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính tài
chính doanh nghiệp sẽ giúp cho các đối tượng sử dụng thông
tin tài chính của doanh nghiệp nắm bắt được thực trạng tài
chính doanh nghiệp, xác điịnh được các nguyên nhân vàmức
độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính cũng
như các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quá trình phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chủ
yéu dựa trên các Báo cáo tài chính định kỳ, bao gồm Bảng
1
cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh,Bảng báo các
lưu chuyển tiền tệ và các bảng phụ chú khác.Thông qua việc
phân tích các Báo cáo tài chính cho phép đấnh giá được thực
trạng tài chính, kết quả cũng như trình độ sử dụng, quản lý
vốn của doanh nghiệp và triẻn vọng Kinh tế – Tài chính
trong thời gian tới. Từ đó có cơ sở để đưa ra các giải pháp
nhằm phát huy khả năng của doanh nghiệp, hạn chế những
mặt còn yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh
nghiệp phát triển hơn nữatrong chiến lược sản xuất kinh
doanh của mình.
ý thức được tầm quan trọng nêu trên, trong quá trình thực
tập tại công ty Xà phòng Hà nội, với đề tài “Báo cáo tài
chính với việc phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp” được chọn làm nội dung em đã tiến hành phân tích
và đánh giá tình hình tài chính của công ty Xà phòng Hà nội
trên cơ sở các Báo cáo tài chính của công ty. Cơ cấu của bài
viết gồm 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về Tài chính – Báo cáo tài chính và
việc phân tích tình hình tài chính trong các doanh nghiệp.
Nội dung của phần 1 là giới thiệu một cách cơ bản về tài
chính doanh nghiệp, đồng thời nêu lên khái niệm, nội dung
của hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng như các chức
năng của hoạt động tài chính doanh nghiệp trong điều kiện
hiện nay.
Phần 2: Thực trạng công tác tài chính ở công ty Xà phòng
Hà nội.
Bên cạnh việc giới thiệu khái quát về công ty Xà phòng
Hà nội, nội dung chính của phần này là đi sâu phân tích thực
trạng công tác tài chính của công ty trong kỳ sản xuất kinh
doanh năm 2000, đánh giá chung về tình hình tài chính của
công ty những năm gần đây.
2
Phần 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện tình hình Tài
chính của Công ty Xà phòng Hà nội.
Nội dung của phần này là một số giải pháp của bản thân
em sau khi đã đi sâu tìm hiểu và phân tích tình hình tài chính
của công ty nhằm hoàn thiện tình hình tài chính, tạo điều
kiện cho công ty trong định hướng phát triển thời gian tới.
Tuy nhiên do nhận thức của bản thân còn hạn chế, hơn
nữa quá trình tiếp cận ban đầu với các vấn đề mới mẻ còn
nhiều khó khăn sẽ không tránh khỏi sai sót. Em rất mong
nhận được các ý kiến đóng góp chỉ bảo đẻ bài viết được hoàn
thiện hơn.
Thông qua bài viết, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
quý báu, tận tình của các cô, các anh, các chị phòng Tài
chính – Kế toán ở công ty Xà phòng Hà nội. Em xin chân
thành cảm ơn thầy giáo Bùi Tiến Hanh đã giúp đỡ em hoàn
thành bài viết này!
*************************************************
*
3
Chương1
Lý luận chung về tài chính - báo cáo tài chính
Và việc phân tích tình hình tài chính
Trong các doanh nghiệp
1.1.Những lý luận chung về tài chính doanh nghiệp:
1.1.1.Khái quát chung về tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là một mắt xích quan
trọng của hệ thống tài chính trong nền kinh tế, là một phạm
trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế
hàng hoá tiền tệ. Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh
thì bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải có một lượng tiền
tẹ nhất định, đó là một tiền đề cần thiết và quan trọng. Quá
trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng đồng thời
là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Trong quá trình đó đã phát sinh các luồng tiền tệ gắn liền với
các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động đầu tư
cũng như các hoạt động khác của doanh nghiệp. Các luồng
tiền tệ đó bao gồm các luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền
tệ đi ra khỏi doanh nghiệp tạo thành sự vận động của các
luồng tài chính trong doanh nghiệp.
Đi đôi với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế biểu hiện
dưới hình thức giá trị, hay nối cách khác đó chính là các quan
hệ tài chính đối với doanh nghiệp, cụ thể là
-Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước:
Quan hệ này phát sinh thông qua việc Nhà nước cung cấp
vốn (hàng hoá hay dịch vụ) cho doanh nghiệp hoạt động (đôí
với trường hợp là doanh nghiệp nhà nước) và thông qua việc
doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với
4
nhà nước như việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí... theo luật
định.
-Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài
chính:
Qua việc doanh nghiệp thực hiện quá rtình trao đổi, mua
bán các sản phẩm tài chính nhằm thoả mãn các nhu cầu về
vốn. Trong quá trình này doanh nghiệp phải luôn tiếp xúc,
trao đổi với thị trường tài chính chủ yếu là thị trường tiền tệ:
với phương pháp huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn mà các ngân hàng, các doanh nghiệp có thể huy động
được nguồn vốn để phục vụ cho qúa trình hoạt động của
mình. Còn với thị trường vốn: các doanh nghiệp cũng có thể
tạo được nguồn vốn thích hợp bằng cách phát hành các giấy
tờ có giá như chứng khoán, cổ phiếu hoặc trái phiếu. Ngoài
ra, doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh các mặt hàng
này trên thị trường để có thể thu lợi nhuận, thoả mãn nhu cầu
về vốn.
-Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế
khác:
Đây là các quan hệ về mặt thanh toán trong việc vay hoặc
cho vay vốn, đầu tư vốn (như quan hệ liên doanh – liên kết,
quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ đầu tư, các ngân
hàng...) hoặc các quan hệ về mua bán tài sản, vật tư hàng hoá
và các dịch vụ khác (quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối
tác kinh doanh, quan hệ giữa doanh nghiệp với các ngân
hàng...).
-Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp:
Các quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh
nghiệp phải có nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền công, tiền
lương, các khoản tiền thưởng, tiền phạt với cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp. Thông qua việc thanh toán giữa các
bộ phận trong doanh nghiệp hoặc trong việc phân phối lợi
5
nhuận sau thuế, việc phân chia lợi nhuận, phân chia lợi tức
cho các cổ đông hay việc hình thành các quỹ của doanh
nghiệp...
-Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường
khác:
Với tư cách là một chủ thể hoạt đông kinh doanh, doanh
nghiệp có quan hệ với thị trường cung cấp (người bán) và các
thị trường phân phối, tiêu thụ sản phẩm (người mua). Đó
chính là thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao
động, thị trường xuất nhập khẩu... Thông qua việc quan hệ
với các thị trường này doanh nghiệp có thể xác định được
nhu cầu sản phẩm và dịch vụ tương ứng, trên cơ sở đó doanh
nghiệp hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh nhằm thoả
mãn nhu cầu thị trường tối đa với chi phí nhỏ nhất.
Như vậy, có thể nói tài chính doanh nghiệp chính là quá
trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ, và đi đôi
với nó là các quan hệ kinh tế đặc thù. Mỗi doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển được thì việc hoạch định phương
hướng, kế hoạch cũng như chiến lược về tài chính là rât quan
trọng. Nhất là trong điều kiện hiện naylà nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh gay gắt thì vấn đề tài chính lại càng
trở nên quan trọng. Ngoài ra các doanh nghiệp phải chú trọng
đến phương hướng, kế hoạch cho hoạt động kinh doanh được
mở rộng và nâng cao hơn vai trò của các quan hệ kinh tế... là
điều bắt buộc phải làm để có thể phát triển...
1.1.2.Khái niệm cơ bản về tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách
quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ,
cùng với sự phát triển và những đặc tính của nền kinh tế thị
trường là sự xuất hiện của hàng loạt các quan hệ tài chính
6
mới làm cho tính chất và phạm vi hoạt động của tài chính
doanh nghiệp có những thay đổi đáng kể.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là một khâu của hệ
thống tài chính trong nền kinh tế; là quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp nhằm góp phần đạt tới các mục tiêu
của doanh nghiệp. Các hoạt động có liên quan tới việc tạo
lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ thuộc các hoạt động
tài chính tạo nên các quan hệ kinh tế - tài chính của doanh
nghiệp. Nếu như các quan hệ này được tổ chức tốt thì cũng là
nhằm đạt tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp.
Có thể nói Tài chính chính là các quan hệ tiền tệ và quỹ
tiền tệ. Tuy nhiên, nếu xét về mặt thực chất thì các quan hệ
tiền tệ và các quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài,
mà ẩn đằng sa nó là những quan hệ kinh tế phức tạp, những
luồng chuyển dịch giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ. Sự vận động này không chỉ bó hẹp trong một
chiu kỳ sản xuất kinh doanh mà nó còn được thể hiện trực
tiếp hay gián tiếp có liên quan đến tất cả các khâu của quá
trình tái sản xuất giữa doanh nghiệp với các đối tác trong nền
kinh tế thị trường. Những quan hệ đó tuy chứa đựng những
nội dung kinh tế khác nhau nhưng chúng đều có những đặc
trưng giống nhau như quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp
với Nhà nước, với các thị trường (thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường các yếu
tố đầu ra...), các quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ
doanh nghiệp, các quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với
các đối tác hay với các chủ thể khác trong xã hội...
Như vậy, các quan hệ tài chính được xem như là kết quả
của hoạt động phân phối, trao đổi (mua – bán) và nó bao quát
mọi khía cạnh trong vòng kinh doanh của doanh nghiệp. Do
vậy mà các nhóm quan hệ này đều mang những đặc trưng
7
nhất định và nó cũng là những đặc trưng cơ bản của tài chính
doanh nghiệp:
+Thứ nhất: Tài chính doanh nghiệp phản ánh những luồng
chuyển dịch giá thị trong nền kinh tế. Những luồng chuyển
dịch đó chính là sự vận động của quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Và rõ ràng các quan hệ tài chính đã
cho ta thấy sự vận động của các nguồn tài chính đều nảy sinh
trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp.
+Thứ hai: Sự vận động của các nguồn tài chính không phải
diễn ra một cách tự phát, và nó được hoà nhập thích ứng vào
chu kỳ kinh doanh. Đây chính là sự vận động chuyển hoá các
nguồn tài chính thành các quỹ tiền tệ bằng các quan hệ phân
phối dưới hình thức giá trị nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ phục vụ cho các mục tiêu sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Chính nhờ hai đặc trưng này mà chúng ta có thể phân biệt
được các quan hệ tài chính với các quan hệ khác. Và do vậy
có thể đưa ra một định nghĩa về tài chính mang tính chất
chung nhất:
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế
dưới hình thức giá trị, nảy sinh trong quá trình phân phối của
cải xã hội gắn liền với sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu chung của xã hội.
1.1.3.Nội dung cơ bản của hoạt động tài chính doanh
nghiệp:
Suy cho cùng thì hoạt động tài chính doanh nghiệp là
nhằm thực hiện các mục tiêu chung của doanh nghiệp, có thể
mục tiêu đó là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp hay mục tiêu
8
tăng trưởng và phát triển. Cụ thể hoạt động tài chính doanh
nghiệp bao gồm các nội dung cơ bản sau:
-Thứ nhất: Vấn đề là đầu tư vào đâu và đầu tư như thế nào
cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh đã chọn để
nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp ?
Để có thể giải quyết được vấn đề này thì doanh nghiệp
trước hết phải căn cứ vào mục tiêu, phương hướng phát triển
của mình, sau đó lọc ra những phương án khả thi nằm trong
phương hướng đã chọn. Đồng thời doanh nghiệp phải tiến
hành phân tích cụ thể mỗi phương án đầu tư, phân tích những
rủi do có thể gặp phải trong quá trình đầu tư, sản xuất và
phân tích các kết quả có thể mang lại. Từ đó đưa ra các quyết
định đầu tư cho phương án tối ưu.
-Thứ hai: Nguồn tài trợ được huy động ở đâu và vào thời
điểm nào với một cơ cấu tối ưu và chi phí thấp nhất ?
ở nội dung này cần nhận thấy rằng có sự liên hệ giữa các
quan hệ tài chính của doanh nghiệp với các thị trường và với
các đôí tác của doanh nghiệp. Thông qua mối quan hệ với thị
trường tài chính (thị trường vốn, thị trường tiền tệ... ) mà dn
có thể chủ động vay vốn từ thị trường. Mặt khác, thông qua
mối quan hệ tài chính với các đối tác mà doanh nghiệp có thể
phân tích cụ thể tình hình nội tại và kêu gọi vốn đầu tư hay
tham gia liên doanh – liên kết, thuê tài chính...
-Thứ ba: Lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng như thế
nào ?
Đây là một vấn đề rất nhạy cảm và có tầm quan trọng lớn.
Phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia số tiền lãi
một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối
quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp
cần phải giải quyết hài hoà các mối quan hệ về lợi ích giữa
Nhà nước, doanh nghiệp và CB CNV nhưng trước hết cần
thực hiện nghĩa vụ và hoàn thành trách nhiệm đối với Nhà
9
nước theo Pháp luật quy định. Một vấn đề quan trọng khác là
doanh nghiệp cần phải dành phần lợi nhuận để lại thích đáng
để giải quyết các nhu cầu kinh doanh của mình, đồng thời
chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành viên trong đơn vị.
Cụ thể, nội dung phân phối lợi nhuận được tóm tắt theo sơ đồ
sau:
Lợi nhuận doanh nghiệp
Lợi nhuận
HĐTC
Lợi nhuận từ
HĐKD
Lợi nhuận từ HĐ
khác
phân
Nộp thuế TNDN
Nộ p
tiền thu
sử dụng
vốn
NSNN
Trả các
khoản
tiền bị
phạt
Lợi nhuận
HĐBT
phối
Lợi nhuận sau
thuế
Trừ các
khoản
tiền bị
phạt
Chi LD
cổ
phần,
trái
phiếu
Bù đắp
bảo
toànvốn
Trích
lập các
quỹ DN
Việc phân phối lợi nhuận đúng đắn sẽ trở thành động lực
thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc sản xuất kinh doanh
của mình.
10
-Thứ tư: Phân tích, đánh giá và kiểm tra các hoạt động như
thế nào để thường xuyên đảm bảo trạng thái tài chính có hiệu
quả ?
-Thứ năm: Quản lý các hoạt động tài chính như thế nào đẻ
đưa ra các quyết định thu – chi cho phù hợp ?
Đây là một vấn đề khó đối với doanh nghiệp vì các nguồn
vốn ngắn hạn chủ yếu là vốn lưu động đều được đầu tư vào
quá trình sản xuất phục vụ cho mục đích kinh doanh của
doanh nghiệp. Các yếu tố có liên quan đến doanh thu của
doanh nghiệp không phải chỉ do doanh nghiệp quyết định mà
nó còn phụ thuộc vào thị trường và vấn đề thị hiếu tiêu dùng.
Tuy nhiên các quyết định của doanh nghiệp sẽ trở nên dễ
dàng hơn nếu sản phẩm của doanh nghiệp đã có uy tín và
chiếm lĩnh được thị trường.
1.1.4.Chức năng của tài chính doanh nghiệp:
Xuất phát từ nội dung hoạt động tài chính mà tài chính
doanh nghiệp có các chức năng sau:
-Chức năng phân phối:
Chức năng phân phối là thuộc tính vốn có, khách quan
của tài chính doanh nghiệp, là công cụ kinh tế của phạm trù
tài chính. Phân phối tài chính dưới hình thức giá trị diễn ra
giữa hai chủ thể và hai chủ thể này có thể ở hai hình thức sở
hữu khác nhau. Nhờ có chức năng phân phối mà doanh
nghiệp có khả năng khai thác, thu hút các nguồn tài chính
trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Thông qua chức năng phân phối mà vốn kinh doanh
được đầu tư, sử dụng vào mục đích kinh doanh để tạo ra thu
nhập và tích luỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Hay nói khác đi,
nhờ có chức năng phân phối mà các quỹ được tạo lập và sử
dụng. Đồng thời vốn kinh doanh của doanh nghiệp được tuần
hoàn và chu chuyển tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây
11
là yếu tố quan trọng nhất quyết định phương hướng và cách
thức phân phối tài chính của doanh nghiệp.
-Chức năng giám đốc:
Cũng như chức năng phân phối, chức năng giám đốc là
thuộc tính khách quan của tài chính doanh nghiệp, là công cụ
kinh tế của phạm trù tài chính. Biểu hiện tập trung nhất của
chức năng này là giám đốc các quá trình hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Trong quá trình phân
phối, hàng loạt các quỹ tiền tệ được hình thành và sử dụng,
song việc hình thành không phải do ngẫu nhiên hay tự phát.
Với khả năng giám đốc của tài chính, các quỹ tiền tệ được
hình thành từ các nguồn tài chính hợp lý, tức là có tính chất
luật pháp và có hiệu quả. Thông qua chức năng giám đốc, tài
chính doanh nghiệp đảm bảo cho các quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp được sử dụng đúng mục đích, từ đó nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Chức năng giám đốc là sự giám sát, dự báo tính hiệu quả
của các quá trình phân phối. Nhà quản lý có thể thấy được
yếu điểm trong quá trình kinh doanh để có sự điều chỉnh kịp
thời, nhằm thực hiện được mục tiêu kinh doanh dã định.
Như vậy, giữa chức năng phân phối và chức năng giám
đốc có quan hệ hữu cơ với nhau. Chức năng phân phối là cơ
sở để thực hiện chức năng giám đốc. ở đâu có sử dụng các
nguồn tài chínhthì chức năng giám đốc tài chính sẽ làm cho
quá trình đó được thực hiện đúng mục tiêu và có tính hiệu
quả.
1.2.Lý luận chung về Báo cáo tài chính:
Trong điều kiện hiện nay, các hoạt động tài chính cũng
như các hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có vị trí, vai trò
quan trọng, và có ý nghĩa quyết định về sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Về phía Nhà nước: để có thể thực
12
hiện được chức năng, vai trò điều tiết, định hướng và quản lý
các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, Nhà nước cần phải
ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật để có thể
điều chỉnh một bộ phận lớn và đặc thù các hoạt động và quan
hệ xã hội: đó là các quan hệ kinh tế. Trong điều kiện đó Báo
cáo tài chính được Nhà nước quy định theo một số chuẩn
mực nhất định và có tính chất bắt buộc (một số loại hình Báo
cáo tài chính tuỳ theo điều kiện mỗi doanh nghiệp có thể có
tính chất bắt buộc hoặc không) đối với các doanh nghiệp.
1.2.1.Báo cáo tài chính - Tài liệu chủ yếu trong việc phân
tích hoạt động tài chính doanh nghiệp:
Báo cáo tài chính xét cho cùng thì chính là biểu hiện khác
đi của hoạt động tài chính. Dưới quy mô doanh nghiệp, Báo
cáo tài chính chính là sự tóm tắt tổng quát quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có liên quan đến
việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ. Tuy nhiên,
vì mục đích sử dụng và một số lĩnh vực tài chính cần chú ý
chi tiết mà Báo cáo tài chính được Nhà nước quy định theo
từng chỉ tiêu và có tính chất cưỡng chế rõ ràng về nội dung,
hình thức, thời hạn lập và gửi... Thông qua nội dung cụ thể
về việc theo dõi, tạo lập và sử dụng Báo cáo tài chính mà
chúng ta có khái niệm chung về Báo cáo tài chính như sau:
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình
hình tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình
hình tài chính hay kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là phương tiện để doanh
nghiệp trình bày khả năng sinh lời và thực trạng tài chính của
doanh nghiệp cho vcác đối tượng quan tâm.
Thông qua quá trình hoạt động của doanh nghiệp gắn với
việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ mà Báo
cáo tài chính được hình thành. Hay nói khác đi, chính do sự
13
vận động (vận động ra khỏi hay đi vào) của các luồng tiền tệ
mà Báo cáo tài chính được sử dụng để theo dõi, sử dụng hay
điều chỉnh nguồn tài chính của doanh nghiệp cho phù hợp.
Các đối tượng sử dụng Báo cáo tài chính tài chính doanh
nghiệp có thể là các doanh nghiệp, Nhà nước hoặc cũng có
thể là các đối tác kinh doanh, các nhà đầu tư... tuỳ theo mức
trách nhiệm và sự cần thiết của thông tin trên Báo cáo tài
chính.
Báo cáo tài chính được Nhà nước quản lý rất chặt chẽ
theo cấp và được định thống nhất về phương pháp lập,
phương pháp tính, thời hạn lập và gửi... Các thông tin kế toán
trên Báo cáo tài chính phải có tính chất xác thực và có cơ sở.
Nếu xét riêng biệt về ý nghĩa của từng chỉ tiêu trên Báo cáo
tài chính thì chỉ có tính chất thống kê đơn thuần, nhưng nếu
xết về mối quan hệ giữa các chỉ tiêu thì các chỉ tiêu mang lại
một thông tin mới có ý nghĩa chung và mang tính chất điển
hình của doanh nghiệp. Ví dụ như chỉ tiêu Tỷ suất thanh
toán ngắn hạn của doanh nghiệp được xác định bằng thương
số giữa chỉ tiêu TSLĐ & ĐTNH với chỉ tiêu Tổng nợ ngắn
hạn. Nếu như chỉ tiêu này được xét riêng biệt, tách rời thì số
liệu thống kê chỉ có tính chất quy mô. Ngược lại, khi xem xét
tổng hợp hai chỉ tiêu thì kết quả giữa TSLĐ & ĐTNH với
Tổng nợ ngắn hạn lại nói lên khả năng tài chính của doanh
nghiệp có thể trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn. Hoặc chỉ
tiêu Doanh lợi doanh thu được xác định bằng thương số giữa
Lợi nhuận thuần với Doanh thu thuần trong kỳ của doanh
nghiệp (thường là 1 năm, 1quý hay 1 tháng...). Nếu chỉ xem
xét từng chỉ tiêu: chỉ tiêu LNT cho chúng ta biết về khả năng
kinh doanh cũng như nghĩa vụ phải nộp thuế thu nhập của
doanh nghiệp đối với Nhà nước, chỉ tiêu DTT nói lên quy mô
kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xem xét tổng hợp hai
nhân tố này thì thương số giữa hai chỉ tiêu lại cho chúng ta
14
biết được khả năng có thể thu lợi nhuận tính trên mỗi đồng
DTT của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy được các thông tin kế toán trên Báo
cáo tài chính là rất quan trọng và có ý nghĩa không chỉ đối
với sư phát triển của doanh nghiệp mà còn có tính chất quyết
định đối với Nhà nước, với các đối tác kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên vai trò của Báo cáo tài chính chỉ có thể
được thực hiện nếu các thông tin trên Báo cáo tài chính là
thực sự có cơ sở và đáng tin cậy. Chính vì vậy mà việc xác
định quy mô và mức độ chính xác của các thông tin trên Báo
cáo tài chính là rất quan trọng, làm căn cứ pháp lý để Nhà
nước quản lý và xác định mức trách nhiệm đối với doanh
nghiệp. Đồng thời cũng là căn cứ để các đối tượng sử dụng
thông tin đưa ra các quyết định trong quan hệ với doanh
nghiệp. Ngoài ra, các số liệu kế toán trên Báo cáo tài chính
còn là căn cứ để Nhà nước kiểm tra, điều chỉnh việc sử dụng
vốn và kinh phí ở các đơn vị thuộc sở hữu Nhà nước, là cơ sở
cho việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, các kế
hoạch, chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội dài hạn của Nhà
nước.
Qua nội dung ở trên, chúng ta đã thấy được mối quan hệ
giữa tài chính và Báo cáo tài chính. Có thể nói Báo cáo tài
chính là kết quả của hoạt động tài chính. Hay nói khác đi,
hoạt động tài chính của doanh nghiệp chính là nguồn gốc, là
nội dung cho Báo cáo tài chính, và Báo cáo tài chính có
nhiệm vụ phản ánh trung thực nội dung hoạt động tài chính
của doanh nghiệp. Trong trường hợp đi vào phân tích hoạt
động tài chính của doanh nghiệp thì không thể không sử
dụng đến Báo cáo tài chính.
Và ngược lại, khi tiến hành phân tích Báo cáo tài chính thì
cũng đồng thời phải tiến hành phân tích nội dung nội dung
hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa hoạt
15
động tài chính và Báo cáo tài chính là mối quan hệ nhân quả. Nếu hoạt động tài chính của doanh nghiệp là khả quan
và có kết quả tốt thì tất yếu Báo cáo tài chính của doanh
nghiệp cũng có tính chất thuyết phục các dối tác kinh doanh
của doanh nghiệp. Nhà nước với tư cách là người quản lý vĩ
mô, thông qua cac chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp sẽ thực hiện trách nhiệm quản lý và doanh
nghiệp cũng có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với Nhà nước theo luật định.
1.2.2.Những nội dung cơ bản của Báo cáo tài chính:
Như đã trình bày ở phần trước, Báo cáo tài chính là báo
cáo tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các chỉ tiêu kinh
tế - tài chính nhất định để phản ánh tình hình tài sản của đơn
vị tại một thời điểm, kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh và tình hình sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định
của đơn vị, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin kế toán
nhận biết được tình hình kinh tế - tài chính trong quá trình
sản xuất - kinh doanh của đơn vị và đề ra các quyết định cần
thiết. Đồng thời, Báo cáo tài chính còn là phương tiện để
doanh nghiệp trình bày khả năng sinh lời và thực trạng tài
chính doanh nghiệp cho các đối tượng quan tâm. Theo chế
độ hiện hành thì nội dung Báo cáo tài chính bao gồm hai loại
hình là báo cáo bắt buộc và báo cáo hướng dẫn.
*.Báo cáo tài chính bắt buộc:
Là những báo cáo mà mọi doanh nghiệp đều phải lập và
gửi theo định kỳ, không phân biệt hình thức sở hữu và quy
mô của doanh nghiệp.
Hiện nay, theo quy định của Nhà nước các doanh nghiệp
định kỳ phải lập ba báo cáo bắt buộc sau:
-Bảng cân đối kế toán (Balance Sheet):
16
Là một tài liệu mang tính chất bao quát và quan trọng
nhất để nghiên cứu, đánh giá tổng quát tình hình kinh doanh
cũng như kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn
và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Kết cấu của Báo cáo tài chính bao gồm hai phần: phần
“Tài sản” và phần “Nguồn vốn”. Phần Tài sản phản ánh giá
trị của tài sản, phần Nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành
của Tài sản trong doanh nghiệp.Trong đó phần Tài sản gồm
các chỉ tiêu như: Tiền, Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
Các khoản nợ phải thu... phần Nguồn vốn gồm các chỉ tiêu
như Nợ ngắn hạn, Nợ dài hạn, Các khoản phải thu... Xét theo
góc độ kinh tế, phần “Tài sản” cho phép đánh giá tổng quát
về năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp, phần
“Nguồn vốn” nói lên thực trạng của doanh nghiệp. Xét trên
góc độ pháp lý, phần “Tài sản”thể hiện tiềm lực mà doanh
nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài gắn với mục tiêu
của doanh trnghiệp, phần “Nguồn vốn” thể hiện mức trách
nhiệm của doanh nghiệp về số vốn đã đăng ký kinh doanh
với Nhà nước, về tổng số tài sản đã được hình thành bằng số
vốn vay Ngân hàng cũng như số vốn vay của các đối tượng
khác, trách nhiệm phải thanh toán các khoản phải trả cho
người lao động, cho cổ đông của doanh nghiệp, cho nhà cung
cấp... Cụ thể Bảng cân
đối kế toán được quy định theo mẫu sau:
Mẫ
u số B01 - DN
Bảng cân đối kế toán
Ngày...
tháng...
năm...
Đơn vị tính...
M
ã
Tài sản
17
Số đầu
Số cuối
A.TSLĐ và ĐTNH
I. Tiền
1. Tiền mặt tại quỹ
2. Tiền gửi ngân hàng
3. Tiền đang chuyển
II. Các khoản đầu tư tài chính
NH
1. Đầu tư chứng khoán NH
2. Đầu tư chứng khoán NH
khác
3. Dự phòng giảm giá đầu tư
NH (*)
III. Các khoản phải thu
1. Phải thu của khách hàng
2. Trả trước cho người bán
3. Thuế GTGT được khấu trừ
4. Phải thu nội bộ
- Vốn KD ở các đơn vị phụ
thuộc
- Phải thu nội bộ khác
5. Các khoản phải thu khác
6. DP các khoản phải thu khó
đòi (*)
IV. Hàng tồn kho
1. Hàng mua đang đi trên
đường
2. Nguyên liệu, vật liệu tồn
kho
3. Công cụ, dụng cụ tồn kho
4. Chi phí SXKD dở dang
18
số
10
0
11
0
11
11
12
11
31
20
12
11
28
12
9
13
0
13
1
13
2
13
3
13
4
13
5
13
6
13
8
năm
kỳ
5. Thành phẩm tồn kho
6. Hàng hoá tồn kho
7. Hàng gửi đi bán
8. DP giảm giá hàng tồn kho
(*)
V. Tài sản lưu động khác
1. Tạm ứng
2. Chi phí trả trước
3. Chi phí chờ kết chuyển
4. Tài sản thiếu chờ xử lý
5. Các khoản thế chấp, ký
cược, ký quỹ
VI. Chi sự nghiệp
1. Chi sự nghiệp năm trước
2. Chi sự nghiệp năm nay
19
13
9
14
0
14
1
14
2
14
3
14
4
14
5
14
6
14
7
14
9
15
0
15
1
15
2
15
3
15
4
15
5
B. TSCĐ và ĐTDH
I. Tài sản cố định
1. TSCĐ hữu hình
- Nguyên giá
- Giá trị hao mòn luỹ kế (*)
2. TSCĐ thuê tài chính
- Nguyên giá
- Giá trị hao mòn luỹ kế
3. TSCĐ vô hình
- Nguyên giá
- Giá trị hao mòn luỹ kế (*)
II. Các khoản đầu tư TC dài
hạn
1. Đầu tư chúng khoán dài hạn
2. Góp vốn liên doanh
3. Các khoản đầu tư TC dài
hạn khác
4. DP giảm giá đầu tư dài hạn
(*)
III. Chi phí XDCB dở dang
IV. Các khoản ký quỹ, kỹ
cược DH
20
16
01
61
16
2
20
0
21
0
21
1
21
2
21
3
21
4
21
5
21
6
21
7
21
8
21
9
22
0
22
1
22
- Xem thêm -