Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả quản l...

Tài liệu áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả quản lý tưới của các mô hình quản lý công trình thủy lợi liên xã

.PDF
88
3
84

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Sau 2 năm học hỏi, nghiên cứu tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả quản lý tưới của các mô hình quản lý công trình thuỷ lợi liên xã”. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS Trần Chí Trung – Viện Khoa học Thủy Lợi, PGS.TS Trần Viết Ổn – Phó Hiệu trưởng trường Đại học Thủy Lợi, các thầy cô giáo trong trường đã đã tận tâm giảng dạy, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Thủy Lợi, Khoa Kỹ thuật tài nguyên nước, phòng Đào tạo Đại học và sau Đại học và các thầy cô giáo trong nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học này. Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng, nhưng vì điều kiện thời gian không cho phép, nên Luận văn này cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp, chỉ bảo chân tình của các thầy cô giáo, các chuyên gia thủy lợi, đồng nghiệp và bạn bè để tác giả bổ sung thêm những kiến thức, áp dụng tốt hơn vào việc đánh giá hiệu quả các mô hình quản lý công trình thủy lợi, cũng như phục vụ tốt cho công tác chuyên ngành của bản thân. Hà Nội, tháng 6 năm 2014 Tác giả Ngô Ngọc Truyền LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu, tư liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, được tham khảo từ sách, báo khoa học, các kết quả nghiên cứu của thầy cô, các chuyên gia thủy lợi, các nhà quản lý và cán bộ khoa học chuyên ngành, .v.v. đều có nguồn gốc rõ ràng. Luận văn này do tác giả tự thực hiện không sao chép. Hà Nội, tháng 6 năm 2014 Tác giả Ngô Ngọc Truyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích của đề tài 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 4 5. Kết quả đạt được của luận văn 5 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ 6 QUẢN LÝ TƯỚI 1.1 Khái quát về hệ thống tổ chức quản lý tưới. 6 1.2 Tổng quan về các mô hình tổ chức quản lý công trình thủy lợi liên xã. 9 1.3 Tổng quan các kết quả nghiên cứu đánh giá hiệu quả quản lý tưới. 11 1.4 Các phương pháp đánh giá hiệu quả quản lý tưới. 17 CHƯƠNG II: ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP LÝ THUYẾT TẬP MỜ (FUZZY SET 21 THEORY) ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TƯỚI 2.1 Phân tích lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý tưới 21 2.1.1 Cơ sở khoa học xây dựng các chỉ tiêu dánh giá 19 2.1.2 Đề xuất các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý tưới 26 2.2 Áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả quản lý tưới 30 2.2.1 Khái niệm cơ bản về lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) 30 2.2.2 Các bước áp dụng lý thuyết tập mờ đánh giá hiệu quả quản lý tưới 32 CHƯƠNG III: ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT TẬP MỜ ĐỂ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ 38 CÁC MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 3.1 Lựa chọn các mô hình để đánh giá 38 3.2 Tính toán xác định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các mô hình quản lý 3.2 Áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả các 5 mô hình nguyên cứu CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI LIÊN XÃ 49 50 58 4.1 Giải pháp về cơ chế chính sách 58 4.2 Thực hiện phân cấp quản lý 59 4.3 Giải pháp về chính sách 62 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64 1. Kết luận 64 2. Kiến nghị 65 PHẦN PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Hình 2.1: Sơ đồ áp dụng phương pháp Lý thuyết tập mờ xếp hạng hiệu quả các mô hình quản lý tưới 32 Hình 2.2: Ma trận số liệu X 33 Hình 3.1: Sơ đồ bố trí hệ thống công trình thủy lợi Ngòi Là 40 Hình 3.2: Bản đồ khu tưới kênh N3-3 43 Hình 3.3: Hiện trạng kênh N3-3 43 Hình 3.4: Bản đồ khu tưới kênh N16 47 Hình 3.5: Hiện trạng tuyến kênh N16 47 DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1: Kết quả các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của 3 hệ thống thuỷ nông N22A, Ngòi Là và N4B Bảng 1.2: Kết quả các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống thuỷ nông Nam Thạch Hãn Bảng 1.3: Kết quả các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ứng Hoà Bảng 2.1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả mô hình quản lý công trình thủy lợi liên xã 13 14 15 29 Bảng 2.2: Điểm ứng với mức sự quan trọng của các chỉ tiêu 36 Bảng 3.1: Tổng hợp đặc điểm các mô hình quản lý công trình thủy lợi liên xã 48 Bảng 3.2: Xác định các chỉ tiêu đánh giá của các hệ thống thủy lợi liên xã 49 Bảng 3.3: Ma trận số liệu X 50 Bảng 3.4: Ma trận chuẩn hoá Y 51 Bảng 3.5: Kết quả các phần tử của ma tận R và tổng các hàng của R với trọng số của các chỉ tiêu đều bằng 1 (Wk=1) Bảng 3.6: Bảng kết quả xác định mức độ quan trọng của các chỉ tiêu đánh giá Bảng 3.7: Kết quả các phần tử của ma tận R và tổng các hàng của R với Wk của các chỉ tiêu đánh giá khác nhau 51 52 56 CÁC TỪ VIẾT TẮT NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn BQL: Ban quản lý CTTL: Công trình thuỷ lợi FAO: Tổ chức nông lương Quốc tế HDN: Hội dùng nước HTX: Hợp tác xã HTXNLN: Hợp tác xã nông lâm nghiệp HTXDN: Hợp tác xã dùng nước HTXNN: Hợp tác xã nông nghiệp IMT: Chuyển giao quản lý tưới (Irrigation Management Transfer) IWMI: Viện quản lý nước quốc tế KTCTTL: Khai thác công trình thuỷ lợi PIM: Quản lý tưới có sự tham gia của cộng đồng (Pariticipartory Irrigation Management) PTNT: Phát triển nông thôn QLKTCT: Quản lý khai thác công trình TCDN: Tổ chức dùng nước TCHTDN: Tổ chức hợp tác dùng nước TNHH MTV: Trách nhiệm hữu hạn một thành viên UBND: Uỷ ban Nhân dân WB: Ngân hang thế giới WUA: Hội người dùng nước AHP: Phương pháp lý thuyết phân bậc (Analytical hierarchy) 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra hầu hết các công trình thủy lợi do chính phủ quản lý ở các nước đang phát triển có hiệu quả tưới rất thấp. Nguyên nhân cơ bản đối với hiệu quả thấp ở phần lớn các công trình thủy lợi do nhà nước quản lý là do yếu tố thể chế hơn là yếu tố kỹ thuật. Nước ta là một nước nông nghiệp, đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự bùng nổ dân số, tốc độ phát triển kinh tế, đô thị hoá và sự quản lý khai thác không đúng mục đích đã làm suy giảm qũi đất nông nghiệp và nguồn nước cả về số lượng và chất lượng. Để phát triển nông nghiệp trong điều kiện đó buộc chúng ta phải có những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn đất và nước. Điều này không chỉ đòi hỏi phải đầu tư xây dựng công trình thủy lợi thích hợp để khai thác, mà còn cần phải có phương pháp quản lý hiệu quả hoạt động của các hệ thống công trình thủy lợi tương xứng với tiềm năng và năng lực thiết kế để đem lại được lợi ích lớn nhất và bền vững. Theo báo cáo của Tổng cục thủy lợi (2013) nước ta có khoảng 743 hồ chứa loại vừa và lớn, 3500 hồ chứa nhỏ, 1017 đập dâng, 4712 cống tiêu, gần 2000 trạm bơm, hơn 1000 km kênh trục lớn và hàng nghìn các công trình thủy lợi nhỏ các loại. Những hệ thống tưới này được quản lý bởi: - Doanh nghiệp nhà nước (Các công ty, xí nghiệp) khai thác công trình thủy lợi, quản lý những công trình có quy mô lớn: công trình đầu mối, kênh chính, kênh cấp II hoặc đến kênh cấp III tuỳ qui mô công trình. Phần còn lại do các tổ chức của người dùng nước quản lý. - Các xã, xóm và hội người dùng nước quản lý cá hệ thống công trình nhỏ, các hệ thống kênh mương nội đồng và các công trình nhỏ xây dựng ở những địa hình khó khăn. Đặc điểm nổi bật của mô hình này là quản lý hệ thống kênh dựa trên cơ sở ranh giới hành chính nên hoạt động tương đối hiệu quả ở những hệ thống kênh nằm gọn trong một xã, tuy nhiên còn tồn tại nhiều vấn đề đối với những tuyến kênh cấp 2 2 phục vụ tưới tiêu cho liên xã. Mô hình tổ chức quản lý các công trình thủy lợi liên xã hiện nay là kém hiệu lực, mối quan hệ giữa Công ty Khai thác công trình thủy lợi (KTCTTL) và các tổ chức hợp tác dùng nước là chưa hiệu quả, chưa có sự hợp tác giữa các tổ chức hợp tác dùng nước ở các xã. Các Công ty KTCTL chưa khuyến khích người dân tham gia tích cực trong việc quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng công trình thủy lợi. Điều này dẫn đến hiệu quả quản lý tưới thấp ở hầu hết các hệ thống thủy lợi liên xã ở nước ta. Tổ chức quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu lực, phạm vi quản lý của các doanh nghiệp thủy nông quá rộng (quản lý khép kín từ đầu mối tới mặt ruộng, trong điều kiện ruộng đất bị chia nhỏ), tổ chức thủy nông cơ sở hình thành theo kiểu tự phát hoặc áp đặt, thiếu đồng bộ, cơ chế quản lý vẫn nặng tính bao cấp, hạn chế vai trò và sự tham gia của cộng đồng trong vùng hưởng lợi vào quản lý .v.v. dẫn đến việc khai thác của các công trình thủy lợi chỉ đạt được khoảng 50 – 60% công suất thiết kế. Chính phủ đã khởi xướng chuyển giao quản lý tưới từ các công trình thủy lợi nhỏ cho các tổ chức dùng nước từ đầu những năm 1998. Tuy nhiên, kết quả của quá trình chuyển giao cho đến nay còn rất khiêm tốn. Trong khi hầu hết các công trình thủy lợi là liên xã hoặc liên huyện thì việc chuyển giao lại hầu hết chỉ thực hiện cho những công trình nhỏ nằm gọn trong một xã. Năm 1998, tỉnh Tuyên Quang đã giải thể công ty thủy nông và thành lập mô hình Ban quản lý công trình thủy lợi để quản lý toàn bộ các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh, bao gồm cả các công trình liên huyện, liên xã. Cũng từ năm 1998, dự án Hỗ trợ thủy lợi Miền Trung do Ngân hàng Châu Á hỗ trợ (Dự án ADB2) đã xây dựng được 4 mô hình liên hiệp tổ chức dùng nước quản lý các tuyến kênh cấp 2 liên xã ở hệ thống thủy lợi Sông Chu, tỉnh Thanh Hóa và hệ thống Bắc Nghệ An, tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, đến nay các mô hình này hoạt động gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh thực hiện chính sách miễn giảm thủy lợi phí, do vậy mà mô hình liên hiệp tổ chức dùng nước quản lý kênh cấp 3 2 liên xã chưa được phát triển nhân rộng. Gần đây năm 2012, dự án Hỗ trợ thủy lợi Việt Nam do Ngân hàng thế giới hỗ trợ (Dự án WB3) đã thực hiện thí điểm chuyển giao kênh cấp 2 liên xã cho các liên hiệp tổ chức dùng nước quản lý ở hệ thống Cầu Sơn- Cấm Sơn (Bắc Giang), Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh) và Phú Ninh (Quảng Nam). Để nâng cao hiệu quả của các công trình thủy lợi cần phải đánh giá tác động của các mô hình quản lý khác nhau tới hiệu quả tưới và hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý, từ đó tìm ra các mô hình quản lý phù hợp cho các hệ thống thủy lợi khác nhau ở nước ta. Phương pháp thông thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả quản lý tưới là tính toán xác định các chỉ tiêu đánh giá để lượng hoá các khía cạnh khác nhau về hiệu quả quản lý tưới. Việc so sánh hiệu quả của các hệ thống thủy lợi khác nhau thường sử dụng phương pháp chuyên gia để xác định các trọng số cho các chỉ tiêu đánh giá. Phương pháp chuyên gia có ưu điểm là tập hợp được ý kiến của nhiều chuyên gia về vai trò quan trọng của các chỉ tiêu đánh giá, bằng cách cho điểm trọng số cho các chỉ tiêu đánh giá. Tuy nhiên phương pháp chuyên gia cũng có hạn chế là việc xác định các trọng số cho các chỉ tiêu đánh giá lệ thuộc vào chủ quan của người đánh giá. Do vậy mà đề tài “Áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả quản lý tưới của các mô hình quản lý công trình thủy lợi liên xã” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. 2. Mục đích của đề tài Áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) để đánh giá, xếp hạng một cách khách quan hiệu quả quản lý tưới của các mô hình tổ chức quản lý các công trình thủy lợi liên xã, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý các công trình thủy lợi liên xã. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 • Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các công trình thủy lợi phục vụ tưới cho nhiều xã (liên xã). • Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá hiệu quả quản lý tưới của 5 mô hình tổ chức quản lý công trình thủy lợi liên xã: Công ty quản lý Kênh N20 (Hệ thống Bắc Nghệ An), Ban quản lý công trình thủy lợi Ngòi Là (Tuyên Quang), HTXDN kênh N6 (Hệ thống Bắc Nghệ An), Hiệp hội sử dụng nước quản lý kênh N3-3 (Hệ thống Kẻ Gỗ- Hà Tĩnh), Hợp tác xã dùng nước quản lý kênh N16 (Hệ thống Phú Ninh). 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu • Cách tiếp cận - Đánh giá, so sánh hiệu quả quản lý tưới của các mô hình tổ chức quản lý công trình thủy lợi liên xã là cần thiết để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý các công trình thủy lợi liên xã. - Việc so sánh hiệu quả của các hệ thống thủy lợi bằng phương pháp chuyên gia thông thường để xác định các trọng số cho các chỉ tiêu đánh giá còn lệ thuộc vào chủ quan của người đánh giá. - Áp dụng lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) khắc phục được chủ quan của người đánh giá nhờ việc áp dụng công cụ toán học hiện đại để xác định các trọng số đối với các chỉ tiêu đánh giá để đánh giá khách quan hiệu quả quản lý tưới. - Kết quả đánh giá khách quan hiệu quả quản lý tưới là cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý tưới, nâng cao hiệu quả quản lý công trình thủy lợi liên xã. • Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu sau được sử dụng trong nghiên cứu luận văn: - Áp dụng các phương pháp điều tra, đánh giá có sự tham gia PRA để thu thập các thông tin, như phương pháp phỏng vấn và sử dụng các phiếu điều tra. - So sánh hiệu quả của các hệ thống thủy lợi khác nhau bằng phương pháp chuyên gia thông thường để xác định các trọng số cho các chỉ tiêu đánh giá. 5 - Áp dụng phương pháp lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) kết hợp với phương pháp Lý thuyết phân bậc (để đánh giá, xếp hạng hiệu quả các mô hình quản lý công trình thủy lợi liên xã). - Áp dụng phương pháp phân tích chọn lọc, kế thừa để đề xuất các giải pháp hoàn thiện các mô hình quản lý tưới. 5. Kết quả đạt được của luận văn • Đề xuất hệ thống chỉ tiêu đa thứ nguyên đánh giá hiệu quả các mô hình quản lý tưới, bao gồm 9 chỉ tiêu được chia thành làm 3 nhóm: (i) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả phân phối nước, (ii) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả duy tu bảo dưỡng công trình và (iii) Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý tài chính. • Đề xuất phương pháp áp dụng Lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) để đánh giá hiệu quả các mô hình quản lý tưới. Trên cơ sở đề xuất các bước tính toán, một chương trình tính toán sử dụng ngôn ngữ FORTRAN được thiết lập để áp dụng Lý thuyết tập mờ (fuzzy set theory) đánh giá hiệu quả quản lý tưới cho 5 hệ thống nghiên cứu. • Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quản lý các công trình thủy lợi liên xã. 6 CHƯƠNG I TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TƯỚI 1.1 Khái quát về hệ thống tổ chức quản lý tưới ở nước ta Đến nay, cả nước hiện có 110 hệ thống thủy lợi lớn (có diện tích phục vụ lớn hơn 2.000ha), 6.831 hồ chứa các loại với tổng dung tích trữ nước trên 35,34 tỷ m3; trên 10.000 trạm bơm điện lớn; hàng chục nghìn cống tưới tiêu các loại; trên 254.800 km kênh mương (trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn); khoảng 6.100 km đê sông, trên 2.500 km đê biển và trên 25.800 km bờ bao ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 904 hệ thống thủy lợi quy mô vừa và lớn có diện tích phục vụ tưới tiêu từ 200 ha trở lên. Hệ thống công trình thủy lợi là cơ sở hạ tầng quan trọng, phục vụ tưới tiêu cho diện tích cây trồng, góp phần quan trọng làm tăng năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản, đồng thời góp phần phòng chống giảm nhẹ thiên tai và thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế- xã hội. Trên phạm vi cả nước đã hình thành một cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật thủy lợi, bảo đảm tưới, tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và phát điện; tiêu nước cho các khu dân cư đô thị và nông thôn, đã khắc phục được đáng kể tình trạng úng, hạn, mở rộng diện tích gieo trồng, cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Tổng năng lực thiết kế tưới của các hệ thống bảo đảm cho khoảng 3,45 triệu ha đất canh tác. Về diện tích gieo trồng được tưới, theo báo cáo của các địa phương, năm 2008, tổng diện tích đất trồng lúa được tưới đạt 6,92 triệu ha, trong đó vụ Đông Xuân: 3,04 triệu ha, vụ Hè Thu: 2,06 triệu ha; vụ Mùa: 1,82 triệu. Diện tích rau màu và cây 7 công nghiệp ngắn ngày được tưới hiện đã đạt khoảng 1,50 triệu ha. Đảm bảo tiêu thoát nước cho 1,72 triệu ha đất nông nghiệp. Các công trình thủy lợi còn góp phần ngăn mặn 0,87 triệu ha, cải tạo chua phèn 1,7 triệu ha và duy trì cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp trên 5,65 tỷ m3/năm. Hệ thống tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi ở nước ta bao gồm có 2 loại hình chủ yếu là: Doanh nghiệp nhà nước quản lý khai thác công trình thủy lợi và các tổ chức thủy nông cơ sở. Các tổ chức thủy nông cơ sở làm nhiệm vụ “cầu nối” giữa Doanh nghiệp nhà nước quản lý KTCTTL và người dùng nước. a) Doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi Hầu hết các tỉnh đều có các công ty khai thác công trình thủy lợi quản lý các công trình thủy lợi vừa và lớn và các tổ chức hợp tác dùng nước quản lý các công trình thủy lợi nhỏ và hệ thống kênh nội đồng. Do được nhà nước quan tâm, tạo điều kiện về tài chính, nhân lực và cơ sở vật chất, nhìn chung các tổ chức quản lý công trình thủy lợi đã vận hành khai thác công trình hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc phát triển sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân. Theo số liệu của Cục Thủy lợi, hiện nay cả nước có 95 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi (trong đó có 3 công ty liên tỉnh trực thuộc Bộ NN&PTNT, còn lại là các công ty trực thuộc UBND cấp tỉnh). Số lượng các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi đối với từng vùng như ở bảng 2.6. Các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi gồm các loại hình sau: + Công ty Nhà nước quản lý khai thác công trình thủy lợi (42); + Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi (47); + Công ty cổ phần quản lý, khai thác công trình thủy lợi (4); + Công ty xây dựng tham gia quản lý khai thác (2). Trong số các doanh nghiệp, có 3 công ty quản lý hệ thống thủy lợi liên tỉnh trực thuộc Bộ NN & PTNT, số còn lại quản lý các hệ thống thủy lợi liên huyện hoặc trong một huyện trực thuộc UBND tỉnh hoặc huyện. Các công ty khai thác công trình 8 thủy lợi (IMC) tỉnh quản lý các công trình đầu mối, kênh trục chính, kênh cấp 1, 2, 3 thuộc hệ thống thủy lợi có qui mô lớn và vừa. Hiện nay các công ty quản lý 91% tổng số công trình hiện có phục vụ tưới cho 80% tổng diện tích được tưới. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 do Quốc Hội khoá XI thông qua ngày 29/11/2005 và Quyết định 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 của Chính phủ, một số doanh nghiệp Nhà nước về quản lý KTCT thủy lợi đã chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty cổ phần. Tuy nhiên, đến nay một số rất ít tỉnh đang tiến hành cổ phần hoá IMC, chuyển đổi doanh nghiệp thủy nông thành “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” theo Nghị định 95 của Chính phủ nhằm khẳng định vai trò của nhà nước đối với dịch vụ thủy nông, tạo ra một tổ chức quản lý thật sự gắn với trách nhiệm và quyền lợi của người dân và của cả người quản lý. b) Tổ chức thủy nông cơ sở Ngoài ra, còn có các Tổ chức Hợp tác dùng nước phối hợp quản lý các công trình thủy lợi nhỏ và thủy lợi nội đồng. Cả nước hiện có 16.238 Tổ chức Hợp tác dùng nước, bao gồm các loại hình chủ yếu: (i) Hợp tác xã có làm dịch vụ thủy lợi (Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và Hợp tác xã chuyên khâu thủy nông), (ii) Tổ hợp tác dùng nước (Hội sử dụng nước, Tổ hợp tác, Tổ, Đội thủy nông); và (iii) Ban quản lý thủy nông. Trong đó, Hợp tác xã và Tổ hợp tác là hai loại hình chính, chiếm tới 90%. c) Những tồn tại chính + Việc phát huy năng lực thiết kế của các công trình thủy lợi chưa cao Trong khi có nhiều hệ thống thủy lợi phát huy tốt năng lực, đạt mức cao hơn so với thiết kế ban đầu, như: hệ thống thủy lợi Núi Cốc (Thái Nguyên), Sông Quao, Cà Giây (Bình Thuận), thì nhiều hệ thống chưa phát huy hết năng lực so với thiết kế. Hệ thống công trình thủy lợi nội đồng chưa hoàn chỉnh, việc quản lý còn thiếu chặt chẽ nên chưa phát huy hết năng lực của công trình. Diện tích được bảo đảm chủ động tưới, tiêu thấp. + Nhiều hệ thống thủy lợi bị xuống cấp 9 Nhiều công trình xuống cấp nhanh do không được sửa chữa, bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời, một số cống ngăn mặn ở đồng bằng sông Cửu Long và nhiều công trình thủy lợi khác đã đầu tư, vận hành lâu nhưng không được sửa chữa, nâng cấp. Nhiều hệ thống hồ chứa, đập dâng và công trình thủy lợi khác đầu tư, khai thác được 30- 40 năm, đến nay xuống cấp, cần nâng cấp, sửa chữa nhưng thiếu kinh phí kịp thời, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn. + Hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi còn thấp Bộ máy tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi thiếu ổn định, chưa phát huy hết tiềm năng của công trình cũng như năng lực thực tế hiện có. Tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nhà nước ngày càng nặng nề, năng suất, hiệu quả lao động ngày càng giảm. * Đối với doanh nghiệp quản lý khai thác công trình thủy lợi - Hầu hết các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi (ở cấp tỉnh) đều là doanh nghiệp nhà nước. Quản lý doanh nghiệp vẫn mang tính chất mệnh lệnh hành chính, vận hành theo cơ chế bao cấp đã hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp. Trong khi môi trường xã hội đầy biến động. - Năng lực cán bộ lãnh đạo quản lý, chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp phần lớn còn thấp, nên công tác tổ chức và triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thủy lợi chưa tốt. - Tổ chức quản trị sản xuất thiếu khoa học, sản xuất không hiệu quả nên chi phí sản xuất cao, bộ máy ngày càng phình to, năng suất lao động thấp, chi tiền lương tăng. * Đối với Tổ chức hợp tác dùng nước - Tổ chức hợp tác dùng nước không đồng bộ, hiệu quả hoạt động chưa cao. Vai trò, trách nhiệm của người hưởng lợi chưa được đề cập đúng mức. - Một số mô hình tổ chức được thành lập theo kiểu áp đặt từ trên xuống nên chưa làm tốt vai trò cầu nối, hoạt động kém hiệu quả, bền vững. 10 - Cơ chế huy động người dân tham gia quản lý khai thác chưa được đẩy mạnh, nhiều công trình phân cấp cho xã nhưng không có chủ quản lý. 1.2 Tổng quan về các mô hình tổ chức quản lý các công trình thủy lợi liên xã Chính phủ đã khởi xướng chuyển giao quản lý tưới từ các công trình thủy lợi nhỏ cho các tổ chức dùng nước từ đầu những năm 1998. Tuy nhiên, kết quả của quá trình chuyển giao cho đến nay còn rất khiêm tốn. Trong khi hầu hết các công trình thủy lợi là liên xã hoặc liên huyện thì việc chuyển giao lại hầu hết chỉ thực hiện cho những công trình nhỏ nằm gọn trong một xã. Các mô hình quản lý công trình thủy lợi liên xã là mô hình chuyên khâu về thủy nông quản lý công trình thủy lợi liên xã dưới các hình thức phổ biến là Ban quản lý công trình thủy lợi ở tỉnh Tuyên Quang và Hợp tác xã dùng nước ở một số tỉnh do các dự án quốc tế hỗ trợ. Mô hình Ban quản lý công trình thủy lợi Ngòi Là là công trình thủy lợi lớn nhất của tỉnh Tuyên Quang, cung cấp nước tưới cho 392 ha thuộc 4 xã Ỷ La, Trung Môn, Hưng Thành và Kim Phú, trong đó 2 xã Ỷ La và Trung Môn thuộc huyện và 2 xã Hung Thành và Kim Phú thuộc thị xã Tuyên Quang. Tử năm 1996, theo chính sách đổi mới hệ thống quản lý thủy nông của tỉnh Tuyên Quang, Công ty thủy nông được giải thể và mô hình Ban quản lý công trình thủy lợi (CTTL) Ngòi Là được thành lập để quản lý hồ Ngòi Là. Ban quản lý CTTL Ngòi Là là mô hình đồng trách nhiệm giữa Ban quản lý và Hợp tác xã nông lâm nghiệp (HTXNLN) quản lý hồ Ngòi Là là công trình thủy lợi liên xã, liên huyện. Loại hình Hợp tác xã dùng nước là mô hình chuyên khâu thủy nông có cơ cấu tổ chức, hoạt động theo quy định của luật Hợp tác xã có tư cách pháp nhân, tài khoản và con dấu. Loại hình này ít phổ biến (chiếm dưới 5% tổng số Hợp tác xã làm dịch vụ thủy lợi của cả nước) chủ yếu phổ biến ở một số tỉnh có dự án đầu tư từ nguồn vốn ODA hoặc tài trợ của tổ chức phi chính phủ (NGO) như Thanh Hóa, 11 Nghệ An. Hoạt động của loại hình này tương tự như Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tuy nhiên chỉ cung cấp dịch vụ thủy nông, không kết hợp các loại hình dịch vụ, kinh doanh khác. Các Hợp tác xã dùng nước chuyên khâu thủy nông chủ yếu quy mô liên xã, kinh phí hoạt động chủ yếu là từ nguồn thủy lợi phí cấp bù hoặc thủy lợi phí nội đồng. Đa số cán bộ quản lý thủy nông chưa qua đào tạo, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ chỉ có một số lượng nhỏ cán bộ được đào tạo có trình độ sơ cấp. Một số Hợp tác xã còn không có trụ sở giao dịch. Theo đánh giá của địa phương, hoạt động của mô hình tổ chức này hiện gặp khó khăn do chủ yếu là do thiếu kinh phí hoạt động và thiếu sự quan tâm của chính quyền địa phương. Một số mô hình không thể hoạt động được, phải giải thể đặc biệt là các mô hình được thành lập trong khuôn khổ dự án ODA như Hội dùng nước kênh B8a, Hợp tác xã dùng nước B6/9 ở hệ thống Sông Chu (Thanh Hóa) và Hợp tác xã dùng nước N4B và N6 ở hệ thống Bắc Nghệ An (Nghệ An). Gần đây, thực hiện thí điểm chuyển giao kênh liên xã cho liên hiệp tổ chức dùng nước quản lý là cần thiết, từ đó tổng kết, rút kinh nghiệm cho việc xây dựng nhân rộng mô hình liên hiệp tổ chức dùng nước để nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi. Với quan điểm này, Ngân hàng thế giới (WB đã hỗ trợ thực hiện thí điểm chuyển giao kênh liên xã tại các khu mẫu ở 3 tiểu dự án Cầu SơnCấm Sơn, Kẻ Gỗ và Phú Ninh thuộc dự án VWRAP” (2012). Theo đó, 3 tuyến kênh cấp 2 liên xã được thí điểm chuyển giao cho liên hiệp tổ chức dùng nước quản lý là: Kênh Y2 thuộc hệ thống thủy lợi Cầu Sơn- Cấm Sơn (Bắc Giang), Kênh N3-3 thuộc hệ thống thủy lợi Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh) và Kênh N16 thuộc hệ thống thủy lợi Phú Ninh (Quảng Nam). 1.3 Tổng quan các kết quả đánh giá hiệu quả quản lý tưới 12 Viện nghiên cứu nuớc quốc tế (IWMI) đề xuất 9 chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống thủy lợi cũng như hệ thống nông nghiệp có tưới về thuỷ lực, nông nghiệp, kinh tế, tài chính và môi trường (1998). Theo đó sản phẩm đầu ra chủ yếu đối với hệ thống nông nghiệp có tưới là sản lượng nông nghiệp, trong khi các yếu tố đầu vào chủ yếu là nước tưới, đất và tài chính. Cho đến nay, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về xây dựng, kiểm nghiệm hệ thống chỉ tiêu đánh hiệu quả hoạt động của hệ thống thủy nông, cũng như hiệu quả quản lý của mô hình tổ chức quản lý. Các nghiên cứu cũng đề xuất hệ thống chỉ tiêu đánh giá so sánh hiệu quả giữa các công trình thủy lợi được quản lý bởi các mô hình quản lý khác nhau. Trần Chí Trung (2005) phân tích hiệu quả hoạt động của 3 mô hình khác nhau để quản lý hệ thống công trình thủy lợi liên xã. Mô hình thứ nhất là mô hình Công ty Khai thác công trình thủy lợi (KTCTTL), mô hình thứ hai là mô hình Ban quản lý công trình thủy lợi và mô hình thứ ba là mô hình hợp tác xã dùng nước. Mô hình thứ nhất là rất phổ biến hiện nay, trong khi hai mô hình sau mới được áp dụng ở một số dự án điểm nhờ có chính sách cải cách thể chế quản lý thủy nông ở một số tỉnh. Sự hoạt động của 3 mô hình thể chế trên được phân tích dựa trên 3 điểm nghiên cứu tương ứng là N22A, Ngòi Là và N4B ở 2 hệ thống thủy lợi khác nhau. Kênh N22A và N4B là các kênh cấp 2 liên xã của hệ thống tưới Bắc Nghệ An, một hệ thống tự chảy lớn có diện tích tưới gần 21.000 ha ở tỉnh Nghệ An thuộc khu vực miền Trung. Ngòi Là là một hệ thống hồ chứa, có dung tích 3,2 triệu m3 ở tỉnh Tuyên Quang thuộc khu vực phía Bắc. Tất cả các điểm nghiên cứu này đều có diện tích tưới khoảng vài trăm hecta, phục vụ tưới cho các xã khác nhau. Hiệu quả tưới của các điểm nghiên cứu được phân tích qua 10 chỉ tiêu đánh giá về các phương diện phân phối nước, sản xuất nông nghiệp và hiệu quả kinh tế. Kết quả xác định các chỉ tiêu đánh giá với các số liệu được thu thập, đo đạc vụ xuân năm 2003 được trình bầy ở Bảng 1.1. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả cung cấp dịch vụ tưới ở Ngòi Là và N4B tốt hơn nhiều so với N22A. Đặc biệt là phân phối nước rất công bằng ở hệ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan