Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Anh (chị) hãy tìm hiểu về tư tưởng “thân dân” của Hồ Chí Minh so với
các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta hiện nay giải quyết như
thế nào? Hãy liên hệ với bản thân để đưa ra phương pháp giải quyết.
Giáo viên hướng dẫn : Thạc sĩ Lê Thị Hoa
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Thu Hoài
Số thứ tự
: 33
Mã SV
: CQ513673
Lớp tín chỉ
: Tư tưởng Hồ Chí Minh_33
Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2010.
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
I.Lời nói đầu:
Có thể nói rằng không ai là người Việt Nam lại không biết đến Chủ tịch Hồ Chí
Minh, các thế hệ thanh, thiếu niên, nhi đồng lại càng được giáo dục kỹ lưỡng về
Người. Những bài hát như trên là xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi, dù Bác đã đi xa hơn
30 năm nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách giáo khoa các
cấp cũng luôn nói tới Hồ Chí Minh từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Tất cả đều
nhằm mục đích làm cho mọi người hiểu rằng: không bao giờ được quên công lao
to lớn của Người đối với dân tộc và kêu gọi hãy „„Sống, chiến đấu, lao động và học
tập theo gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.‟‟. „Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình
cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ…‟‟
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,từ cách mạng dân chủ nhâm dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạovà phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta , đông thời là sự kết tinh tinh
hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Mính đã soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta dành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng thân dân là một tư tưởng chủ
đạo, xuyên suốt là kết tinh những giá trị nhân nghĩa của dân tộc ta trong suốt quá
trình đấu tranh dựnh nước và giữ nước.Mỗi một chủ trương, mỗi một lời tuyên bố
với quốc dân của Hồ Chủ tịch biểu lộ quan điểm ấy rất rõ rệt
I. Nội dung:
A. Tư tưởng thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Sinh trưởng trong một gia dình nhà nho nghèo ở huyện nam đàn, tỉnh Nghệ
An, nơi có truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm, một miền quê
giàu truyền thống nhân ái, Nguyễn Sinh Cung sớm nhận được sự giáo dục tốt đẹp
của gia đình, quê hương, đặc biệt chịu ảnh hưởng sâu sắc của người cha Nguyễn
Sinh Sắc. Bài học khai tâm “ái quốc” mà cậu bé Cung thuở nhỏ tiếp thu được từ cha
mình: “Quốc dĩ lập dân. Dân dĩ quốc tồn. Vô dân tắc quốc hà do thành. Vô quốc tắc
dân hà sở tị?” (Nước do dân lập nên. Dân còn thì nước còn. Không có dân sao thành
được nước. Không có nước thì dân lấy đâu ra sự che chở).
Bắt nguồn từ những giá trị nhân nghĩa đó, hồ Chí Minh sớm chọn được cho mình
con đường cứu nước mới, nó hoàn toàn khác với con đường cứu nước của các nhà
cách mạng tiền bối. Hồ Chí Minh Dã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân
dân. Không chỉ dừng lại ở đó, người còn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
và sự nghiệp của Hồ Chí Minh là dành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh
phúc cho nhân dân “ Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Về thực chất đây chính là tư tưởng thân
dân. Lấy dân làm gốc là thân dân. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa là
thân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có
ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên
hết, là thân dân. Tìm mọi cách xoá bỏ căn bệnh quan liêu, tham nhũng cũng là thân
dân… Xét cho cùng, dù nói gì hay làm gì Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nghĩ đến nhân
dân trước tiên, nâng niu tất cả chỉ quên mình.
Vậy thì tại sao lại phải thân dân?
Sinh thời, Bác Hồ đã nói:” Nước lấy dân làm gốc; gốc có vững, cây mới bền. Xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười
lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.Dân là gốc của nước.Dân
là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có
dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra
bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người
con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân
dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của
Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu
như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng
thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.Quan điểm nầy còn
được Chủ tịch Hồ chí minh phát triển thành lý tưởng dân chủ “Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân.Chính quyền từ xã đến chính phủ trung
ương đều do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Đoàn
thể tư trung ương đén xã đều do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Với tư cách lãnh tụ Đảng và người đứng đầu nhà nước Người
chỉ rõ:” Nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể ta là phụng sự nhân dân và chịu
trách nhiệm trước dân”. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần
chúng. Quần chúng sẽ là người kiểm soát những chỉ thị đó; phải yêu dân, kính dân,
tin dân, gần gũi với dân.
Người khẳng định: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Khi sức dân được huy
động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch".
"Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm
được... Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và
làm được tốt". Sức mạnh đoàn kết của nhân dân là vô cùng to lớn, nó có thể chiến
thắng được mọi kẻ thù, dẹp tan mọi thế lực, và thực tế lịch sử nước ta đã chứng minh
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
được điều đó. Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”
Theo Bác Hồ, Đảng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân dân và
hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành lực lượng, thành phong trào hành động cách
mạng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Còn các tầng lớp của nhân dân phải tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị tư tưởng và tổ chức. Nhân dân là nguồn bổ sung vô tận cho Đảng và
luôn luôn tràn trề sức xuân. Trọng dân là thương dân, vì nhân dân mà phục vụ và
biết coi trọng sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Biết bao những phần tử ưu tú trong giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động
khác, đã trở thành đảng viên của Đảng. Quần chúng còn tham gia góp ý, phê bình sự
lãnh đạo của Đảng với mong muốn Đảng luôn luôn trong sạch và vững mạnh để lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng đến đích cuối cùng.
Bên cạnh đó phải tin ở dân, gần gũi dân và biết dựa vào dân. Phải ý thức rõ “dân
chúng rất khôn khéo,rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thanh nhiệm vụ, muốn
biến đường lối, chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng,thành sức mạnh
cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên phải liên lạc mật
thiết với dân chúng,xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”. Cán
bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, nếu không học hỏi dân thì không lãnh đạo được
dân.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, thân dân là một tư tương quan trọng, bởi vì
nhân dân là đối tượng phục vụ của con người ở bất kì cương vị xã hội nào,do đó cần
phải toàn tâm toan ý phục vụ nhân dân. Đồng thời, mọi chủ trương chính sách đều
do nhân dân thực hiện, vì vậy đòi hỏi phải hết sức dân chủ với nhân dân
Thân dân là như thế nào?
Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe, làm được
cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ đang suy nghĩ gì,
trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang mong đợi gì ở người khác,
nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu
cầu và lợi ích thiết thực của dân; là nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra được viễn
cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển; là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi
với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi
ích của dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân.
Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta”.
Theo Người thì cần phải thường xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích
chính đáng của dân. Người thường nhắc tới những câu của người xưa:”có thực mới
vực được đạo” „ dân dĩ thực vi thiên”, nhắc nhở cán bộ đảng viên “Đối với nhân dân
không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm lo
cho đời sống của dân “ Nếu dân đói, Đảng và chính phủ có lỗi. Nếu dân rét . Nếu
dân dốt, là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân ốm, là Đảng và Chính phủ có lỗi.”
Cán bộ, đảng viên phải tận tâm, tận lực, tận tình phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân.Người dạy: Việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân
thì phải hết sức tránh. Mục đích hoạt động của các cấp, các ngành, của mọi cán bộ,
đảng viên là nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời
sống vật chất và cả đời sống tinh thần. Cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân
là tiêu chí số một đánh giá năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người,
trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau.
Gần gũi với nhân dân là phải quan tâm, chăm lo mọi mặt của đời sống nhân dân,
tìm cách thoả mãn các nhu cầu, lợi ích của nhân dân, trước hết là những nhu cầu
thiết yếu nhất theo tinh thần: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Phải: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân
có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”. Phải biết kết hợp các
loại lợi ích khác nhau: Lợi ích gần và lợi ích xa, trước mắt và lâu dài; lợi ích của
Trung ương và lợi ích của địa phương; lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội, làm
cho ai cũng cảm nhận được rằng họ đang là đối tượng được phục vụ.
Không những thế, cần phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân và xác định vì
dân mà làm việc.Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Nếu ai nói chúng ta không dân
chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”.
Tôn trọng dân, trước hết là tôn trọng quyền làm chủ của dân, tôn trọng ý kiến của
dân. Không được tự cao, tự đại, khinh rẻ dân, chê bai dân. Bởi vì, so với nhân dân
thì số đảng viên chỉ là số ít. Cán bộ, đảng viên phải nhận thức đúng đắn rằng Đảng
và Chính phủ cũng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, đem lại hạnh phúc, tự do cho
dân. Vì vậy, mỗi cán bộ đảng viên cũng phải xác định vừa phụ trách trước Đảng và
Chính phủ vừa phụ trách trước nhân dân, “Mà phụ trách trước nhân dân nhiều hơn
phụ trách trước Đảng và Chính phủ”. Cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là
không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ cũng chỉ là công
bộc của dân.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Thân dân nghiã là còn phải hướng dẫn nhân dân tự chăm lo cho đời sống của
mình.Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Sự hướng dẫn này được thực hiện bằng nhiều
con đường khác nhau, chủ yếu là tập trung vào những nội dung cơ bản: Hướng dẫn
nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất; hướng dẫn nhân dân biết cách thực hành tiết
kiệm; hướng dẫn nhân dân phân phối cho công bằng những phúc lợi xã hội theo
phương châm “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ
lòng dân không yên”.
Phải đề ra được các chủ trương, chính sách đúng đắn, vì lợi ích của nhân dân.Chủ
trương, chính sách phải xuất phát từ các điều kiện thực tế và quan tâm tới nguyện
vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, ngay cả cấp cơ sở. Người dạy: “Vì vậy, cách
tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị
lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì
dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi
báo cáo sau, miễn là được việc”.
Về cách làm việc,Hồ Chí Minh nhắc nhở phải nhận thức sâu sắc phương pháp
“Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”. Việc to, việc nhỏ đều phải phù
hợp với lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng, thì mới có thể phục
vụ được quần chúng. “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải
quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị
quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến
của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Không những thế mã còn phải luôn luôn quán triệt cán bộ là công bộc, là đày tớ
của dân.Hồ Chí Minh dạy: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của
nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt
đời mới thuộc được”. Làm đày tớ thì phải học dân, hỏi dân, hiểu dân. “Không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy
học dân”.Đày tớ là phục vụ dân; có cái gì lo thì lo trước dân, có cái gì vui thì vui sau
dân. Tự phê bình trước dân và nếu có khuyết điểm thì nhận; đồng thời hoan nghênh
nhân dân phê bình mình. ý thức phục vụ nhân dân không phải nằm ở nghị quyết, chỉ
thị, kêu gọi, hô hào, nói suông. Người yêu cầu “các vị bộ trưởng nên luyện cho mình
có đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi ở bàn
giấy”; hoặc “hội mà không nghị, nghị mà không quyết, quyết mà không làm”.
Hồ Chí Minh cũng đã nhiều lần phê phán cách làm thiếu dân chủ, tác phong độc
đoán, chuyên quyền trong cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ quan liêu, độc đoán,
chuyên quyền là mặt đối lập của dân chủ, là kẻ thù của dân chủ, nhưng lại là căn
bệnh dễ mắc phải của lãnh đạo. Cán bộ xa dân, thiếu niềm tin ở quần chúng, đồng
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thời những cán bộ đó cũng chưa đủ phẩm chất, năng lực làm việc, thực hiện dân chủ,
không sẵn sàng chịu sự kiểm tra, giám sát, phê bình trực tiếp của dân, không lắng
nghe ý kiến của dân. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở bệnh quan liêu, mệnh
lệnh chỉ đưa đến kết quả là hỏng việc và thực hành dân chủ rộng rãi cũng là cách
chống quan liêu tích cực. Để chống quan liêu, xây dựng tác phong dân chủ, Hồ Chí
Minh yêu cầu mỗi người phải quán triệt và thực hiện theo đúng đường lối nhân dân
với 6 điều là: “Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc
gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Có khuyết điểm thì phải
thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Sẵn
sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân
dân noi theo”.
Người luôn tin vào lực lượng, trí tuệ và cách làm đầy sáng tạo của quần chúng.
Người khẳng định: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm
cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” .Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ nhất là cán
bộ lãnh đạo phải thường xuyên giữ mối liên hệ với quần chúng. Hồ Chí Minh cho
rằng, người lãnh đạo, cán bộ dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy được tất cả
mọi mặt. Họ nhìn vấn đề từ trên xuống. Còn dân chúng, rất thông minh, sáng tạo
nhưng lại nhìn vấn đề từ dưới lên. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề một cách đúng
đắn, chính xác phải phối hợp sự xem xét đánh giá của cả hai bên từ trên xuống và từ
dưới lên. Người cảnh báo không học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân
chúng, đó là sự sai lầm nguy hiểm, sẽ luôn luôn thất bại. Như vậy điểm nổi bật của
cách lãnh đạo dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là việc gì cũng phải học hỏi và
bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng, tin vào dân chúng và tuyệt đối
không theo đuôi quần chúng, nhưng việc gì cũng phải từ trong quần chúng mà ra
Cán bộ là gốc của mọi công việc như Hồ Chí Minh đã khẳng định, thì sự nêu
gương về đạo đức của người lãnh đạo là nhân tố rất quan trọng, có ảnh hưởng, tác
động mạnh mẽ đến niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Người lãnh đạo có đức thì cán bộ, nhân viên mới có đức, và toàn xã hội sẽ có đức.
Như Hồ Chí Minh đã nói: Nếu bản thân mình không chính mà đòi người khác phải
chính là vô lý. Người luôn luôn nhắc nhở nói phải đi đôi với làm. Việc gì dù là nhỏ
đã hứa với dân phải làm cho bằng được. Người dân đã tin và sẽ tin hơn khi những
điều cán bộ nói được chứng thực trong thực tiễn. Nói nhiều làm ít, nói mà không
làm, nói một đằng làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả là mất lòng tin của dân.
Dân vận khéo là phương pháp thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ là việc của cả dân chúng chứ không
phải việc của một, hai người. Người lưu ý mọi cán bộ, đảng viên rằng: “Dân chúng
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không
nên” .
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cần phải xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với dân; các quyết định chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích đa số nhân dân
làm mục đích, các chính sách ban hành phải có mục tiêu vì dân; cán bộ, Đảng viên,
công chức phải là công bộc của dân. Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên
thực sự có năng lực làm tròn chức năng người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân;
tạo mọi điều kiện để nâng cao dân trí; thực hiện triệt để phương tram “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời, trong nội bộ Đảng cần tích cực chống tệ
quan liêu, xa rời quần chúng. Phải dựa vào quần chúng, tạo mọi điều kiện để quần
chúng tham gia có hiệu quả công tác xây dựng Đảng.
Mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng được thể hiện rất cụ thể ở đạo đức, thái
độ, tác phong trong quan hệ với dân ở từng cán bộ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn: "Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước
quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính yêu nhân dân. Phải tôn
trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt "quan cách
mạng", ra lệnh, ra oai... phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo.
Khi chọn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải lựa chọn "những người liên lạc
mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng.
Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ là người lãnh đạo của họ".
Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án gay gắt chủ nghĩa cá nhân. Người nói: "Hiện nay chủ
nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình là cái gì cũng giỏi, họ
xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng, mà chỉ muốn làm thầy quần
chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh
quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu
họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì"
Khi Quốc hội tín nhiệm bầu Người làm Chủ tịch nước - Người trả lời các nhà
báo: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào. Bây giờ gánh
vác chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng làm, cũng như một người
lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận" . Người căm ghét thói cậy quyền, cậy thế,
chia rẽ, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí, quan liêu, móc ngoặc, tham nhũng... vì nó "là kẻ
thù của nhân dân, của dân tộc, của Chính phủ. Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó
không mang gươm, mang súng, nó nằm trong tổ chức của ta, nó là giặc nội xâm để
làm hỏng công việc của ta. Người dạy: "Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc,
vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta
phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân ghét,
dân khinh, dân không ủng hộ". Trước lúc đi xa Bác Hồ đã căn dặn toàn Đảng cũng
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
như mỗi cán bộ, đảng viên rằng: Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng coi việc "làm
đầy tớ" của nhân dân, phục vụ nhân dân, chăm lo cuộc sống vật chất, tinh thần của
nhân dân là trách nhiệm, là vinh dự và niềm hạnh phúc.
B.Tư tưởng thân dân của các bậc tiền bối trước Hồ Chí Minh:
Tư tưởng thân dân không phải là một tư tưởng mới xuất hiện ở thời đại Hồ Chí
Minh mà đó là tư tưởng truyền thống của người phương Đông, nó cũng được các vị
vua của nước ta trong thời kỳ phong kiến vận dụng để lãnh đạo đất nước, được đề
cập đến trong tư tưởng của các nhà hiền triết xưa và cũng dễ dàng được nhận thấy
trong tư tưởng của các nhà cách mạng trước Hồ Chí Minh. Song rõ ràng, “thân dân”
trong tư tưởng của Bác co nét tiến bộ vượt bậc so với những tư tưởng cũ.
Đầu tiên, cần phải bàn đến khái niệm “Dân” Các nhà tư tưởng phong kiến
phương Đông dùng khái niệm “Dân” là để chỉ những người thuộc đẳng cấp thấp
kém nhất trong xã hội, để phân biệt với vua quan và giới quý tộc. “Dân” là những
người bị trị. Vua là con trời và các “quan phụ mẫu” là cha mẹ dân có trách nhiệm
thay trời “nuôi dân”, “chăn dân”.Sự sướng khổ hay vui buồn của người dân đều dựa
vào lòng tốt, sự ban phát của “người trên” - thiên tử và các quan, đối với “kẻ dưới” muôn dân bách tính. Quan niệm của các nhà tư tưởng tư sản phương Tây về “Dân”
đã có bước tiến hơn khi cho rằng dân uỷ quyền cho chính phủ để phục vụ lợi ích của
dân và dân có quyền thay đổi chính phủ nếu chính phủ không làm tròn nhiệm vụ.
Tuy vậy, trên thực tế vị thế “Dân” này chỉ thuộc về những người có của, những nhà
tư sản - số ít người trong xã hội; còn số đông vẫn là những kẻ bị trị, có địa vị thấp
kém. Với Hồ Chí Minh thì nhân dân có vị trí quý nhất trong bầu trời và là lực lượng
mạnh nhất trong thế giới.Hơn nữa,Người còn cho rằng, chẳng những “Dân” không
phải là những người bị trị mà còn là những người có vị thế là chủ và làm chủ. Những
người làm việc trong bộ máy nhà nước, từ một nhân viên bình thường cho đến Chủ
tịch nước cũng chỉ là và phải là “công bộc”, là “đày tớ” của dân, có trách nhiệm tận
tình phục vụ dân, chứ không phải là những kẻ đè đầu cưỡi cổ dân, ban phát ân huệ
cho dân như trong xã hội cũ. Người chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân, vì dân là chủ.
Mặt khác,với quan niệm cũ thì “Dân” chỉ là một bộ phận người trong dân tộc
(những người bị trị). Tuy nhiên, đối với Hồ Chí Minh, “Dân” là toàn bộ con dân
nước Việt, con Lạc cháu Hồng, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, miễn là
những người có tinh thần yêu nước. “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”. Quan niệm rộng rãi về nội
hàm của khái niệm “Dân” như vậy đã tạo cơ sở phương pháp luận quan trọng để
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thành lập mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tranh
thủ đến mức cao nhất những lực lượng, những giai tầng còn có ít nhiều tinh thần yêu
nước đứng vào hàng ngũ cách mạng, phân hoá, cô lập cao độ những thế lực phản
động, thù địch.
Trong quan niệm của các nhà tư tưởng phong kiến, “Dân” là một tập hợp
người thụ động, với những mối liên hệ không bền chặt. Nhưng với Hồ Chí Minh, đó
lại là một tập hợp người được tổ chức chặt chẽ, có định hướng rõ ràng và đoàn kết
mật thiết với nhau trên nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và sau này bổ sung thêm là tầng lớp trí thức. Vận dụng quan điểm quần chúng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân là những người sáng
tạo ra lịch sử, họ có thể và cần phải nỗ lực chủ động quyết định vận mệnh của dân
tộc, cuộc sống của chính mình theo tinh thần “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Với chủ trương “dân là gốc” và “lấy dân làm gốc”, thực ra các nhà tư tưởng
phong kiến đã không hề quan tâm đến lợi ích của dân chúng mà họ chỉ đưa ra nhằm
mục đích bảo vệ vương triều phong kiến, quan điểm này nhằm mục đích cuối cùng
là phục vụ vương quyền, chứ không phải để phục vụ nhân dân.Ở phương Tây cũng
như vậy,các nhà tư tưởng tư sản cũng đã khéo léo giấu diếm, che đậy một sự thật
mà họ không muốn bị bóc trần bằng một lớp tư tưởng “hào nhoáng”, và phía sau đó
thì người dân ở các nước này vẫn phải chịu cảnh áp bức bóc lột nặng nề, bị tước đoạt
mọi của cải, vật chất,đất đai, bị tước đoạt mọi quyền công dân. Trong lịch sử cũng
đã có nhiều cuộc cách mạng tư sản nhằm lật đổ giai cấp càm quyền song đó là
những cuộc cách mạng chưa triệt để, không thật sự giành chính quyền về tay nhân
dân mà chỉ thay thế chính quyền bóc lột này bằng chính quyền bóc lột khác. Với Hồ
Chí Minh, dựa vào dân,lấy dân làm gốc hoàn toàn không phải là một khẩu hiệu, một
“nghệ thuật” chính trị, mà đó là một chiến lược cách mạng xuyên suốt trong các thời
kỳ, các giai đoạn lịch sử. Người cũng không coi dân là phương tiện, công cụ để phục
vụ riêng lợi ích của Đảng và Nhà nước, mà xem đây chính là động lực vĩ đại và vĩ
đại nhất của cách mạng, là mục đích cao nhất của Đảng và Nhà nước. “Đem tài dân,
sức dân, của dân làm lợi cho dân”
Nhận thấy, so với quan niệm về “Dân” của các nhà tư tưởng phong kiến ở
phương Đông và tư sản ở phương Tây, quan niệm của Hồ Chí Minh đã vượt lên hơn
cả về nội hàm khái niệm và vị thế thực tại. Từ quan niệm “dân là gốc” và “lấy dân
làm gốc” một cách chật hẹp và mang nặng tính hình thức của các nhà tư tưởng
phong kiến và tư sản, Hồ Chí Minh đã phát triển thành một quan niệm rộng mở về
dân và nhất là đã trả lại vị thế thực sự của dân, từ thụ động tiêu cực trở thành chủ
động tích cực; từ là công cụ, phương tiện duy trì quyền lực của giới thống trị trở
thành thực sự là gốc và làm gốc và tiến cao hơn nữa để là chủ và làm chủ đất nước.
Đây là một tư tưởng lớn vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa có ý nghĩa chiến lược
sâu sắc, là một trong những đóng góp xuất sắc của Hồ Chí Minh vào kho tàng tư
tưởng nhân văn của nhân loại.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Với quan niệm khoa học và sáng tạo về dân là gốc, lấy dân làm gốc và gần gũi
với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đồng thời đặt vấn đề và giải quyết một
cách triệt để mối quan hệ giữa dân và nước.
Trong quan niệm của các nhà tư tưởng thời phong kiến, xã tắc cùng với muôn
dân là thuộc về nhà vua - con trời. Vua được trời trao cho trọng trách thay mặt trời
cai quản, chăm lo cho sự vững bền của đất nước và sự ấm no của muôn dân. Vua
chính là biểu tượng tiêu biểu nhất của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, là niềm
tự hào của muôn dân. Ngược lại, khi đất nước bị mất độc lập thì cũng đồng nghĩa là
ngôi vua không còn và quyền cai quản đất nước cùng muôn dân cũng bị rơi vào tay
những kẻ thống trị ngoại bang. Chính với ý nghĩa này, Lý Thường Kiệt đã từng
mạnh mẽ khẳng định “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam
ở) trong lời mở đầu bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của lịch sử dân tộc ta. Vì vậy,
trong trật tự xã hội phong kiến trung quân và ái quốc là hai mệnh đề luôn luôn được
xếp đi liền với nhau. Yêu nước thì phải trung với vua. Trung với vua cũng có nghĩa
là yêu nước. Tội mưu phản, chống lại vua cũng như tội phản quốc đều bị xếp vào
hàng mười tội đại ác và đều bị xử cực hình tàn khốc. Trong khi đó, mối quan hệ giữa
dân và nước thường ít được chú trọng và cho dù các sách kinh điển Nho giáo có
khẳng định “Dân là gốc của nước” thì chỉ khi nào quyền lực của nhà vua bị suy yếu,
ngôi vua bị đe doạ, thì vai trò của dân đối với nước (mà thực ra là đối với vua) mới
được chú ý hơn, vai trò của dân trong trật tự xã hội phong kiến chỉ là vị thế thụ động
và hình thức.
Trong lịch sử nước ta, co không ít vị vua quan tâm đến vấn đề này. Điển hình
là vua Lê Đại Hành _vị vua khởi xướng việc cầm cày xuống ruộng trong lễ hạ điền
đầu năm. Từ đó, lễ được coi như Quốc lễ bởi ý nghĩa nhân văn và tinh thần khuyến
khích sản xuất nông nghiệp. “Một lần vua cầm cày hơn ngàn lần vua xuống chiếu
khuyến dụ, một lần vua gần dân hơn ngàn lần vua hô hào cổ vũ”.Sau đó có không ít
vị vua đã duy trì nét văn hoá đặc sắc này và cho đến nay lễ cày vẫn được diễn ra
hàng năm nhăm cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần cho người nông dân.
Các vị vua thời Lý- Trần cũng rất coi trọng tư tưởng này, điều đó làm nên một
đặc điểm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và thời Lý - Trần nói
riêng. Trong hoàn cảnh đó, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta là sức
mạnh của lòng yêu nước và khối đoàn kết toàn dân tộc.Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc
chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy
được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn dân. Kháng chiến chống
Tống, chống Mông - Nguyên thời Lý - Trần là những minh chứng hùng hồn.
Từ những hoàn cảnh, đặc điểm và thực tế của lịch sử dân tộc, một số nhân vật
tiến bộ trong giai cấp phong kiến như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... đã nhận
thức khá sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong chiến tranh chống ngoại xâm
cũng như trong các biến cố lớn của lịch sử. Trần Hưng Đạo cho rằng "vua tôi đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là nguyên nhân thắng lợi của kháng
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành thành", chí dân là bức thành giữ nước.
Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết toàn dân là rất quan trọng, Trần Quốc Tuấn
đã đề ra "thượng sách giữ nước" là "khoan thư sức dân làm kế rễ bén gốc". Đó là
điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ thù. Ông đã thấy vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân đối với vĩ nhân trong lịch sử. Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng học
bay được cao là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng
như chim thường thôi". Như vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ sự
ủng hộ của quần chúng nhân dân tộc.Thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân trong việc giữ nước, cho nên ngay từ thời Lý việc chăm lo đời sống nhân
dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được khẳng định là điều quan trọng
hàng đầu trong đạo trị nước. Trong bài văn lộ bố khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt
có viết: "Trời sinh ra dân chúng; vua hiền tất hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi
dân". Rồi đến bài Minh bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi công đức
của Lý Thường Kiệt: "...làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân
được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên
nhân dân kính trọng... Thái úy biết dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông
làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng
đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được yên thân. Phép tắc
như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước; cái thuật yên dân; sự đẹp tốt đều ở đấy cả".
Và một khi việc bồi dưỡng sức dân, chăm lo đời sống nhân dân có một tầm quan
trọng như vậy trong đạo trị nước, thì cũng dễ dàng trở thành một tiêu chuẩn chính trị
để nhà vua dựa vào đó mà tự răn mình. Năm 1207, vua Lý Cao Tông đã hạ chiếu
rằng: "Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trường, không biết
cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời tiểu nhân là gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã
oán thì trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới". Hay
như vua Lý Thánh Tông nhân tiết trời giá lạnh mà cảm thương đến cả "những kẻ bị
giam trong ngục xiềng xích khổ sở, ngay gian chưa định, bụng không cơm no, thân
không áo ấm" . Và cái tình cảm đó càng tha thiết khi nhà vua nhìn công chúa Động
Tiên mà bảo với ngục lại rằng: "Ta yêu con ta cũng như những bậc cha mẹ yêu con
cái họ. Trăm họ không biết gì nên phạm vào luật pháp ta rất xót thương. Nên từ nay
các tội bất kỳ nặng nhẹ nhất thiết đều khoan giảm" (theo Đại Việt sử ký toàn thư).
Với tinh thần khoan dung nói trên, nhà Lý đặt chuông lớn ở Long Trì để dân "ai có
điều oan ức không bày tỏ được" thì đến đánh chuông tâu vua. Nhà Lý còn dựng cung
Long Đức ở ngoài Hoàng thành, trong khu vực phố phường cho Hoàng thái tử ở, để
có điều kiện "gần dân và xem xét việc dân" . Hay trước họa xâm lăng của đế chế
Mông - Nguyên, nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng các vị bô lão - những
người đại biểu đầu bạc có uy tín của dân - bàn kế đánh giặc. Trong ngày hội non
sông đó, các bô lão đã nói lên tiếng nói của toàn dân "muôn người như một" là
"quyết đánh". Điều đó cho thấy, thời Lý - Trần, sự quan tâm đến dân được đề ra như
một vấn đề khẩn thiết của đạo trị nước, nhưng vấn đề đó lại được coi là một yếu tố
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
của khái niệm đức trị. Bởi thời đó quan niệm rằng, vua mà có đức và biết sửa đức thì
"án trạch thấm thía đến quần chúng" làm cho "dân sinh sống dễ dàng" và "muôn họ
âu ca" trong cảnh thái bình thịnh trị.
Như vậy, trên vũ đài chính trị và tư tưởng thời Lý - Trần, nhân dân đã được
nhìn nhận như một lực lượng xã hội cần phải quan tâm đến khi tiến hành
Gần với thế hệ chúng ta hơn nữa thì có thể kể đến Nguyễn Trãi, có thể xem
ông như là nhà tư tưởng tiến bộ nhất thời phong kiến ở nước ta, với tư tưởng nhân
nghĩa nổi bật, chứa đựng những nội dung về quan hệ giữa dân và nước. Điểm nổi bật
trong tư tưởng nhân chính của Nguyễn Trãi thời kỳ này là phải cứu dân. Nguyễn
Trãi đã khéo sử dụng những luận điểm trong hệ tư tưởng của bọn xâm lược để chỉ ra
sai lầm của chúng và cảm hoá chúng. Trong Đại cáo bình Ngô ông viết: "Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân". Trong thư trả lời Phương Chính, Nguyễn Trãi viết: "Đạo làm
tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của". "Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân
nghĩa làm gốc, công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. ÔAg căm giận quân giặc vì
chúng “thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn, hầm con đỏ dưới hố tai ương". Nhưng
khi kẻ địch đã ở bước đường cùng, đã đầu hàng thì ông lại không giết chúng để hả
giận mà còn tạo điều kiện để chúng được rút về nước một cách dễ dàng. Bởi lẽ, "trả
thù báo oán là lẽ thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm
của người nhân". Cũng tương tự như vậy, đối với kẻ lầm đường, lạc lối theo giặc
hoặc phạm tội, ông vẫn chủ trương khoan hồng để cứu vớt.Thái bình lập lại, tư
tưởng nhân chính được Nguyễn Trãi sử dụng tập trung vào việc giáo dục tầng lớp
quan lại vừa bước ra khỏi chiến tranh. Ông cho rằng trách nhiệm của nhà cầm quyển
là phải nuôi dân, chăn dân, huệ dân, làm cho dân nhanh chóng thoát khỏi đau khổ
bởi sự áp bức bóc lột của bọn ngoại xâm, bởi sự tàn phá của chiến tranh. Hơn ai hết,
ông thấu hiểu nỗi đau khổ của người dân vì chính ông đã từng trải qua nỗi gian nan
mà quân thù gây ra. Điều làm ông xúc động nhất là cảnh đói cơm, rách áo của con
người. Ông chọn vua sáng để theo, giúp vua làm cho đất nước được thái bình, người
người được no ấm chính là điểm nổi bật trong quan niệm làm người của Nguyễn
Trãi. Điều này lý giải vì sao ông không bị ràng buộc bởi chữ “trung” theo quan niệm
truyền thống, nghĩa là tận trung với một cá nhân, một dòng họ.
Do hoàn cảnh lúc bấy giờ, quan điểm của ông vẫn không thể tránh khỏi những
hạn chế nhất định. Ông vẫn chú trọng vai trò của vua đối với thần dân đất nước, vẫn
xem trọng phép vua_tôi, vẫn chưa thật sự xem người dân là chủ nhân thật sự của đất
nước.
Đến nhà cách mạng tiền bối, Phan Bội Châu đã đưa ra một quan niệm rõ hơn về
mối quan hệ giữa dân và nước. Đặt vấn đề “Nước ta mất bởi vì đâu?”, ông cho rằng
một trong ba nguyên nhân là: “Ba là dân chỉ biết dân. Mặc quân với quốc, mặc thần
với ai”. Ông xác định: đối với đất nước và con người Việt Nam, “Dân là dân nước,
nước là nước dân”. Như vậy, trong quan niệm của Phan Bội Châu, dân và nước có
mối liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, dân là người của đất nước và đất nước là
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
của người dân; nếu người dân không có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn giang sơn thì đất
nước sẽ bị kẻ ngoại bang nô dịch. Phan Bội Châu đã dành không ít tâm tuyết để bàn
về mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, về mầm mống dân quyền ở nước ta,
về dân quyền ở nước ta bị hao mòn, về mối quan hệ giữa dân quyền và dân trí với
nội dung khá phong phú. Ông viết: “Nhân quyền nghĩa là quyền của người mà cũng
nghĩa là quyền làm người. Rằng quyền của người tức là các quyền đó là người thời
đáng được, rằng quyền làm người tức là đã một con người tất cả các quyền được làm
con người mà không phải làm trâu ngựa”. Trân trọng và đề cao quyền làm người,
quyền của người dân là một trong những biểu hiện sinh động trong quan niệm của
Phan Bội Châu về dân quyền. Đồng thời, ở đây cũng cho chúng ta thấy rõ sự chuyển
biến tích cực trong tư tưởng của Phan Bội Châu, ông đã vượt qua hệ tư tưởng phong
kiến để tiếp nhận những giá trị tiến bộ trong các trào lưu tư tưởng phương Tây nhằm
phát huy và tập hợp sức mạnh của mọi người dân hướng vào sự nghiệp cứu nước,
giải phóng dân tộc và canh tân đất nước. Hướng đến mục đích đó, Phan Bội Châu
nhận thức được rằng, dân quyền có quan hệ với quốc quyền, dân quyền có quan hệ
với sự thịnh suy và sống còn của đất nước. Theo Phan Bội Châu, dân quyền trở
thành tiêu chí quan trọng nhất để xem xét nước còn hay mất, nước mạnh hay yếu,
giá trị của người dân cao hay thấp, người dân còn hay mất. Ngay những dòng đầu
tiên luận giải về mối quan hệ giữa dân quyền và quốc quyền, Phan Bội Châu viết:
"Theo công pháp vạn quốc đã định, được gọi là một nước thì phải có nhân dân, có
đất đai, có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không đủ tư cách làm một
nước. Trong ba cái đó thì nhân dân là quan trọng nhất. Không có nhân dân thì đất đai
không thể còn, chủ quyền không thể lập; nhân dân còn thì nước còn; nhân dân mất
thì nước mất. Muốn biết nhân dân còn mất như thế nào thì phải nhìn xem cái quyền
của nhân dân còn mất như thế nào. Dân quyền mà được đề cao thì nhân dân được
tôn trọng, mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ, thì dân bị coi khinh, mà
nước yếu. Dân quyền hoàn toàn mất thì dân mất, mà nước cũng mất".
Như vậy, dân quyền chẳng những là tiêu chí mà còn là hạt nhân chi phối các
yếu tố cấu thành một nước, trong đó nhân dân là cái quan trọng. Cái quan trọng đó
còn hay mất lại phụ thuộc vào dân quyền. Điều có ý nghĩa sâu sắc nhất ở đây chính
là Phan Bội Châu đã xác định rõ vai trò và vị trí của dân quyền đối với vận mệnh
của đất nước. Đó là điều mà hầu hết các nhà Nho yêu nước cùng thời với Phan Bội
Châu không dễ gì có thể nhận thức được. Bởi theo họ, dân là gốc của nước, nhưng
để đi sâu hơn xem cái gốc đó còn hay mất thì họ gặp phải những khó khăn nhất định.
Những khó khăn đó đã ngăn cản họ, không cho họ đi đến nhận thức được vấn đề một
cách đúng đắn. Còn Phan Bội Châu đã vượt lên trên những khó khăn đó để tiếp tục
đi sâu và làm rõ vấn đề: "Dân còn hay mất là tuỳ thuộc vào dân quyền". Đây là một
trong' những biểu hiện sinh động khác về chất so với hệ tư tưởng phong kiến. Điều
này đã được Phan Bội Châu chỉ rõ như sau: "Trong đời này nếu không có ông Mạnh
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Tử thời cái nghĩa "Dân quý" không sáng tỏ ra; nếu không có ông Lư Thoa thời cây
cờ "Dân quyền" ai dựng lên được. Nước ta mấy nghìn năm nay, quyền vua ngang
dọc, quyền quan cũng theo đó mà tăng lên, lớn nhất không ai bằng một người, hèn
nhất không ai bằng trăm họ. . . , việc đáng thương đáng buồn cho thế đạo, còn có gì
hơn cái ấy nữa”. Điều đó có nghĩa là, chỉ có vất bỏ ngọn cờ quân chủ, nắm lấy ngọn
cờ dân quyền thì mới nhận thức được rằng, dân chẳng những là gốc của nước, mà
còn là chủ của nước.
Tuy nhiên, điều hạn chế căn bản của Phan Bội Châu là ông không thấy được
vai trò của nông dân và công nhân - hai lực lượng đông đảo nhất, cách mạng nhất
trong xã hội, đối với sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà ông khởi xướng.
Như vậy, từ xác định dân là hạt nhân, là gốc của đất nước, tiến đến xem dân là
con của đất nước và tiến hơn nữa coi việc dân được hưởng hạnh phúc tự do là tiêu
chí quan trọng nhất của một nước độc lập, đó là các cung bậc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ giữa dân và nước, thể hiện bước phát triển mới của Người về vấn
đề này. Người kế thừa tư tưởng kiệt xuất cuả các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như:
Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo…về sức mạnh của nhân dân “Khoan thư sức dân để
làm kế bền gốc, sâu rễ ”, “đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Người
cũng kế thừa tư tưởng nhân văn “lấy dân làm gốc” và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực
của học thuyết Mác để hình thành một tư tưởng mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức
mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính
trọng nhân dân lao động. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, điều này vẫn
mang giá trị thời sự sâu sắc. Thật hiếm thấy ở một vị lãnh tụ của quốc gia nào mà sự
quan tâm đến con người, đến nhân dân lại được đặt lên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng
hết sức cụ thể, thiết thực như ở Hồ Chí Minh. Đặt hạnh phúc của dân lên trên hết
chính là tính nhân văn cao cả trong tư tưởng của Người.
C.Tư tưởng thân dân ở nước ta trong thời đại hiện nay:
1. Thực tiễn của đất nước ta:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự nghiệp cách
mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người dân là người làm nên
thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân
dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường
được đối với vận mệnh của đất nước”.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây
dựng Đảng”.
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Hơn 80 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường lối chính
trị được lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và nhân dân ta đã
kết thành một khối vững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là cội nguồn sức mạnh
to lớn của Đảng ta. Ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên
chăm lo lợi ích của nhân dân, sống đồng cam cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì
lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được
dân tin, dân phục, dân theo. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng
viên xa dân, quay lưng lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó
sẽ bị dân oán ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua gần 25 năm thực hiện đường lối đổi
mới, với việc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mở mang dân trí, dân chủ
trong xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi dậy được
những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của cách mạng. Ý Đảng, lòng
dân là sức mạnh vô tận.
Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành
đồng bộ trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng...để cùng tác động
đến đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự chuyển biến tích
cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng người dân. Đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng
cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị
nhăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh, nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy nhà
nước trong sạch, thật sự của dân, do dân, vì dân, nâng cao được hiệu lực quản lí, thì
sẽ được lòng dân. Đảng vì dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây dựng Đảng và
bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của chúng ta. Cụ thể, một số
chính sách của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực đã đem lại hiệu quả, làm phấn
khởi lòng dân:
Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện để
người dân có được lợi ích cao nhất, ổn định đời sống kinh tế cho nhân dân. Nhà
nước đã hỗ trợ các hộ dân trong viêc vay vốn để làm ăn, cử cán bộ xuống địa
phương để giúp dân có kĩ thuật đúng, đẩy mạnh hơn việc phát triển kinh tế ở vùng
sâu, vùng xa, bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam trước sự cạnh tranh quốc tế…
Với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, việc quản lý kinh tế là rất
khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, tính đến nay những đường lối mà Chính phủ đưa
ra là khá hiệu quả. Người dân đã có mức sống cao hơn rất nhiều so với khoảng chục
năm trở lại đây. Điều này cũng cho thấy đời sống của nhân dân rất được Nhà nước
quan tâm và coi trọng.
Dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập cùng những thiếu
sót, khuyết điểm chủ quan của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý cũng như trong công
tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước nên thời gian qua ở nước ta, các hiện tượng
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tiêu cực xã hội phát triển, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng, chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Tệ tham nhũng diễn ra nghiêm trọng,
có nguy cơ làm biến chất Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào
Nhà nước và chế độ, làm giảm sút mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân, gây nguy hại cho sự nghiệp cách mạng.
Trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân, những biểu hiện như quan liêu, cửa quyền,
vô cảm với nhân dân, xa dân, sách nhiễu dân đang có nguy cơ phát triển. Sự tha hóa
của một bộ phận cán bộ có chiều hướng phát triển, thể hiện ở xa dân, sách nhiễu dân,
tệ quan liêu, tham nhũng… Cán bộ lãnh đạo một số nơi còn lúng túng trước nhiệm
vụ đặt ra, hội họp nhiều nhưng giải quyết công việc chưa hiệu quả, không sâu sát
thực tế...
Đối thoại giữa chính quyền và người dân chưa thường xuyên. Còn đùn đẩy, né tránh
trách nhiệm nên giải quyết khiếu nại, tố cáo chậm. Bệnh che giấu khuyết điểm, nơi
này đổ lỗi cho nơi kia còn khá phổ biến...Tình trạng hành dân, khinh dân, thậm chí
lợi dụng quyền hành để bắt dân cống nạp, vẫn xảy ra ở nơi này nơi kia trong bộ máy
chính quyền các cấp, kể cả cấp cơ sở, ở các vùng nghèo, vùng sâu.
Nhiều cơ quan công quyền thường có thói quen ra những mệnh lệnh, những quyết
định bắt người dân phải thi hành mà không tham khảo ý kiến của nhân dân. Ở nhiều
địa phương việc xây dựng Quy chế dân chủ còn hình thức, trên thực tế người dân
chưa được thực hiện quyền chính đáng của mình. Chính quyền một số nơi, nhất là ở
cơ sở, nơi trực tiếp với nhân dân nhưng lại xa dân, ít quan tâm đến đời sống của
nhân dân, không chú ý tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc và tâm tư, nguyện vọng
của dân, phong cách chỉ đạo, quản lý nặng về quan liêu, mệnh lệnh, vô cảm trước
khó khăn, vất vả của dân. Những chủ trương liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của
dân không được đưa ra bàn bạc, thảo luận, lấy ý kiến của nhân dân hoặc giải thích
cho nhân dân hiểu rõ để nhân dân tự giác chấp hành. Vì vậy, một số quyết định của
chính quyền cấp cơ sở không được nhân dân đồng tình, có nơi khiến nhân dân bất
bình, là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng khiếu kiện vượt cấp,
kéo dài.
2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta:
Với mục tiêu “Xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”, Đảng ta đã từng bước đưa xã hội phát triển. Đời sống tinh thần ngày càng
phong phú. Tính công bằng trong xã hội rất được chú trọng.
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Trước đây, trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong các cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm, Đảng ta đã giải quyết khá thành công các quan hệ lợi ích, giữa các
giai cấp và các tầng lớp xã hội khác nhau. Ngày nay, sự tồn tại bình đẳng các thành
phần kinh tế xã hội khác nhau tất yếu phải có sự tìm tòi để thoả mãn những nhu cầu
lợi ích trong điều kiện mới một cách hết sức thực tế. Vì chính trong quá trình tìm
kiếm các lợi ích nhằm thoả mãn nhu cầu mà con người liên kết với người như Mác
đã từng nói: "Tất cả những gì con người đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi
ích của họ". Do vậy, Đảng đến với nhân dân và nhân dân gắn bó với Đảng cũng
chính là ở nhu cầu lợi ích.
Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện rất rõ trong chủ trương của Đảng,
như quyền được bỏ phiếu bầu cử, quyền được đối thoại, chất vấn trực tiếp với Thủ
tướng Chính phủ để người dân nói lên nguyện vọng của mình, góp phần xây dựng
đất nước…Các đại biểu đã thực sự lắng nghe ý kiến của dân để từ đó tiếp thu và giải
quyết vấn đề, đã có cơ chế và qui trình thực hiện khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra". Nội dung chủ yếu của khẩu hiệu này là nhằm để cho dân biết,
bàn, kiểm tra về việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chế độ, chính
sách của Đảng và Nhà nước; về phẩm chất đạo đức, chất lượng, hiệu quả công việc
của cán bộ, đảng viên; về sự hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể
nhân dân; về việc đảm bảo thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân.
Ngày nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò to lớn trong việc củng cố và
tǎng cường khối đoàn kết toàn dân, góp phần quan trọng vào việc củng cố mối quan
hệ giữa Đảng và nhân dân. Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng ngày một vững
mạnh dựa trên sức dân và lòng dân.
Nhân dân ta vốn có truyền thống cách mạng, đã đi theo Đảng hơn 80 nǎm qua.
Do vậy, tuyệt đại bộ phận nhân dân ta đã tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng và Hồ Chí Minh. Nhân dân ta cũng nhận thấy rằng con đường mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn - gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường duy
nhất đúng đắn, có tính khả thi để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và công bằng
cho nhân dân ta. Đảng đã thực hiện khá tốt trong công tác này…
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu to lớn và toàn
diện, vẫn còn có những khuyết điểm và yếu kém, trong đó rất đáng lo ngại là sự phát
triển những tệ nạn xã hội như: tham ô, lãng phí, hối lộ, buôn lậu, trộm cắp, cướp của
giết người, mại dâm, nghiện hút ma tuý, tàng trữ và tuyền bá những vǎn hoá phẩm
đồi truỵ. Nhưng bao trùm nhất, nghiêm trọng nhất, là tệ tham nhũng phát triển tràn
lan, hoành hành ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, trở thành một thứ giặc
"nội phản", một "quốc nạn". Tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công đang là hiện
tượng phổ biến trong bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Những tệ nạn đó
không chỉ gây nguy hại lớn cho nền kinh tế và xã hội nước ta, làm suy yếu hiệu lực
quản lý của Nhà nước, và là nhân tố gây ra mất ổn định về chính trị mà còn làm
giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Sự thành công của công cuộc đổi mới hơn mười nǎm qua đã khẳng định sự đổi
mới của Đảng ta để vượt qua khó khǎn thử thách, giữ vững sự lãnh đạo của mình,
đồng thời cũng khẳng định vai trò to lớn của nhân dân. Quan hệ Đảng và nhân dân
đã được củng cố. Song cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, tình hình
đã thay đổi nhiều so với trước đây. Nhiều vấn đề mới đang tiếp tục phát sinh, liên
quan mật thiết tới mối quan hệ giữa Đảng và dân cần phải được tiếp tục nghiên cứu,
cần được các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân vận dụng sáng tạo
trong công cuộc đổi mới ở thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Liên hệ bản thân :
Để có thể vận dụng tư tưởng “thân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách có
hiệu quả, linh hoạt vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì Đảng và
Nhà nước cần có nhiều biện pháp hơn nữa nhằm:
Giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về
Đảng.Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Văn minh là trí tuệ, là
bản lĩnh, là tính nhân văn của một Đảng cách mạng chân chính. Đạo đức chủ chốt
của Đảng là quyết tâm suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”.Người khẳng định, Đảng ta vĩ đại, lịch sử Đảng là cả một pho
lịch sử bằng vàng. Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Đảng là mỗi chúng ta. Đảng phải giáo dục cho
cán bộ, đảng viên nhận thức được rằng, mỗi cán bộ, đảng viên trong sạch, vững
mạnh, có ý thức phục vụ nhân dân tốt thì Đảng trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự có đạo đức cách mạng.Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định vai trò quyết định của cán bộ, có cán bộ tốt, việc gì cũng xong.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên càng phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân.
Thực hiện nghiêm minh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.Phải rà soát
lại tất cả những chủ trương, chính sách đã có để kiên quyết chống tư tưởng đặc
quyền, đặc lợi trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Còn đặc quyền, đặc lợi thì còn có
kẽ hở để vi phạm đạo đức cách mạng.Phải kiểm tra, kiểm soát trong việc thực hiện
chính sách của Đảng để biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu; biết rõ ưu điểm,
khuyết điểm của các cơ quan và của các mệnh lệnh, nghị quyết. Đặc biệt để chống
lại cái thói nghị quyết một đường thi hành một nẻo.Có hai cách kiểm soát. Một cách
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
là từ trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả của những công việc của
cán bộ mình. Một cách là từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của người lãnh đạo. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên.
Giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng.Hồ Chí Minh luôn luôn coi kỷ luật đảng là nhất trí
về tư tưởng, hành động và xuất phát từ lòng tự giác của đảng viên. Cá nhân phải
tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên,
địa phương phục tùng Trung ương… Phải giáo dục tư cách, bổn phận đảng viên và
rèn luyện tính Đảng.Duy trì kỷ luật Đảng phải có thái độ khen, chê đúng mực đối
với các hạng đảng viên, cán bộ. Người dạy: Khi cán bộ có khuyết điểm thì trước hết
cần có nhận thức đúng về khuyết điểm. Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm
việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu
cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Sửa chữa sai lầm, trước hết cần dùng cách
giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo; song tuyệt nhiên không phải không dùng
xử phạt. Khuyết điểm có việc to việc nhỏ. Nếu tất cả không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ
luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Trong bài Sự nghiệp vĩ đại của Lênin,
Người đã nhắc lại câu nói của V.I.Lênin: “Không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ
như thế, là một việc xấu hổ cho những người cộng sản, những người cách mạng”. Vì
vậy, hoàn toàn không xử phạt là không đúng. Mà mắc sai phạm gì cũng dùng đến xử
phạt cũng là không đúng.
Với tư cách là một cán bộ dảng viên thì mỗi người cần phải thường xuyên trau
dồi tư tuởng chính trị để có được nhận thức và hành dộng dung đắn
Phải nhận thức sâu sắc về tư cách và bổn phận của mình.Bác nói, có những điều
tưởng như ai cũng nhận thức đầy đủ cả rồi, nhưng thực tế lại không phải như vậy.
Không ai bắt buộc ai vào Đảng. Đó là do sự tự giác, lòng hăng hái của mỗi người mà
tình nguyện làm đảng viên, làm chiến sĩ xung phong. Vậy thì, mỗi đảng viên phải
xứng đáng là một người trong những người đại biểu của dân tộc. “Làm đảng viên,
làm cán bộ là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân”. “Đảng không phải là
một tổ chức để làm quan phát tài”.Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có “tính Đảng”.
Thể hiện ở các điểm sau:
Một là, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức
là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc.
Hai là, việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi, đến chốn,
không qua loa, đại khái.
Ba là, lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
20