Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân...

Tài liệu Bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân

.PDF
128
135
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THỊ VI BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THỊ VI BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS NGUYỄN BÍCH THU THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS - TS Nguyễn Bích Thu, nhà văn Triều Ân đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học – Quan hệ quốc tế, các thầy cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, các thầy cô giáo Viện Văn học, Trường Trung học phổ thông Cao Bình cùng bạn bè và những người thân trong gia đình đã tạo mọi điều kiện tốt đẹp để giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, ngày 30 tháng 9 năm 2009 Tác giả Hoàng Thị Vi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài............................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................... 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................... 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................... 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................. 5 4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................. 5 6. Cấu trúc luận văn ............................................................................. 6 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 7 Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TRIỀU ÂN ............................................................ 7 1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc ................................................................ 7 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam .................................. 7 1.1.2. Đặc điểm văn hóa dân tộc (Tày, Dao) ................................. 10 1.2. Sáng tác của Triều Ân trong dòng chảy của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ........................................................... 22 1.2.1. Đôi nét về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ................................................................................................ 22 1.2.2. Sáng tác của Triều Ân ......................................................... 23 Chƣơng 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN................................................................................... 34 2.1. Phƣơng diện phong tục tập quán ................................................ 34 2.1.1. Văn hoá Tày, Dao qua lễ hội, chợ phiên ............................. 35 2.1.2. Văn hóa Tày, Dao qua hôn nhân ......................................... 39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.1.3. Tập quán sinh nở và lễ đầy tháng tuổi của đồng bào Tày, Dao ............................................................................................... 44 2.1.4. Văn hoá Tày, Dao trong tổ chức đời sống cộng đồng .......... 47 2.2. Phƣơng diện nghề thủ công và trang phục ................................ 54 2.2.1. Nghề thủ công ..................................................................... 54 2.2.2. Vẻ đẹp trang phục ............................................................... 58 2.3. Văn hóa Tày, Dao qua y học dân tộc ......................................... 63 2.4. Dấu ấn văn hóa Tày, Dao ở phƣơng diện đời sống văn nghệ, tín ngƣỡng và tâm hồn ....................................................................... 70 2.4.1. Đời sống văn nghệ .............................................................. 70 2.4.2. Đời sống tín ngưỡng ........................................................... 80 2.4.3. Đời sống tâm hồn ................................................................ 80 Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN ........................................ 85 3.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ..................................................... 85 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................... 97 3.2.1. Đặc tả ngoại hình nhân vật ................................................. 97 3.2.2. Xây đựng nhân vật đa diện ................................................ 101 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ ...................................................... 106 3.3.1. Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn miền núi ............................... 107 3.3.2. Ngôn ngữ đậm chất thơ ..................................................... 111 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 115 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX, lớp nhà văn là người dân tộc thiểu số đã xuất hiện và trưởng thành với nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực cuộc sống ở vùng quê của họ. Một trong các tác giả tiêu biểu đó là nhà văn Triều Ân. Ông là một trong mười sáu nhà văn dân tộc thiểu số đầu tiên có mặt trong cuốn Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hóa dân tộc – 1988). Gần 50 năm cầm bút, sáng tác và nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào Triều Ân cũng có những tác phẩm để lại dấu ấn rõ nét trong đời sống văn học và văn hóa dân tộc ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ông bắt đầu con đường văn học của mình bằng thơ và đoạt giải nhì cuộc thi thơ 1960 – 1961 do Tạp chí Văn nghệ tổ chức với bài thơ Quê ta anh biết chăng?. Bên cạnh thơ, Triều Ân còn viết văn xuôi. Truyện ngắn Bên bờ suối tiên của ông đã được giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc (1962). Đến nay, ngoài 8 tập thơ tiếng Việt và 1 tập thơ tiếng Tày, Triều Ân đã xuất bản năm tập truyện ngắn: Tiếng hát rừng xa (Nxb Văn học – H.1969), Tiếng khèn A Pá (Nxb Tác phẩm mới – H.1980), Như cánh chim trời (Nxb Kim Đồng – 1982), Đường qua đèo mây (Nxb Văn nghệ Cao Bằng – 1988) và Xứ sương mù (Nxb Văn học – H.2000). Vào thập niên chín mươi của thế kỉ XX, Triều Ân lại tìm đến thể loại tiểu thuyết, và chỉ trong vòng mười năm ông đã cho ra mắt ba cuốn tiểu thuyết: Nắng vàng bản Dao (1992), Nơi ấy biên thùy (1994), Dặm ngàn rong ruổi (2000). Những sáng tác tiêu biểu của ông đã được tập hợp trong cuốn Tuyển tập thơ văn Triều Ân (Nxb Văn học – H.2006). Với những hoạt động sáng tạo và nghiên cứu văn học phong phú trên nhiều phương diện, có thể nói Triều Ân là một trí thức, một nhà nghiên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 cứu, một văn nghệ sỹ tiêu biểu của văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Trong quá trình nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã quan tâm đến mảng văn học dân tộc và miền núi. Song các nhà nghiên cứu, phê bình văn học chủ yếu tập trung vào sáng tác của những nhà văn người Kinh mà tên tuổi đã nổi tiếng, quen thuộc trong đời sống văn học viết về đề tài miền núi. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ các nhà văn người dân tộc thiểu số với những thành tựu và cống hiến xứng đáng cho nền văn học nước nhà, đặc biệt với văn học thiểu số, lại ít được nghiên cứu, giới thiệu rộng rãi. Do vậy việc tìm hiểu nghiên cứu về văn học miền núi, nhất là với những sáng tác do chính các tác giả người miền núi viết trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc gia và quốc tế hiện nay là việc làm có ý nghĩa cấp thiết. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân. 2. Lịch sử vấn đề Trong những năm gần đây, văn học dân tộc và miền núi đã được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm chú ý. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã có những ý kiến nhận xét, đánh giá về các tác giả văn học hiện đại người dân tộc thiểu số và mảng văn học miền núi. Trong đó, có khá nhiều công trình, bài viết đề cập đến sự nghiệp sáng tác cùng những đóng góp của nhà văn Triều Ân với văn học dân tộc và miền núi nói riêng và văn học đương đại nói chung. Đặc biệt ở cuộc Hội thảo khoa học về nhà văn Hoàng Triều Ân được tổ chức tại Cao Bằng ngày 12 tháng 11 năm 2007, giới nghiên cứu, phê bình văn học đã có những bản tham luận đánh giá xác đáng về sự nghiệp sáng tác của ông. PGS – TS Đỗ Thị Hảo đã viết: “Thật khó có thể xếp Hoàng Triều Ân hay gọi ông là “nhà” gì? Vì tác phẩm của ông quá nhiều; lại cực kỳ phong phú về thể loại” [50, tr.171]. PGS – TS Lã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Nhâm Thìn lại xác định cụ thể: “Nói đến Hoàng Triều Ân là nói đến “ba nhà” trong một nhà: nhà văn, nhà thơ, nhà sưu tầm, nghiên cứu văn học. Ở “nhà” nào Hoàng Triều Ân cũng có những đóng góp, làm phong phú, làm giàu có thêm nền văn học các dân tộc ít người nói riêng, nền văn học nước nhà nói chung” [50, tr.104 ]. PGS – TS Mai Hương khẳng định: “Triều Ân đến với bạn đọc trước hết bằng những trang thơ, và trong tình cảm của độc giả, anh trước hết là một nhà thơ miền núi ít nhiều có phong cách riêng (...). Triều Ân đã khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ chung của dân tộc” [50, tr.44 ]. “Nhưng Triều Ân không chỉ làm thơ – ông còn là một người viết văn xuôi có hạng” [37]. PGS – TS Nguyễn Văn Long khi nghiên cứu về văn xuôi Triều Ân đã đưa ra nhận xét: “Trong lĩnh vực văn xuôi, có thể nói cây bút Hoàng Triều Ân đã có những đóng góp thật đáng kể, làm đầy đặn và phong phú hơn cho sáng tác văn xuôi của các dân tộc thiểu số. Đóng góp ấy càng đáng quý trong tình hình văn học các dân tộc thiểu số vẫn thường mạnh về thơ mà đội ngũ viết văn xuôi còn chưa đông đảo, nếu không nói là còn khá thưa thớt” [50, tr.40]. Bên cạnh sáng tác thơ văn, Triều Ân còn làm công tác nghiên cứu, sưu tầm văn học, văn hóa. Đánh giá về công việc này của Triều Ân, nhà văn Dương Thuấn từng khẳng định: “Có thể nói Triều Ân là một người có công đối với lĩnh vực sưu tầm gìn giữ vốn văn học dân gian của người Tày (...). Muốn nhận định về ông một cách hoàn hảo thì phải đánh giá đúng cả hai mặt sáng tác và sưu tầm nghiên cứu của ông, nếu không sẽ nhìn nhận về Triều Ân một cách phiến diện, không đánh giá xác đáng một con người có nhiều cống hiến như ông” [50, tr.183]. Bên cạnh việc khẳng định vị thế sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu của Triều Ân, giới học thuật còn đánh giá cao tính dân tộc và bản sắc văn hoá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 trong các sáng tác của ông. Nhà văn Lâm Tiến khi bàn về bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Triều Ân khẳng định ông là người “hiểu biết sâu rộng và phong phú về văn hóa dân gian, về phong tục tập quán và sinh hoạt đồng bào miền núi”, và “sống trong dân tộc, đồng hành với dân tộc nên con người và cuộc sống đồng bào miền núi được thể hiện trên trang viết thật gần gũi, thân mật” [50, tr.92,93]. Còn PGS – TS Mai Hương đã phát hiện: “dù ở thể loại nào: thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết, đọc trang viết của Triều Ân người đọc đều có cảm giác được khám phá những điều mới mẻ và thú vị (...). Có thể nói sự xuất hiện khá đậm đặc những phong tục, tập tục, những nét quen thuộc trong đời sống sinh hoạt trong tác phẩm cuả Triều Ân, cho thấy công phu đi sâu tìm hiểu và sự thuộc hiểu đời sống, truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng các dân tộc vùng cao của Triều Ân. Chính những điều đó đã mang đến sự sinh sắc cho trang viết của nhà văn” [50, tr.217,218]. PGS – TS Bích Thu cũng đã ghi nhận: “qua các trang tiểu thuyết của Triều Ân, miền nước non Cao Bằng đã hiển hiện ngày càng rõ nét với cảnh sắc, con người, phong tục tập quán, với những buồn vui, may rủi, tốt xấu, hay dở đan xen trong cộng đồng dân cư, thôn bản các dân tộc ít người mà suy cho cùng, đó cũng là bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam đương đại” [50, tr.56]. Có thể tổng kết, đánh giá về bản sắc văn hóa trong sáng tác của Triều Ân bằng ý kiến của GS – TS Mai Quốc Liên: “đó là những cống hiến vô giá không những cho văn hóa dân tộc ông mà cho cả văn hóa dân tộc nước nhà. Ông xứng đáng là nhà văn hóa, người đại diện có thẩm quyền cho văn hóa dân tộc Tày anh em” [22, tr.5,6]. Thế nhưng do nhiều yếu tố khách quan cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về sáng tác văn học của Triều Ân, đặc biệt là ở góc độ bản sắc văn hóa. Do vậy chúng tôi tìm được khoảng trống để thực hiện đề tài. Các ý kiến của người đi trước về sáng tác của Triều Ân nói chung và văn xuôi nói riêng là những gợi dẫn bổ ích và quý báu giúp chúng tôi trong quá trình tiếp cận và triển khai đề tài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lựa chọn một số truyện ngắn, tiểu thuyết của Triều Ân in trong tập truyện ngắn Xứ sương mù (Nhà xuất bản Văn học, H.2000) và Tuyển tập thơ văn Triều Ân (Nhà xuất bản Văn học, H.2006) làm đối tượng nghiên cứu cho đề tài 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào nghiên cứu: Bản sắc dân tộc Tày, Dao trong văn xuôi Triều Ân trên các khía cạnh: Phong tục tập quán; nghề thủ công và trang phục; khả năng y học dân tộc; đời sống văn nghệ, tín ngưỡng và đời sống tâm hồn. 4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm đạt được các mục đích sau: - Có cái nhìn tổng thể và khái quát về bản sắc của dân tộc thiểu số Tày, Dao. Từ đó thấy bản sắc dân tộc được phản ánh trong các tác phẩm văn học viết về đề tài miền núi nói chung và trong văn xuôi của Triều Ân nói riêng. - Chỉ ra những biểu hiện cụ thể bản sắc dân tộc Tày, Dao trong văn xuôi Triều Ân trên phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Qua đó khẳng định thành tựu, đóng góp của Triều Ân với văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học đương đại nói chung. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác gia văn học - Phương pháp thống kê hệ thống - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp phân tích, tổng hợp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chƣơng một: Vài nét về bản sắc văn hóa dân tộc và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Triều Ân. Chƣơng hai: Những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân Chƣơng ba: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TRIỀU ÂN 1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam Ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “Văn hóa”. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiến thức lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay các tộc người khác” [46, tr17]. Giáo sư - Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [52, tr10]. Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [61, tr8]. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: Văn hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Trong luận văn “Dấu ấn văn hóa người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Mông trong tác phẩm “Đồng bạc trắng hoa xòe” và “Vùng biên ải” của Ma Văn Kháng”, tác giả Ma Thị Hiên đã phân tích sâu sắc định nghĩa của Taylo, chúng tôi tán thành và sử dụng định nghĩa này cho luận văn của mình. Bởi đây quả là một khái niệm tóm lược được hầu hết các thành tố, các nội dung tạo thành văn hóa đó là tri thức hiểu biết, là tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, phong tục tập quán, pháp luật … mà con người có được khi sống trong cộng đồng xã hội, và trong mối quan hệ xã hội mang tính tổng hòa. Hơn nữa, như chúng ta đã biết: “Văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết bởi trước hết văn học có thể coi là một bộ phận nằm trong chỉnh thể của nó là văn hóa, mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình. Sự kết tinh cao độ nhất nằm trong các hình tượng nhân vật và số phận của chúng” [29, tr20]. Như vậy, mỗi quốc gia sẽ có nền văn hóa riêng và mỗi dân tộc cũng sẽ có bản sắc văn hóa của riêng mình. Trên đất nước Việt Nam có hơn 50 dân tộc anh em cùng chung sống, trong nền văn hóa đa dân tộc đó, mỗi dân tộc anh em đều lưu giữ những nét bản sắc văn hóa của riêng dân tộc mình. Vậy bản sắc dân tộc là gì? “Bản sắc là sự lan tỏa tự nhiên trong sắc thái tư duy, ngôn ngữ, trong tâm hồn, trí tuệ, trong phong tục, cung cách, hành vi, ứng xử, trong lề thói, tập tục, trong văn chương, nghệ thuật, và trong toàn bộ các giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người. Bản sắc dân tộc trong mọi sắc thái là sự lan tỏa một cách tự nhiên không ai gò ép được, nhưng nó phải gắn liền với ý thức dân tộc và tự khẳng định qua thử thách của thời gian, nếu không qua giao lưu và mở rộng văn hóa, bản sắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 sẽ bị biến đổi, mất đi những gì tinh túy nhất của dân tộc. Do đó các nhà nghiên cứu trên thế giới đã từng đưa ra những ý kiến thống nhất gọi bản sắc văn hóa dân tộc là một thứ căn cước, một chứng minh thư của riêng một dân tộc” [60, tr78]. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng khẳng định: “Bản sắc là những nét riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ thuật trong phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc ” [26, tr.11]. Chính bởi xác định được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa, bản sắc dân tộc nên chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc”. Việc đề cao bản sắc dân tộc là một hành động thiết thực trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam trong thời đại hiện nay. Bản sắc dân tộc vừa có nét chung của cộng đồng vừa có nét riêng của từng dân tộc. Tất cả sẽ góp lại để tạo thành nền văn hóa Việt Nam đa dân tộc, đa màu sắc, nằm trong tổng hòa của nền văn hóa khu vực Đông Nam Á và văn hóa nhân loại. Đúng như nhà thơ Nông Quốc Chấn đã nhận định: “Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm nhiều nét đặc trưng. Có những nét chung trong văn hóa người Việt (còn gọi là người Kinh) có những nét riêng trong văn hóa các dân tộc thiểu số. Những nét ấy biểu hiện trong cách lao động, cách sống, cách kiến trúc nhà cửa, cách ứng xử giữa người với người …Những nét riêng ấy không mâu thuẫn với nét chung: Nó đang có sự hài hòa” [35, tr52]. Dân tộc Việt Nam có lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Cùng với chiều dài lịch sử của dân tộc là chiều dài và bề sâu của truyền thống văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam được cấu thành bởi bốn thành tố cơ bản là: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 thành tố văn hóa đó không phải là đứng im mà luôn có sự vận động, tích lũy, bổ sung để ngày càng hoàn thiện. Nó được gìn giữ, bảo tồn và phát huy trên nhiều lĩnh vực, trong đời sống của từng dân tộc khác nhau và với nhiều khía cạnh biểu hiện riêng biệt. “Bản sắc dân tộc trong văn học cũng không phải là cái gì nhất thành bất biến, mà nó luôn luôn phát triển. Trong sự phát triển đó văn học các dân tộc thiểu số không thể không tiếp nhận những giá trị mới, những giá trị của văn học Kinh, văn học phương tây và văn học thế giới hiện đại. Đó cũng là hình thức tích cực bảo vệ bản sắc dân tộc của nhà văn, góp phần phát huy và làm giàu bản sắc dân tộc trong văn học” [55, tr73]. Đặc biệt, “Bản sắc dân tộc của văn học là toàn bộ những giá trị tốt đẹp mà một nền văn học đạt được. Nó có tác dụng tích cực để nuôi dưỡng tâm hồn văn học của nhân dân đó và có những nét phân biệt với văn học dân tộc khác” [62] 1.1.2. Đặc điểm văn hóa dân tộc (Tày, Dao) 1.1.2.1. Khái quát về văn hóa dân tộc Tày Dân tộc Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, là cư dân đông nhất ở vùng miền núi phía Bắc và chiếm tỷ lệ cao so với các dân tộc thiểu số khác. Theo số liệu điều tra dân số công bố năm 2001 của Tổng cục Thống kê dân tộc Tày có 1.477.514 người, “cư trú trên một địa bàn rộng lớn miền thượng du Việt Bắc, Đông Bắc … Vùng người Tày cư trú thường xen kẽ các dân tộc Mông, Dao, Nùng, Sán Chay, Giáy” [25, tr. 284]. Đồng bào Tày vốn có lòng yêu nước. Sử sách còn ghi rõ ngay từ buổi bình minh của lịch sử, thế ký thứ III trước công nguyên,liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày, Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt, Mường) dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh An Dương Vương Thục Phán, đã có đủ sức mạnh đánh bại quân Tần xâm lược và thành lập Vương quốc Âu Lạc. Âu Lạc chính là nhà nước đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Nam. Với tiến trình lịch sử lâu đời của mình, dân tộc Tày chẳng những góp phần quan trọng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình thành một nền văn hóa, làm phong phú thêm nền văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam. * Văn hóa sản xuất Từ rất lâu đời người Tày đã sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Do có mặt sớm hơn các dân tộc khác nên người Tày đã khai phá và làm chủ được những vùng thung lũng bằng phẳng. Việc trồng lúa nước của người Tày đã được ghi dấu trong truyền thuyết Phú Lương Quân của dân tộc mình. Truyện kể rằng Sao Cải vợ của Báo Luông thấy bên bờ suối có thứ cỏ màu xanh, hạt có nhân ăn được nên đêm về trồng. Còn Báo Luông lại nghĩ cách khuấy đất với nước cho nát, sau đó gieo mạ, rồi cấy. Vì địa hình đồi núi cao, hệ thống sông, suối thường thấp hơn các cánh đồng, đám ruộng, nên từ xa xưa người dân đã biết đào mương, đắp phai, bắc máng, làm cọn lấy nước lên ruộng và lợi dụng sức nước để giã gạo. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa nương, hoa màu, cây ăn quả... Nói đến vùng dân tộc Tày không thể không nhớ đến các loại quả đã trở thành đặc sản nổi tiếng như lê, táo, mận, quýt, hồng , hạt dẻ … Các loại cây công nghiệp cũng được người dân chú trọng phát triển như thuốc lá, trẩu, hồi, chè, tre, trúc … Nhân dân Tày cũng rất chú trọng và phát triển về chăn nuôi. Bởi ngoài trồng trọt, chăn nuôi cũng đem lại nguồn thu lợi đáng kể cho kinh tế hộ gia đình. Từ bao đời nay, dân tộc Tày đã có quan niệm “tu mò nhò pỏ khỏ” (con bò giúp đỡ người nghèo). Cư dân Tày cổ cũng đã biết thuần dưỡng trâu để phục vụ sản xuất. Chính vì vậy con trâu được chọn làm vật tế lễ trong lễ hội “Lồng Tôồng”, hình đầu trâu được treo trong nhà ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 những chỗ trang trọng nhất. Điều này thể hiện tín ngưỡng của dân tộc đối với con vật sống gần gũi và có ích trong đời sống của người dân. Săn bắn, hái lượm cũng là một nét phong tục quen thuộc của dân tộc Tày , đặc biệt là nghề đánh bắt cá ở sông, suối. Họ đánh bắt cá bằng chài, lưới, vó, đơm … Hầu như gia đình người Tày nào cũng có dụng cụ để đánh bắt cá. Một số người còn chủ yếu sống dựa vào nghề này. Dân tộc Tày rất nổi tiếng với các nghề thủ công như đan lát các vật dụng gia đình bằng tre, trúc, mây; đục đẽo đá làm thành cối giã, cối xay; rèn sắt ... Để phục vụ cuộc sống, họ đã biết trồng cây bông, làm sa quay, khung cửi để dệt vải, và với kỹ thuật nhuộm đã tạo ra loại vải màu đen rất đặc trưng (màu chàm) dùng để may quần áo, làm màn, mặt chăn. Đặc biệt là những tấm thổ cẩm được dệt với nhiều hoa văn đẹp, độc đáo làm mặt chăn, mặt địu … Do nông lâm thổ sản và tiểu thủ công nghiệp phong phú, cộng thêm nhu cầu trao đổi, buôn bán của mọi người dân, ở vùng người Tày cư trú từ rất lâu đời đã mở chợ ở nhiều nơi. Chợ họp theo chu kỳ năm ngày một phiên. Các chợ bày bán sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Trong ngày chợ phiên, nhiều hình thức văn hóa đặc sắc mang đậm dấu ấn địa phương đã tạo nên văn hóa chợ của các dân tộc vùng cao. * Văn hóa tổ chức đời sống Tục ngữ Tày có câu “vỉ noọng tam tó bấu táy vỉ noọng sỏ rườn” (anh em ruột ở xa không bằng người dưng ở ngay bên cạnh) để nói lên sự cố kết dân bản. Họ cố kết với nhau trong một chòm xóm để hợp sức nhau trong lao động sản xuất, chống trộm cướp. Hơn thế nữa, họ luôn quan tâm, giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi lẫn nhau mỗi khi gia đình nào đó có việc, theo kiểu làng xóm tắt lửa tối đèn có nhau của các dân tộc khác. Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng bào có tập quán kết nghĩa anh em gọi là “lạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 tồng”, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt. Đồng bào Tày rất mến khách. “Khách đến nhà bao giờ cũng được tiếp đãi chu đáo. Khách đến làng, tuy không quen biết, nhưng cũng được đồng bào chào hỏi thân mật” [39, tr.8]. * Văn hóa vật chất Người Tày ăn cơm tẻ là chính. Mỗi ngày ăn ba bữa gồm ăn sáng, ăn trưa và tối. Những ngày lễ tết (dù là tết to hay nhỏ), cưới hỏi đồng bào thường mổ gà, vịt, ngan, lợn và chế biến thành những món ăn mang đậm phong vị miền núi. Các loại bánh làm trong ngày tết lễ như bánh chưng, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh khảo, chè lam, bánh trứng kiến, bánh cuốn … cũng đã trở thành nét riêng trong văn hóa ẩm thực của dân tộc Tày. Nước uống chủ yếu của người Tày là nước chè được đun bằng các loại lá cây rừng có tác dụng y học nhất định do đồng bào hái trên rừng. Từ lâu người Tày đã biết cất rượu bằng ngô, gạo, sắn ủ với men lá tự chế. Rượu được uống trong sinh hoạt ngày thường, khi khách đến nhà chơi thể hiện lòng hiếu khách và những ngày lễ tết. Từ lâu đời người Tày đã cư trú tập trung thành bản, tên bản thường gọi theo tên cánh đồng, khúc sông suối hay dốc núi. Ở những nơi đất rộng, ruộng nhiều có bản tập trung tới hàng trăm nóc nhà, nơi ruộng ít thì cũng dăm chục nóc nhà. Bản làng thường dựa lưng vào núi, trước mặt trông ra cánh đồng. Nhà ở của dân tộc Tày thường là nhà sàn và nhà đất, lợp bằng ngói âm – dương hoặc lá cọ, gianh. Người Tày có câu nói “Chiêm slao, chiêm tin slửa” (kén gái nhìn tà áo) để nói về tài nghệ của người phụ nữ Tày trong việc trồng bông, kéo sợi vải, nhuộm chàm cắt quần áo cho cả gia đình; đồng thời nó cũng nói lên bản sắc văn hóa dân tộc qua trang phục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Trong trang phục truyền thống của dân tộc, “cả nam lẫn nữ đều mặc quần áo màu chàm và hầu như cùng một kiểu, không thêu trang trí” [25, tr.290]. Riêng chiếc áo của phụ nữ thường may vừa vặn cơ thể : hơi nhấn thêm eo, ống tay nhỏ để sao cho tôn những đường nét của cơ thể. Khi mặc áo bao giờ người phụ nữ cũng thắt ra ngoài một chiếc thắt lưng bằng vải chàm để xõa mối ra phía sau tạo nên sự mềm mại, nhún nhảy trong từng bước đi. Những điều đó đã tạo nên bản sắc riêng của người Tày qua y phục. Bởi người phụ nữ Tày cũng mặc áo dài năm thân, cài khuy áo bên nách phải như nhiều dân tộc khác nhưng vẫn tạo ra dáng vẻ riêng của mình, nhờ thân áo dài chấm gót, tay áo hẹp bó sát giống như áo dài của phụ nữ Kinh, cổ áo không ôm khít vòng cổ như áo dài Kinh, mà vẫn để hở một khoảng tạo cảm giác như chiếc áo “mềm mại” hơn. Độc đáo hơn cả có lẽ là màu sắc của áo dài người Tày. Đó là màu vải chàm sậm đen ánh sắc tím hay màu tím hồng. Để tôn thêm sự duyên dáng, phụ nữ Tày còn vấn tóc, chít khăn vuông màu chàm theo kiểu chít vuông trước trán, các góc khăn thường đính tua chỉ màu. Họ cũng hay đeo vòng cổ, vòng tay, chân và dây xà tích bằng bạc. Do địa hình không bằng phẳng, nhiều núi đồi, khe suối nên họ thường đi lại, vận chuyển sản phẩm nông nghiệp bằng ngựa. Ngoài ra còn vận chuyển bằng việc gánh đôi dậu, đôi xỏng và đôi cuôi. Tất cả những vật dụng này đều do bàn tay người dân đan lát mà tạo thành. Dùng trâu kéo và bè, mảng để chuyên chở cũng là một nét đặc sắc riêng của dân tộc Tày. * Văn hóa tinh thần Thanh niên nam nữ Tày được tự do tìm hiểu qua các cuộc hội hè, hát lượn. Nhưng để đi đến hôn lễ hay không lại do hai gia đình quyết định. Người Tày có phong tục “Khai lục nhình” (bán con gái) nên lễ vật và tiền cưới nhà trai phải mang đến nhà gái rất hậu hĩnh. Việc tiến hành hôn nhân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 phải qua rất nhiều khâu: đánh tiếng (đi hỏi), lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Lễ cưới thể hiện rõ nhất nét đẹp văn hóa của người Tày qua việc hát đối đáp sli lượn trong đám cưới. Đó là tiếng hát của ông quan lang (người chủ đón dâu) và đại diện nhà gái để được lên nhà gái làm lễ tổ tiên và đón dâu, đưa dâu về nhà chồng. Tiếng hát “quan lang” mang ý nghĩa cao quý bởi nó thể hiện tình cảm trân trọng của nhà trai đối với nhà gái và ngược lại; đồng thời nó cũng thể hiện văn hóa ứng xử của cả gia tộc nói riêng, tộc người nói chung thông qua đại diện của hai gia đình. Đó còn là tiếng lượn của những người đến dự đám cưới cất lên để mừng cho cô dâu chú rể, mừng cho gia chủ có được con dâu, con rể thảo hiền, mừng cho cuộc sống mới … Tất cả các điệu si lượn đó đã tạo nên một phần quan trọng trong đời sống văn nghệ của dân tộc Tày. Người Tày là dân tộc theo tín ngưỡng đa thần. Các thần đều được gọi là ma (phi), gồm phi phạ ở trên trời, phi đông ở trong rừng, phi pú pẩu là tổ tiên … Bên cạnh quan niệm về các loại ma như trên, trong tâm thức của dân tộc này còn có loại ma gà (phi cáy) ngự trị ở một số người. Đây là một loại ma ác, thường làm hại nên người Tày rất ghét, sợ những ai bị mang tiếng là ma gà. Mỗi khi gia đình có việc vui, buồn, ốm đau, bệnh tật … dân tộc Tày đều hay mời thầy mo, thầy tào, bà bụt (pựt) về để hành lễ. Trong một năm, người Tày có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Những dịp tết dù nhỏ hay to, người Tày đều làm những thứ bánh theo từng thời điểm. Các loại bánh trái đó luôn biểu hiện cho bản sắc dân tộc của dân tộc. Ví như mùng 3 tháng 3 là ngày tết ăn xôi ngũ vị, bánh trứng kiến; rằm tháng bảy là tết bánh gai, bánh dợm và ăn thịt vịt quay … Đặc biệt nhất là những ngày hội “Lồng Tôồng” ( xuống ruộng) tổ chức vào dịp đầu xuân ở nhiều địa phương trong vùng với nhiều hình thức văn hóa và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan