Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện tân b...

Tài liệu áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện tân biên, tỉnh tây ninh

.PDF
66
329
147

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM OANH KIỀU ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM OANH KIỀU ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG. HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN PHẠM OANH KIỀU MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH ............................................................................................................. 6 1.1. Khái niệm hình phạt chính, các loại hình phạt chính và điều kiện áp dụng ............................................................................................................... 6 1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt chính ............................................. 17 1.3. Mục đích và ý nghĩa của áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật ..... 21 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH........ 24 2.1. Quy định về căn cứ quyết định hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự .................................................................... 24 2.2. Quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể .......... 28 2.3. Quy định về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi ................ 33 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH ĐÚNG PHÁP LUẬT.................................. 37 3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại Toà án nhân dân huyện Tân Biên ..................................................................................................................... 37 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật ........ 50 KẾT LUẬN .................................................................................................... 57 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHXHCN :Cộng hòa xã hội chủ nghĩa BLHS :Bộ luật hình sự PLHS :Pháp luật hình sự TAND :Tòa án nhân dân TANDTC :Tòa án nhân dân tối cao TNHS :Trách nhiệm hình sự XHCN :Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 3.1. Tỷ lệ áp dụng các hình phạt chính. ................................................ 38 Bảng 3.2. Tỷ lệ áp dụng hình phạt chính đối với người dưới 18 tuổi ............ 41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm gần đây thể hiện tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp, tinh vi, với nhiều thủ đoạn khác nhau. Việc tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là đòi hỏi bức thiết đời sống xã hội đặt ra. Trong đó phải kể đến công cụ hữu hiệu đầu tiên là Luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự cụ thể hơn là áp dụng hình phạt của Tòa án, bởi lẽ hoạt động thường xuyên của Tòa án là việc quyết định hình phạt nói chung và hình phạt chính nói riêng, do vậy việc đưa ra bản án chính xác, công bằng và đúng pháp luật không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật của Nhà nước. Thực tế chứng minh là trong áp dụng pháp luật hình sự, sai sót phổ biến của Tòa án chủ yếu ở hoạt động áp dụng hình phạt chính. Trong nhiều trường hợp, Tòa án quyết định hình phạt còn quá nhẹ hoặc quá nặng. Hậu quả là trong những trường hợp này, hình phạt đã tuyên không làm cho bị cáo thấy được sự nghiêm minh của luật pháp cũng như tính đúng đắn của bản án, từ đó làm cho bị cáo cũng như quần chúng nhân dân thiếu tin tưởng vào pháp luật của nhà nước, ảnh hưởng xấu tới cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Hiện nay các quy định của pháp luật hình sự của Nhà nước ta về áp dụng hình phạt đang trong giai đoạn hoàn thiện, trong chừng mực nhất định quy định đó còn chưa phù hợp với thực tế và yêu cầu xét xử của đất nước. Một số quy định về áp dụng hình phạt còn mang tính khái quát cao, thiếu chặt chẽ... Chính những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án. Do đó, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án được chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm bản án tuyên tương xứng với tính chất mức độ của các hành vi phạm tội và đảm bảo lẽ công bằng là điều không dễ dàng, đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong bối cảnh tình trạng phạm tội đang diễn biến hết sức phức tạp hiện nay. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam, để đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng 1 chống tội phạm có hiệu quả cao, bên cạnh việc cụ thể hóa các căn cứ áp dụng hình phạt nói chung và quyết định hình phạt chính nói riêng, việc nghiên cứu và làm rõ cơ sở pháp lý của các quy định áp dụng hình phạt chính từ thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án nhân cấp huyện phần nào góp phần giải quyết vấn đề đặt ra nêu trên. TAND huyện Tân Biên càng không là ngoại lệ. Bên cạnh kết quả xét xử đúng tội danh, quyết định đúng loại hình phạt, mức hình phạt thì vẫn còn một số trường hợp áp dụng chưa đúng pháp luật. Những vi phạm, sai lầm đó có nhiều nguyên nhân khác nhau. Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về áp dụng hình phạt nhưng chưa có đề tài nghiên cứu về thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại Tòa án nhân cấp huyện một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện, mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi về quyết định hình phạt nói chung đặc biệt là tại TAND huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Để góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự Việt Nam và làm rõ thực tiễn áp dụng tại TAND cấp huyện làm rõ các nguyên nhân cụ thể cũng những vi phạm, sai lầm và từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử là hết sức cần thiết. Đó là lý do để tác giả chọn đề tài “Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh” làm Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Việc áp dụng hình phạt chính ở các mức độ khác nhau đã được đề cập đến trong một số công trình khoa học, nhưng số tài liệu về vấn đề này còn rất ít, có thể kể đến như: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần chung” Đinh Văn Quế chủ biên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017” TS. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế Hùng chủ biên, NXB Thế giới, Hà Nội, 2018; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung”, GS. TSKH Lê Văn Cảm chủ biên, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung” của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2013... Nguyễn Anh Tú “Quyết định hình phạt đối với 2 người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” luận văn thạc sĩ luật học, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2014; Trần Quốc Học “Áp dụng hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2014; Chu Xuân Quyền “Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2014; Nguyễn Lê Hoàng Yến “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2016; Tô Thị Ngọc Phượng “Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh”, Luật hình sự & Tố tụng hình sự, Học viện Khoa học xã hội, 2016. Các công trình khoa học nói trên là những tài liệu rất quý giá, góp phần xây dựng được khung lý luận chung về áp dụng hình phạt, đã gợi mở cho tác giả luận văn nhiều ý tưởng khoa học được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở kế thừa và phát triển, mục đích của Luận văn hướng đến là nghiên cứu một cách hệ thống về áp dụng hình phạt chính dưới góc độ về lý luận và thực tiễn, cũng như tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng, chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế áp dụng áp dụng hình phạt chính tại TAND cấp huyện, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính theo quy định pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt, thực tiễn áp dụng những quy định này, nhằm đưa ra những ý kiến đề xuất nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ những nội dung nghiên cứu sau: 3 1) Góp phần làm rõ lý luận về hình phạt chính và áp dụng hình phạt chính. 2) Đánh giá, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luât hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt chính và thực tiễn áp dụng tại TAND huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. 3) Đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt chính. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Với mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm cũng như quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng hình phạt chính; thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại TAND huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh từ năm 2014 – 2018. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: - Một số vấn đề Lý luận về áp dụng hình phạt chính - Quy định của BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt chính - Thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại TAND huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh và các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật. Do BLHS năm 2015 mới quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cũng như thực tiễn Tòa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử tội phạm đến tội phạm rất nghiêm trọng – đến 15 năm tù nên chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt chính: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn đến tội phạm rất nghiêm trọng – đến 15 năm tù tại huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh đối với cá nhân phạm tội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so 4 sánh, phương pháp thống kê… đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống kê trong các báo cáo và các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, để làm sáng tỏ các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt chính; phân tích so sánh đối chiếu những quy định về các hình phạt chính, áp dụng hình phạt chính theo BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Từ kết quả nghiên cứu đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những độc giả có quan tâm về vấn đề này. Với vai trò là một tài liệu tham khảo, đề tài cũng góp phần nâng cao nhận thức và hiệu quả thực tiễn công tác của những người áp dụng hình phạt chính tại Tòa án nhân dân cấp huyện. 7. Kết cấu luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lí luận về áp dụng hình phạt chính. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 & Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng hình phạt chính. Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt chính tại TAND huyện Tân Biên và các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt chính đúng pháp luật. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CHÍNH 1.1. Khái niệm hình phạt chính, các loại hình phạt chính và điều kiện áp dụng 1.1.1. Khái niệm hình phạt chính Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, là công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chế định hình phạt là một trong những chế định quan trọng nhất của luật hình sự Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1999, lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm pháp lý chính thức của hình phạt tại Điều 26: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước đoạt hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định” [40, tr.27]. Điều 30 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt và khẳng định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [46, tr.26]. Hệ thống hình phạt quy định trong bộ luật hình sự của nước ta được cấu thành bởi các hình phạt cụ thể có nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng được quy định rất chặt chẽ, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng trường hợp phạm tội. Dựa trên những tiêu chí, mục đích khác nhau mà có cách phân loại hình phạt khác nhau. Điều 28 BLHS năm 1999 chia hệ thống hình phạt thành hai loại là: Hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cụ thể có bảy loại hình chính áp dụng đối với người phạm tội gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Tại khoản 2 Điều 28 BLHS năm 1999 quy định bảy loại hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; tước một số quyền công dân; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Kế thừa BLHS năm 1999, Điều 32 BLHS năm 2015 quy định về các hình 6 phạt đối với người phạm tội vẫn giữ nguyên quy định về bảy loại hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Theo đó, hình phạt chính là loại hình phạt được áp dụng chính thức cho người phạm tội, được Tòa án tuyên một cách độc lập và chỉ được áp dụng một hình phạt chính đối với một trường hợp phạm tội cụ thể. Trong khi đó, hình phạt bổ sung không được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm với hình phạt chính và có thể không áp dụng, áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung đối với một trường hợp cụ thể. So với hình phạt bổ sung thì hình phạt chính mang tính nghiêm khắc, nặng hơn rất nhiều, cụ thể: Hình phạt chính đánh thẳng vào các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do, quyền sống; khi áp dụng hình phạt chính có thể áp dụng thêm một hoặc nhiều biện pháp hình phạt bổ sung. 1.1.2. Các loại hình phạt chính và điều kiện áp dụng Hình phạt chính được áp dụng đối với người phạm tội theo quy định Điều 28 BLHS năm 1999 và Điều 32 BLHS năm 2015 gồm bảy loại hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều 71 BLHS năm 1999 và Điều 98 BLHS năm 2015 đều quy định người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không áp dụng hình phạt tiền. Mỗi hình phạt chính có vị trí, vai trò, ý nghĩa và điều kiện áp dụng khác nhau trong hệ thống hình phạt, có phương thức liên kết với nhau theo một trật tự tăng dần về tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt. 1.1.2.1. Hình phạt cảnh cáo - Khái niệm: Bộ luật hình sự năm 1999 không đưa ra khái niệm hình phạt cảnh cáo mà chỉ quy định điều kiện áp dụng nhưng nhìn chung hình phạt cảnh cáo hiện nay được hiểu tương đối thống nhất như: “Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Tòa án 7 đối với người bị kết án” [28, tr.361] hay “Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án tuyên đối với người bị kết án” [32, tr.53]. Cảnh cáo được xếp ở vị trí đầu tiên trong hệ thống hình phạt chính, là hình phạt có mức độ nghiêm khắc thấp nhất trong hệ thống hình phạt, không có khả năng đưa lại những hạn chế pháp lý liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích thiết thân về thể chất và tài sản… của người bị kết án nhưng với tư cách là khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, cảnh cáo cũng gây ra cho người bị kết án những tổn hại nhất định về mặt tinh thần, phải chịu sự lên án của Nhà nước về hành vi phạm tội của mình. - Điều kiện áp dụng + Tội phạm mà người đó thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng. Theo đó căn cứ để xác định tội ít nghiêm trọng được quy định ngay trong điều luật, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng tối đa là 03 năm tù. + Người phạm tội phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết không có ý nghĩa về mặt định tội, định khung hình phạt mà chỉ có tác dụng làm giảm mức hình phạt trong phạm vi một khung hình phạt, được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999. Nghĩa là ít nhất phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên theo quy định tại Điều 46, có thể có một tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, thậm chí cả 2 tình tiết giảm nhẹ đều được qui định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 (trường hợp này Toà án phải ghi rõ trong bản án là tình tiết nào và vì sao lại áp dụng tình tiết đó). Nếu thiếu một trong các điều kiện trên thì không thể áp dụng hình phạt cảnh cáo với người phạm tội. Khi áp dụng hình phạt cảnh cáo, Tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi áp dụng hình phạt cảnh cáo còn phải chú ý tới một nội dung “hành vi phạm tội chưa đến mức được miễn hình phạt”. Hậu quả pháp lý giữa áp dụng hình phạt cảnh cáo và miễn hình phạt đối với người phạm tội là hoàn toàn khác biệt. Người được miễn hình 8 phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS năm 1999 sẽ được xóa án tích ngay sau khi quyết định miễn hình phạt. Ngoài ra, hình phạt cảnh cáo cũng có thể được Tòa án áp dụng ngay cả trong trường hợp điều luật không quy định hình phạt cảnh cáo đó là trường hợp quyết định hình phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS năm 2015. So với quy định tại Điều 29 BLHS năm 1999 thì Điều 34 BLHS năm 2015 giữ nguyên không có sự sửa đổi, bổ sung nào. 1.1.2.2. Hình phạt tiền Khái niệm Mặc dù BLHS năm 1999 không đưa ra khái niệm về “phạt tiền”, nhưng với tư cách là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong BLHS và do Tòa án áp dụng, khái niệm về hình phạt tiền có thể hiểu như sau: “Phạt tiền là hình phạt tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định để sung công quỹ Nhà nước” [28, tr.129]. Với định nghĩa nêu trên, phạt tiền là hình phạt tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết án, tác động đến tình trạng tài sản của họ và qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội thông qua việc buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền sung quỹ nhà nước. Tuy hình phạt tiền không phải là hình phạt chính duy nhất tác động về mặt kinh tế đối với người phạm tội chẳng hạn hình phạt cải tạo không giam giữ cũng có khả năng tác động về mặt kinh tế đối với người bị kết án thông qua quy định nghĩa vụ khấu trừ từ 5% đến 20% thu nhập của người bị kết án để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, phạt tiền có khả năng tác động về mặt kinh tế đối với người phạm tội mạnh hơn, trực tiếp hơn chứ không tác động một cách hạn chế như hình phạt khác cũng như có ý nghĩa hạn chế các điều kiện về tài sản mà người phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội. Điều kiện áp dụng So với quy định tại khoản 1 Điều 30 BLHS năm 1999 thi điều kiện áp dụng hình phạt tiền theo Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục được mở rộng hơn. Chẳng hạn như bổ sung thêm người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, phạm tội 9 rất nghiêm trọng trong một số trường hợp được bộ luật quy định và trường hợp phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Như vậy, điều kiện để áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại BLHS năm 1999 là chỉ áp dụng đối với các tội phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm ít nghiêm trọng như đã đề cập ở phần hình phạt cảnh cáo, được quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 điểm a khoản 1 BLHS năm 2015 được quy định áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và cả người phạm tội nghiêm trọng trong một số trường hợp được nêu trong Bộ luật hình sự 2015 và người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng... So sánh quy định tại Điều 30 BLHS năm 1999 và Điều 35 BLHS năm 2015 chúng tôi thấy Điều 35 BLHS năm 2015 đã mở rộng, nêu rõ phạm vi áp dụng hình phạt tiền, cụ thể: Hình phạt tiền được áp dụng cả đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và người phạm tội nghiêm trọng trong một số trường hợp được nêu trong Bộ luật hình sự 2015 và người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng... 1.1.2.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ Khái niệm Điều 31 BLHS năm 1999 không đưa ra khái niệm về Cải tạo không giam giữ, nhưng có thể hiểu đây là hình phạt chính nhẹ hơn phạt tù có thời hạn, nhưng nặng hơn cảnh cáo và phạt tiền và người bị kết án vẫn được cải tạo ngoài xã hội với sự giám sát và giúp đỡ của gia đình, cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương, tính chất nghiêm khắc của hình phạt cải tạo không giam giữ thể hiện ở chỗ tuy người bị kết án không bị tước quyền tự do thân thể, không bị cách ly bởi môi trường sống bình thường nhưng họ phải chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi họ cư trú kết hợp với gia đình. Điều kiện áp dụng 10 Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 BLHS năm 1999: “Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội”, hiểu theo tinh thần của điều luật, để có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ người phạm tội phải có đủ điều kiện sau: Thứ nhất, hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và người phạm tội nghiêm trọng. Các tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng là những tội phạm mà hậu quả thiệt hại gây ra cho xã hội không quá lớn, có thể khắc phục được trong môi trường bình thường, không cần phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội mà vẫn có thể đạt được mục đích của hình phạt. Trong hệ thống hình phạt chính, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính tính nghiêm khắc có phần hạn chế nên không được áp dụng cho người phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thứ hai, người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng, cải tạo không giam giữ là hình phạt trong đó người bị kết án có thể tự cải tạo, tự giáo dục dưới sự giám sát của cơ quan tổ chức chính quyền địa phương trong sự phối hợp với gia đình. Do đó, hiệu quả hình phạt sẽ không đạt được nếu người đó không có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng. Thứ ba, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nói cách khác, hình phạt này được quyết định áp dụng trong trường hợp Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường sống bình thường, chỉ hạn chế tự do của người bị kết án không làm cho mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tiếp tục phát triển, gây nguy hại cho xã hội mà người phạm tội vẫn có thể tự cải tạo, giáo dục được thì Tòa án có thể cân nhắc và quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. So với BLHS năm 1999 BLHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung như sau: 11 Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung cải tạo không giam giữ đối với người không có việc làm, theo đó, người bị kết án không có việc làm ổn định hoặc mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong một thời hạn nhất định do Tòa án quyết định. Quy định này thể hiện quan điểm giáo dục cải tạo người phạm tội thông qua lao động. Xác định cụ thể thời gian lao động phục vụ cộng đồng là không quá 4 giờ/một ngày và không quá 5 ngày/một tuần. Điều luật cũng quy định rõ: Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với năm đối tượng người bị kết án cải tạo không giam giữ sau đây: (1) Phụ nữ đang có thai; (2) phụ nữ đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi; (3) người già yếu; (4) người bị bệnh hiểm nghèo; (5) người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Nhìn chung, đây là những đối tượng yếu thế, cần có chính sách bảo vệ đặc biệt. Thứ hai, bổ sung quy định không khấu trừ thu nhập đối với người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự, bởi khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, người đó không có thu nhập (lương) hàng tháng mà chỉ có một khoản phụ cấp tiêu vặt để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân. 1.1.2.4 Tù có thời hạn Khái niệm Hình phạt tù nằm trong hình phạt chính, bao gồm hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân và cũng được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm khắc phù hợp với các mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm của từng loại tội phạm. Theo Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định đây là hình phạt tước tự do của người phạm tội trong khoảng thời gian nhất định. Trường hợp phạm một tội thì mức tối thiểu là 3 tháng còn tối đa là 20 năm. Điều kiện áp dụng Hình phạt tù mang đầy đủ các nội dung cơ bản của hình phạt, là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Theo quy định Điều 33 BLHS năm 1999 có thể thấy điều kiện áp dụng hình phạt tù là phải được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án áp dụng. Hình phạt tù chỉ có thể áp dụng đối với người phạm 12 tội và áp dụng có thời hạn. Đối với trường hợp phạm nhiều tội mà hình phạt đã tuyên là tù có thời hạn, theo quy định tại Điều 55 BLHS thì hình phạt chung không được vượt quá 30 năm. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 38 BLHS năm 2015 bổ sung thêm 01 điều kiện về áp dụng hình phạt tù có thời hạn là không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Qua thực tiễn xét xử cho thấy hình phạt tù là hình phạt được áp dụng phổ biến nhất. Quy định này nhằm hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội khi xét thấy tính chất mức độ phạm tội chưa đến mức phải tước đi tự do của người phạm tội mới đạt được mục đích áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Một nội dung hết sức quan trọng khi nghiên cứu về hình phạt tù có thời hạn đó là chế định án treo, một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Đây là trường hợp ngoại lệ đặc biệt của việc thi hành hình phạt tù, người bị kết án tù có thời hạn không buộc phải chấp hành hình phạt tại trại giam mà được chấp hành hình phạt ngoài xã hội với những điều kiện ràng buộc nhất định. Tại Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định rõ các căn cứ, điều kiện cho người bị kết án được hưởng án treo, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm được hướng dẫn áp dụng cụ thể tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao. Và nhằm mục đích thể chế hóa chính sách hình sự của Nhà nước ta và Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tiếp tục ghi nhận chế định án treo. So với Điều 60 BLHS năm 1999 [1] (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì chế định về án treo quy định tại Điều 65 BLHS năm 2015 đã được nhà làm luật sửa đổi, bổ sung về nội dung đầy đủ, bao quát hơn, câu từ rõ nghĩa, chính xác hơn. Cụ thể: Tại khoản 1, ngoài sử dụng ký tự số “03” thay cho chữ “ba”, nhà làm luật bổ sung cụm từ “thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”. 13 * Điều kiện để xem xét cho người bị phạt tù được hưởng án treo theo quy định pháp luật: Tại Điều 60 BLHS năm 1999 và Điều 65 BLHS năm 2015 không có sự thay đổi nhiều về điều kiện áp dụng án treo. Tuy nhiên, Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS năm 1999 và Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS năm 2015 có nhiều sửa đổi theo hướng mở rộng điều kiện áp dụng án treo đối với người phạm tội, một số điểm mới cơ bản về điều kiện cho hưởng án treo như: - Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999; nhưng tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP chỉ quy định bị xử phạt tù không quá 3 năm không giới hạn loại tội phạm gì. - Quy định về “nhân thân tốt” tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 là người không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật. Trong khi Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định chi tiết cụ thể hơn về người đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích, xóa tiền sự... và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo. - Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 chỉ quy định đơn giản “có nơi cư trú rõ ràng” Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định cụ thể chi tiết trường hợp nào là nơi cư trú rõ ràng theo Luật cư trú: Nơi cư trú, nơi làm việc. - Đặc biệt quy định Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 quy định: “Không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS và có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; nếu có một tình tiết tăng nặng TNHS thì phải có từ 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; Đối với trường hợp không có tình tiết tăng nặng thì hai Nghị quyết đều quy định giống nhau là có ít nhất 1 tình tiết giảm nhẹ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan