Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của văn hóa hàn quốc (hallyu) đối với văn hóa việt nam đương đại...

Tài liệu ảnh hưởng của văn hóa hàn quốc (hallyu) đối với văn hóa việt nam đương đại

.PDF
173
318
110

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 2.1. Mục đích nghiên cứu 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu 7 4. Phương pháp nghiên cứu 7 5. Những đóng góp mới của luận án 9 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án 9 7. Kết cấu của luận án 9 Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 10 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Hallyu 10 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về Hallyu của nước ngoài 11 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về Hallyu của Việt Nam 17 1.2. Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu Hallyu 22 1.2.1. Khái niệm văn hóa 22 1.2.2. Các lý thuyết định hướng cho quá trình nghiên cứu 23 Tiểu kết chương 1 28 Chương 2. HALLYU TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 30 2.1. Sự hình thành và quá trình phát triển của Hallyu 30 3 2.1.1. Sự hình thành Hallyu 30 2.1.2. Các dấu mốc phát triển của Hallyu 32 2.1.3. Các tác nhân tạo nên thành công của Hallyu 38 2.2. Sự hiện diện của Hallyu ở Việt Nam 47 2.2.1. Phim Hàn Quốc ngoài rạp và trên truyền hình 47 2.2.2. Phim Hàn Quốc trên các trang mạng (website) 54 Tiểu kết chương 2 57 Chương 3 - SỰ TIẾP NHẬN VĂN HÓA HÀN QUỐC QUA PHIM TRUYỀN HÌNH 58 3.1. Những biểu hiện của sự tiếp nhận 58 3.1.1. Theo đuổi thần tượng và những thay đổi ứng xử văn hóa 58 3.1.2. Lựa chọn thời trang, ẩm thực và du lịch 64 3.1.3. Những thể nghiệm mới trong làm phim truyền hình và âm nhạc 75 3.2. Mức độ và đặc điểm của sự tiếp nhận 78 3.2.1. Mức độ tiếp nhận 78 3.2.2. Đặc điểm tiếp nhận 83 Tiểu kết chương 3 94 Chương 4 - ẢNH HƯỞNG TỪ PHIM TRUYỀN HÌNH HÀN QUỐC ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 96 4.1. Ảnh hưởng từ phim truyền hình Hàn Quốc đến văn hóa Việt Nam 96 4.1.1. Đề cao đại chúng: xây dựng hình ảnh một đất nước vừa hiện đại nhưng dung dị, đời thường 96 4.1.2. Sự “cộng sinh” trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập 4 100 4.1.3. Khả năng kết nối và kết nối toàn cầu 105 4.1.4 Từ mẫu hình trong phim truyền hình ra cuộc sống hiện thực 109 4.1.5. Trải nghiệm sự hiện đại 114 4.2. Những vấn đề đặt ra hiện nay về truyền thông và giao lưu văn hóa 119 4.2.1. Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước 119 4.2.2. Vấn đề về nội dung của truyền thông 123 4.2.3. Về phương tiện truyền thông hiện đại (internet) 125 4.2.4. Giao lưu, học hỏi kinh nghiệm phát triển và hội nhập văn hóa thế giới 128 KẾT LUẬN 131 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 134 PHỤ LỤC 135 1. Bảng điều tra về ảnh hưởng của phim Hàn Quốc tới giới trẻ Việt Nam 135 2. Danh sách tổng hợp các phim được đưa vào nội dung khảo sát 139 2.1. Danh sách do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc chọn 139 2.2. Danh sách phim yêu thích do người hâm mộ Việt Nam bình chọn 141 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 145 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1: Mô hình làn sóng của Johannes Schmidt, 1872 37 Hình 2: Mô hình làn sóng mới theo không gian và thời gian của Charler Bailey, 1973 38 Hình 3: Mô hình làn sóng mới theo một hướng của Charler Bailey, 1973 6 38 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1: Bạn có nghĩ rằng trong tương lai, văn hóa Hàn Quốc có tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam 68 Biểu đồ 2: Tỷ lệ giới trẻ Việt Nam có thần tượng Hàn Quốc 70 Biểu đồ 3: Mức độ thích học tiếng Hàn của học sinh THPT Hà Nội 71 Biểu đồ 4: Tương quan giới tính và khu vực sinh sống về mức độ thích học tiếng Hàn của học sinh THPT Hà Nội 103 7 DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Mức độ yêu thích đối với các yếu tố hình thành bộ phim 66 Bảng 2: Những điều mà giới trẻ Việt Nam hâm mộ ở nghệ sĩ “thần tượng” Hàn Quốc 77 Bảng 3: Mức độ sử dụng sản phẩm Hàn Quốc 8 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hallyu (hay Hàn lưu - trào lưu Hàn Quốc) là thuật ngữ có xuất phát từ Trung Quốc chỉ làn sóng văn hóa đại chúng Hàn Quốc (Korean Popular Culture) lan rộng trên thế giới, bao gồm: phim ảnh, âm nhạc và một số sản phẩm văn hóa đi kèm. Hallyu đã hình thành ở nhiều nước châu Á và có những ảnh hưởng với mức độ khác nhau ở các quốc gia như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc,… cũng như có ảnh hưởng ở nhiều nước Nam Mỹ. Việt Nam là một trong nhiều quốc gia châu Á mà Hallyu có tác động tương đối lớn, đặc biệt là với giới trẻ. Đi cùng với âm nhạc, thời trang, du lịch, ẩm thực, phim truyền hình Hàn Quốc đang ảnh hưởng đến họ ở lối sống, ứng xử, quan điểm thẩm mỹ..., và ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam, đặt ra nhiều vấn đề đối với các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa quốc gia. Ảnh hưởng của văn hóa đại chúng trong toàn bộ nền văn hóa cũng là một chủ đề được quan tâm nghiên cứu trên thế giới từ đầu thế kỷ XX, đi cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng. Với đặc trưng là văn hóa của đông đảo quần chúng, dành cho đông đảo quần chúng, được chấp nhận, ưa thích bởi đông đảo quần chúng và đồng thời chúng cũng phản ánh đặc điểm của phần đông quần chúng tại một thời điểm xác định trong một xã hội xác định, văn hóa đại chúng được coi là nằm ở giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác học. Trong một mối quan hệ đẳng lập và không có ranh giới, ba tập hợp “văn hóa dân gian”, “văn hóa đại chúng” và “văn hóa bác học”, tuy có những đặc điểm riêng biệt nhưng lại có sự giao thoa nhất định, tạo nên nền văn hóa. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và gần đây là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo nên một nền văn hóa đại chúng đa dạng, chịu nhiều ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác, trong đó có văn hóa đại chúng Hàn Quốc - Hallyu. Sự lan toả và ảnh hưởng mạnh mẽ của Hallyu, đặc biệt là các bộ phim truyền hình Hàn Quốc trong đời sống xã hội và văn hoá Việt Nam nói chung và giới trẻ nói riêng là một thực tế rất rõ ràng. Có thể thấy rằng, ngoài sự hấp dẫn, sức thuyết phục cao trong diễn xuất còn bắt nguồn từ những kịch bản mang tính nhân văn cao cả, cốt truyện cảm động, gần gũi với ước nguyện và tâm lý mội 9 người, những diễn viên xinh đẹp,... Thực tế, "trào lưu Hàn Quốc" đang tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống, ứng xử, quan điểm thẩm mỹ... của một bộ phận giới trẻ Việt Nam, đặt ra nhiều vấn đề cho những nhà nghiên cứu và những nhà quản lý văn hóa ở Việt Nam. Không thể phủ nhận những tác động tích cực mà Hallyu mang lại như các bộ phim giàu tình cảm, chuyển tải những thông điệp đầy tính nhân văn về mối quan hệ của con người, về ước nguyện xây dựng một xã hội tươi đẹp, cuộc sống đầy đủ, và còn là những sản phẩm giải trí hiện đại, sôi động cho giới trẻ hiện nay… Tuy nhiên, sự xâm nhập quá ồ ạt của Hallyu cũng tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, bên cạnh sự “si mê thần tượng” đến từ văn hóa nghệ thuật Hàn Quốc, các em có thể thuộc lòng từng bài hát, từng điệu nhảy, từng tên gọi, sở thích hay tật xấu của “sao Hàn” thì phần lớn giới trẻ ở Việt Nam không biết hoặc không thích các loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam như: chèo, tuồng, ca trù, cải lương... Chưa kể đến, các xu hướng thời trang, trang điểm, ẩm thực… của Hàn Quốc đều dễ dàng trở thành trào lưu, thành “mốt” đối với giới trẻ ở Việt Nam. Điều đáng nói là từ việc giới trẻ thần tượng một cách thái quá các ca sĩ, diễn viên điện ảnh của Hàn Quốc mà sao nhãng việc học hành, bắt chước tất cả mọi thứ kể cả trong cách ăn mặc của thần tượng. Điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập và tạo nên những biểu hiện lệch lạc trong lối sống khi cách ăn mặc của các ca sĩ, diễn viên được bắt chước đã không phù hợp với lứa tuổi, điều kiện sống của nhiều bạn trẻ, cũng như khả năng tài chính của nhiều bạn trẻ chưa cho phép có thể mua sắm hàng đắt tiền… cách trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, hở hang, nhuộm tóc xanh, đỏ, tím, vàng… theo kiểu của các ca sĩ khi lên biểu diễn trên sân khấu đã tạo nên những hình ảnh phản cảm và nhiều người đã nhận thấy, những nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc đã bị bỏ quên. Với định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam là cần “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đi cùng với đổi mới phát triển đất nước (từ năm 1986), đặc biệt là trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa- hiện đại hóa hiện nay, nhiều vấn đề nghiên cứu về văn hóa được đặt ra, nhất là khi tiếp xúc- giao lưu văn hóa với thế giới. Trong quá trình này, vấn đề tiếp nhận tinh hoa văn hóa thế giới để xây dựng một nền văn 10 hóa “tiên tiến” hiện nay, vừa có thể hội nhập với văn hóa thế giới, vừa tạo động lực cho phát triển quốc gia về mọi mặt cũng đã được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Quá trình này cũng được xác định là cần có sự chọn lọc để phù hợp với điều kiện lịch sử đất nước và có thể kế thừa- nối dài truyền thống văn hóa Việt Nam, theo đó, không chỉ sự tiếp nhận và chọn lọc như thế nào được quan tâm mà nhu cầu của các chủ thể văn hóa tham gia vào quá trình này cũng rất được quan tâm. Theo báo cáo lao động việc làm quý 4 năm 2015 của Tổng cục Thống kê, tính đến quý 4 năm 2015, cả nước có hơn 69,6 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó có 54,6 triệu người thuộc lực lượng lao động [13]. Như vậy, giới trẻ Việt Nam hiện chiếm hơn 50% dân số Việt Nam. Họ luôn là đối tượng nhạy cảm với cái mới, đặc biệt trong bối cảnh thế giới phát triển có sự đổi mới không ngừng của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Thành tựu khoa học đã giúp nuôi dưỡng ước mơ, kích thích khả năng sáng tạo của những người trẻ tuổi đầy năng lượng sống nhưng cũng dễ làm họ mất phương hướng. Do đó, là cần thiết khi nghiên cứu sâu nhu cầu giao lưu, học hỏi và sáng tạo văn hóa từ việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài mà Hallyu ở Việt Nam là một trường hợp. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần nối dài thành tựu những nghiên cứu về Hallyu ở Việt Nam, giúp cho góc nhìn được rộng hơn, rõ hơn về nhu cầu và ý nghĩa của giao lưu - tiếp xúc văn hóa thế giới trong quá trình xây dựng văn hóa Việt Nam đương đại. Vì vậy, tôi chọn nghiên cứu “Ảnh hưởng của văn hóa Hàn Quốc (Hallyu) đối với văn hóa Việt Nam đương đại” làm đề tài luận án Tiến sĩ Văn hóa học. Đồng thời, luận án sẽ tập trung vào ảnh hưởng của phim truyền hình Hàn Quốc đối với văn hóa của giới trẻ ở Việt Nam bởi phim truyền hình Hàn Quốc đã có tác động mạnh mẽ tới giới trẻ Việt Nam, (lực lượng chiếm đa số trong dân số Việt Nam, thể hiện phần quan trọng về hình ảnh người Việt Nam và văn hóa Việt Nam), làm thay đổi hành vi, lối sống, cách ứng xử, thời trang, ngôn ngữ… của họ. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án xem xét quá trình hình thành và phát triển của Hallyu ở Việt 11 Nam cũng như những ảnh hưởng từ Hallyu, đặc biệt là qua phim ảnh, đối với văn hóa của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay trong bối cảnh hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Từ mục đích trên, câu hỏi nghiên cứu của luận án được đặt ra là: Hallyu (qua phim truyền hình) liệu có khả năng dẫn dắt những sự thay đổi trong văn hóa của giới trẻ Việt Nam, từ các lớp văn hóa bên ngoài có thể quan sát được như thời trang, mua sắm, đồ ăn đến các lớp văn hóa sâu hơn như các tiêu chuẩn và giá trị chuẩn mực; và đặc biệt đến lớp văn hóa cốt lõi của con người Việt Nam? 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát về lịch sử Hallyu trong khu vực và trên thế giới, trong đó tập trung vào phim truyền hình để thấy bối cảnh chung của Hallyu khi tràn tới Việt Nam; đồng thời khái quát các hướng tiếp cận hiện tượng Hallyu từ các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước để xác định cơ sở lý luận của luận án. - Nêu bật các hình thức, mức độ xem phim truyền hình Hàn Quốc của giới trẻ Việt Nam, phân tích những cảm nhận và sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc được thấy qua những thay đổi về tiêu dùng, thời trang, ẩm thực, ứng xử xã hội,... - Thông qua sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc, phân tích làm rõ động thái của văn hóa Việt Nam hiện nay từ góc độ của các chủ thể văn hóa và theo định hướng của nhà nước về xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến”. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung vào nghiên cứu giới trẻ Việt Nam (trong độ tuổi 1530, khảo sát đại diện ở hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội) với phim truyền hình Hàn Quốc. Giới hạn đối tượng khảo sát được xác định trên cơ sở: Với Việt Nam, cấu trúc xã hội và gia đình còn giữ nhiều yếu tố truyền thống nên giới trẻ còn giữ mối liên hệ khá chặt chẽ với gia đình, chịu sự tác động không nhỏ của các thành viên lớn tuổi hơn trong gia đình cũng như 12 ngoài xã hội. Họ cũng là một đầu mối quan trọng trong đường dây thế hệ, kế tục và đang là lực lượng sản xuất chiếm số đông trong xã hội Việt Nam cũng như chiếm số đông của văn hóa đại chúng đang là xu thế phát triển trên thế giới. Do vậy, đây là đối tượng nghiên cứu quan trọng trong nghiên cứu diễn trình văn hóa Việt Nam đương đại. Trong giới trẻ có sự khác biệt về nhiều mặt (nhóm tuổi, nơi sinh sống, nghề nghiệp…), do đó, các đặc điểm tâm lý của họ khá phong phú, đa dạng, thể hiện ở sự năng động, nhiệt huyết nhưng thiếu kinh nghiệm. Họ giàu mơ ước và có hoài bão lớn, có thể chấp nhận mạo hiểm để có được cái mới, thích giao lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho xã hội để khẳng định bản thân. Xét từ góc độ nghề nghiệp, trong giới trẻ có nhiều nhóm khác nhau. Nhóm trẻ nhất đang chuẩn bị kết thúc phổ thông, có mối quan tâm lớn nhất là chọn nghề, chọn trường để tiếp tục học cao hơn, hoặc bước vào làm nghề. Nhóm khác học tại các trường cao đẳng, đại học, tiếp thu kiến thức và kỹ năng chuyên môn sâu hơn để trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhóm khác bước vào hoạt động nghề nghiệp đang ứng phó với những khó khăn, thử thách ban đầu. Bên cạnh đó, một bộ phận giới trẻ đã khẳng định được vị trí nghề nghiệp của mình, có những cống hiến nhất định cho xã hội. Ngày nay, nhờ sự phát triển nhanh của công nghệ - một lĩnh vực có rất nhiều đặc điểm phù hợp với tâm lý giới trẻ, được giới trẻ ưa thích và tích cực vận dụng vào chuyên môn, không ít bạn trẻ đã sớm đạt được thành tựu lớn, nhanh chóng khẳng định bản thân. Giới trẻ là một khái niệm chưa có sự thống nhất về độ tuổi và đặc tính trong những nghiên cứu xã hội học, nghiên cứu văn hóa, hay trong những nghiên cứu về pháp luật, kinh tế và việc làm... Trong nhiều bài viết của truyền thông, báo chí, thậm chí trong một số công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, khái niệm “giới trẻ” và “thanh niên” được sử dụng đồng nhất. Theo Phạm Hồng Tung trong một công trình nghiên cứu về lối sống thanh niên [14], qua tham khảo nhiều khái niệm của các nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu lịch sử của nước ngoài, ông đã hệ thống rồi lựa chọn một khái niệm chung nhất: Giới trẻ là nhóm người giữa lứa tuổi trẻ em và tuổi trưởng thành, ở giai đoạn quá độ từ trẻ con sang người lớn, được tính từ tuổi 15 đến 13 30. Tuy có sự phát triển về thể chất đạt đến đỉnh cao, nhưng ở họ các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương đối. Mary Bucholtz trong nghiên cứu về “Thanh niên và thực hành văn hóa” [98] cũng chỉ ra sự phức tạp và chưa thống nhất của khái niệm “thanh niên”. Bà cho biết, tùy theo cấu trúc và đặc trưng về xã hội, tâm sinh lý (của tộc người/chủng tộc) hay ở từng hoàn cảnh, đặc biệt trong xã hội hiện đại, biên độ của thời kỳ “thanh niên” có thể ra ngoài tuổi 40 và trước tuổi 15. Thực tế này cũng có thể thấy ở Việt Nam với nhiều đứa trẻ được nhận xét “trông như thanh niên”, hay với nhiều người lớn (thậm chí trung niên) vẫn được khen có “tính thanh niên”... Không để tranh luận, chúng tôi chọn thuật ngữ “giới trẻ” với cảm nhận riêng về ý nghĩa phân nhóm xã hội rõ hơn của nó, chỉ những người trẻ tuổi có giới hạn về độ tuổi gần gũi với khái niệm “thanh niên” ở Việt Nam (15- 30 tuổi). Kết quả khảo sát của các nghiên cứu đi trước về Hallyu ở Việt Nam cho thấy, nhóm khán giả có tần suất xem phim truyền hình Hàn Quốc nhiều nhất là giới trẻ bao gồm học sinh, sinh viên và người đã đi làm, tiếp đến là những phụ nữ làm nội trợ, còn số người trung niên ở Việt Nam xem phim Hàn Quốc không đáng kể. Qua khảo sát thăm dò (với 50 phiếu) tại các trường đại học và các khu đô thị mới, nơi cư trú có nhiều thành phần nghề nghiệp và nguồn gốc dân cư từ các nơi chuyển đến trong thời gian gần đây, chúng tôi thấy thể loại phim truyền hình mà những phụ nữ nội trợ xem thường là những phim về đề tài gia đình, không “phủ khắp” các thể loại. Hơn nữa, các ý kiến đánh giá của họ không rõ ràng (do không nhớ chính xác tên và nội dung của phim, dấu ấn để lại về các hình tượng nhân vật,...), nên không thấy rõ ảnh hưởng của Hallyu ở đối tượng này. Trong khi đó, tần xuất xem phim thường xuyên, có suy nghĩ và đánh giá, thể hiện sự học hỏi được thấy rõ hơn ở giới trẻ, do đó, đối tượng này được tập trung khảo sát. Với các phim Hàn Quốc (phim điện ảnh, phim truyền hình) được trình chiếu tại Việt Nam cho đến nay, phim truyền hình có sức hút và tầm ảnh hưởng hơn đối với khán giả Việt nên được tập trung khảo sát. Theo đó, các phim truyền hình được sử dụng làm cơ sở nội dung khảo sát như lập phiếu điều tra, thảo luận tập trung và phỏng vấn sâu để cung cấp cứ liệu khoa học cho luận án được lựa chọn từ hai nguồn (xem bảng thống kê trong phụ lục), 14 tính đến cuối năm 2013: (1) Danh sách 6 phim theo đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc [34] dựa trên các phương diện: giữ kỷ lục về số lượng người xem ở châu Á, được mua bản quyền với giá cao và có sức lan tỏa lớn; (2) Danh sách 10 bộ phim được người hâm mộ Việt Nam yêu thích nhất bình chọn [69]. Các phim này đại diện cho các thể loại: tâm lý tình cảmxã hội, hành động, dã sử, tình cảm- hài hước. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Hallyu là một hiện tượng văn hóa tổng thể, bao gồm nhiều phương diện của văn hóa, trong đó có phim ảnh, sân khấu, thời trang, ẩm thực… Tuy nhiên, trong phạm vi luận án này, Nghiên cứu sinh chỉ xem xét Hallyu thông qua phim truyền hình bởi đây là kênh chuyển tải văn hóa lớn, mang tính tổng hợp cao. - Phạm vi thời gian nghiên cứu: quá trình phim Hàn Quốc được truyền bá rộng rãi ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, khi Hallyu lan rộng với sức cuốn hút mạnh và ảnh hưởng lớn ở nhiều nước châu Á. - Phạm vi không gian nghiên cứu: luận án khảo sát ở hai thành phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tập trung ở Hà Nội trong thảo luận tập trung và phỏng vấn sâu. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chính mà luận án sử dụng là phương pháp nghiên cứu liên ngành nhân học văn hóa và văn hóa học. Bên cạnh đó, với quan điểm xem xét những ảnh hưởng của Hallyu đối với văn hóa Việt Nam như một hệ quả của quá trình giao lưu - tiếp biến văn hóa với nước ngoài, chúng tôi sử dụng lý thuyết sức mạnh mềm văn hóa, mô hình làn sóng văn hóa và một số khía cạnh tích cực của lý thuyết khuếch tán văn hóa (được trình bày cụ thể ở chương sau) để diễn giải về quá trình này. Để tìm hiểu về hiện trạng của Hallyu cũng như những tác động của nó đối với đời sống văn hoá và lối sống của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu sinh sử dụng 3 phương pháp nghiên cứu khác nhau để thu thập tư liệu, bao gồm: 1) phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu; 2) phương pháp điền dã dân tộc học, kết hợp giữa quan sát tham gia, phỏng sâu và thảo luận 15 nhóm và 3) phương pháp khảo sát định lượng. - Trong quá trình tổng hợp và phân tích tài liệu, chúng tôi tiến hành thu thập, xử lý, hệ thống các tài liệu liên quan tới nội dung luận án (với các bài viết tạp chí, tham luận hội thảo, sách, các trang web liên quan,... bằng tiếng Việt, Hàn và tiếng Anh); - Đối với khảo sát định lượng, chúng tôi đã tiến hành điều tra bảng hỏi với 200 phiếu dành cho đối tượng là học sinh, sinh viên và người đã đi làm, trong độ tuổi từ 15- 30, chia đều cho hai thành phố (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh) nhằm xác định tần xuất, mức độ tiếp cận phim truyền hình của giới trẻ, độ phủ rộng các thể loại phim, các yếu tố phim được quan tâm... Bảng hỏi có 19 câu, kết quả phiếu thu về hợp lệ là 180 phiếu, được xử lý theo phần mềm thống kê phân tích dữ liệu SPSS. Trong tổng số phiếu thu về hợp lệ, có tới 86,1% người trả lời là nữ và có 13,9% là nam. Kết hợp với các phiếu điều tra, chúng tôi tổ chức 3 cuộc thảo luận tập trung từ 25 người tại Hà Nội. Ngoài việc đi sâu hơn một số câu hỏi trong bảng hỏi, nội dung thảo luận tập trung được chú ý vào cảm xúc, sự cảm nhận về phim Hàn (còn được các bạn trẻ so sánh với phim của Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ), những trải nghiệm cuộc sống của các bạn trẻ sau khi xem phim Hàn. - Các phỏng vấn sâu tập trung ở Hà Nội với 12 người từ nhóm thảo luận tập trung. Câu hỏi phỏng vấn sâu được soạn theo dạng mở, ngoài thông tin về các vấn đề chính thuộc nội dung nghiên cứu, câu hỏi còn cho phép người cấp tin có thể nói/kể tự do về cuộc sống cũng như cảm nghĩ của họ sau khi xem phim. Ví dụ, chủ đề và ý nghĩa phim, hình tượng nhân vật và diễn biến của phim đưa đến những suy nghĩ như thế nào về cuộc sống hiện đại, tình yêu, bạn bè và công việc, cuộc sống gia đình Hàn và Việt, thời trang, so sánh ẩm thực Việt - Hàn... Ngoài phỏng vấn sâu, chúng tôi cũng thực hiện phương pháp quan sát tham gia dưới các hình thức: Xem những phim truyền hình của Hàn Quốc đã có ở Việt Nam, trước hết là những phim đã lựa chọn (đưa vào danh sách khảo sát như đã đề cập phía trên), ngoài ra là những phim được trình chiếu trên các kênh truyền hình lớn của Việt Nam trong khoảng thời gian thực hiện luận án; Tham gia cùng nhóm đối tượng phỏng vấn sâu diễn đàn bình luận phim Hàn 16 trên mạng xã hội của họ để theo dõi và tìm hiểu tin tức, ý kiến khán giả về những phim đang phát trên kênh truyền hình quốc gia hoặc trên các kênh phim mạng được họ tìm kiếm. Tư liệu này được dùng tham khảo hoặc kết hợp với các tư liệu phỏng vấn sâu. 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án góp phần làm sáng tỏ hiện tượng Hallyu ở Việt Nam, những biểu hiện và mức độ ảnh hưởng văn hóa Hàn Quốc ở Việt Nam thông qua phim truyền hình, thấy được một phần biến đổi văn hóa Việt Nam cũng như ý nghĩa của giao lưu văn hóa nghệ thuật Hàn - Việt và khu vực, khả năng tiếp cận và hội nhập văn hóa toàn cầu của Việt Nam trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam đương đại. Luận án có thể làm rõ, ảnh hưởng văn hóa Hàn Quốc chỉ là một trong những ảnh hưởng văn hóa nước ngoài ở Việt Nam hiện đang có nhiều nguồn, nhiều hướng tiếp xúc từ các khu vực khác trên thế giới ngoài Đông Á. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Luận án góp phần làm phong phú thêm cho lý luận về giao lưu và tiếp biến văn hóa thông qua trao đổi văn hóa nghệ thuật. Luận án đóng góp vào hệ thống tài liệu hữu ích đối với các nhà hoạch định chính sách văn hóa của Việt Nam khi xây dựng chính sách về đối ngoại văn hóa, nhất là đối với các nước trong khu vực cũng như trong quan hệ văn hóa nghệ thuật đối với Hàn Quốc nói riêng. Luận án sẽ là một tài liệu tham khảo về thực tiễn giao lưu và tiếp biến văn hóa ở Việt Nam hiện nay nói chung, về ảnh hưởng của Hallyu nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Hallyu trên thế giới và ở Việt Nam Chương 3: Sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc ở Việt Nam qua phim truyền hình Chương 4: Ảnh hưởng từ phim truyền hình Hàn Quốc đến văn hóa Việt 17 Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay 18 Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Hallyu Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào vấn đề lịch sử lan tỏa của Hallyu (qua các dấu mốc thay đổi “chiến thuật” tạo sóng được mã hóa bằng các con số công nghệ: 1.0, 2.0,… Như đối với phim ảnh là sự phát triển và mở rộng nội dung hay chủ đề sáng tác, đi cùng với việc hoàn thiện hình thức biểu đạt và thủ pháp nghệ thuật, diễn viên,..). Một số khảo sát khác đã chú ý đo đếm tần xuất hiện diện của Hallyu ở các lãnh địa khác nhau (từ một số nước châu Á đến toàn châu lục, một số nước châu Phi, châu Âu, Mỹ,…), hoặc quan tâm tới vai trò của phương tiện truyền thông (tivi, internet, điện thoại,…) trong lan truyền văn hóa, hoặc đi vào phân tích giá trị nghệ thuật, nội dung của phim,… Mặc dù các nghiên cứu có chỉ ra những thành công và hạn chế của những tác động từ phim Hàn nói riêng, Hallyu nói chung đến văn hóa các nước châu Á, Đông Á cũng như ở Việt Nam, nhưng cảm nhận, suy nghĩ và trải nghiệm cùng văn hóa Hàn ở người Việt Nam, đặc biệt là trong giới trẻ chưa thực sự được phân tích sâu từ những điều tra định tính,... Phát triển và quảng bá các sản phẩm văn hóa đã là mục tiêu của chính sách văn hóa Hàn Quốc, do đó, ngay khi Hallyu xuất hiện (khoảng giữa thập niên 1990 của thế kỷ XX), nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu truyền thông cũng như nghiên cứu về thương mại quốc tế, kinh tế đối ngoại của Hàn Quốc đã quan tâm, đặc biệt chú ý vào các đợt đỉnh sóng của Hallyu hay sự thoái trào của nó. Hàng loạt những báo cáo, các nghiên cứu khoa học được thực hiện đi sâu khai thác những thành công và hạn chế của Hallyu, thông qua việc tìm hiểu những đánh giá của người tiêu dùng để đề xuất những kiến nghị cải tổ, đổi mới nhằm mục đích duy trì và phát triển Hallyu ở giai đoạn mới. Ở phương Tây, không nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của Hallyu, các nghiên cứu viết bằng tiếng Anh về Hallyu đều là của du học sinh người Hàn tại Mỹ hoặc phương Tây. Ngoài ra, cũng có một số báo cáo và tham luận của 19 người phương Tây trình bày tại các hội thảo nhưng đối tượng nghiên cứu đa phần là người dân các nước Châu Á, nơi chịu ảnh hưởng lớn nhất từ Hallyu. Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về Hallyu cũng đã được thực hiện liên tiếp trong những năm qua và thường sử dụng kết quả từ điều tra xã hội học. Với những nghiên cứu về Hallyu ở trong và ngoài nước, có thể nhận thấy sự quan tâm và cách tiếp cận khác nhau giữa các tác giả. 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về Hallyu của nước ngoài Thứ nhất, góc nhìn văn hóa truyền thông: chính trị, giới, văn hóa nhóm Văn hoá truyền thông (Media Culture) là thuật ngữ dùng để chỉ những hiện tượng của đời sống xã hội do phương tiện truyền thông (và cũng là hoạt động truyền thông) chi phối (hay thậm chí thống trị). Các ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của hệ thống báo chí, truyền hình, phim ảnh, quảng cáo, internet… làm thay đổi hành vi, quan điểm, lối sống của con người trong những cộng đồng khác nhau đã trở thành đề tài nghiên cứu thường xuyên của giới chuyên môn. Giáo sư Jostenim Gripsrud, chuyên gia hàng đầu trong nghiên cứu văn hóa truyền thông đã xem xét cấu trúc và quá trình của hoạt động truyền thông đại chúng như là tổng thể của một quá trình văn hóa, một hiện tượng văn hóa. Hiện tượng văn hóa này vừa là sản phẩm của môi trường văn hóa có tính lịch sử cụ thể vừa có sự liên hệ tương tác với các hiện tượng văn hóa khác và có tác động lên diện mạo của đời sống văn hóa, xã hội [6]. Từ cách tiếp cập đó, một số học giả Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng mang tính xã hội và văn hóa từ các bộ phim truyền hình, phim điện ảnh Hàn Quốc, như nghiên cứu của Chua & Iwabuchi (2008), Văn hóa Pop Đông Á: Phân tích làn sóng Hàn Quốc; Yang (2008), Gắn bó với phim truyền hình Hàn Quốc: Những câu chuyện về giới, phương tiện truyền thông và sự hình thành tầng lớp tại Đài Loan; Lin & Tong (2007), Vượt ranh giới: tiêu thụ phim truyền hình Hàn Quốc của nam giới và sự dàn xếp quan hệ giới trong xã hội Hồng Kong hiện đại; Leung (2005); Siriyusak & Shin của Ko Yu Fen (2005): Phim truyền hình Hàn Quốc và tác động văn hóa của nó tại Đài Loan; Hayashi (2005), 20 Yếu tố chính trị của phim truyền hình “Bản tình ca mùa đông”... Các tác giả này đã xem xét ảnh hưởng của các sản phẩm văn hóa Hàn Quốc ở các nước mà Hallyu tràn tới qua sự hâm mộ cuồng nhiệt của người dân sở tại, mức tiêu thụ và sử dụng các sản phẩm văn hóa Hàn. Có thể nói, vào những năm 2000 2008, sức mạnh, giá trị và ý nghĩa của Hallyu đã được quan tâm trong các nghiên cứu, nó cũng chỉ ra sự tiếp nhận Hallyu tạo nên những biến đổi văn hóa ở Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, cho thấy mức độ và tính chất của hiện tượng truyền bá - lan tỏa văn hóa này. Một số nghiên cứu khác tập trung vào sự kiểm chứng các lý thuyết về truyền thông từ so sánh hiện tượng Hallyu tại các quốc gia khác nhau qua sự định hướng và sự hài lòng của khán giả, cách sử dụng phương tiện truyền thông, từ đó bàn về cách thức nâng cao hiệu quả kinh tế - chính trị, cải thiện phương tiện cũng như nội dung của các sản phẩm truyền thông. Họ còn cho rằng, với sự giúp sức của kỹ thuật và nội dung truyền thông (các phim truyền hình, các chương trình truyền hình trực tiếp,...), khả năng Hallyu có thể góp phần làm thay đổi suy nghĩ của người dân trên thế giới về con người và đất nước Hàn Quốc. Đó là nghiên cứu của Kwon Dong Hwan (2007), Có quá sớm để nói về Hallyu ở Philippines? Tiểu thuyết Hàn Quốc và sự tiếp nhận của khán giả Philippines; hay công bố của nhóm tác giả Kang Hyung GooMoon Hyo Jin- Yoon Jung Won (2007), Nghiên cứu liên quan đến nhận thức tương hỗ về hình ảnh quốc gia và hình ảnh từ sản phẩm văn hóa Hàn Quốc: Nghiên cứu đối tượng sinh viên Hàn Quốc và Trung Quốc; Zhou (2005), Ảnh hưởng của làn sóng Hàn Quốc lên văn hóa nghe nhìn của Trung Quốc; hai nghiên cứu của Lee Jun Woong (2005), Nghiên cứu kiểm chứng mô hình hiệu quả truyền thông giữa các nền văn hóa đối với hiện tượng Hallyu tại Trung Quốc: tập trung phân tích sự hình thành tín nhiệm, cảm tình, thái độ của người Trung Quốc theo mức độ sử dụng sản phẩm văn hóa Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Đài Loan; và (2003), Hiệu quả truyền thông của Hallyu: Ảnh hưởng của tiêu dùng sản phẩm văn hóa Hàn Quốc tới nhận thức và thái độ của người Trung Quốc đối với Hàn Quốc,... Một số tác giả theo quan điểm nên tạm ngưng phát triển Hallyu nhưng không được đồng tình nên trong nghiên cứu những đánh giá của họ chỉ nhằm 21 nêu ra những điểm chưa hợp lý của việc quản lý phát triển Hallyu. Họ đã dự báo về khó khăn của Hallyu và cho rằng khi đang có lợi thế, Hallyu cần xác định cụ thể hơn con đường đi sắp tới. Những phê phán của họ được đặt trong bối cảnh diễn ngôn văn hóa của Chính phủ Hàn Quốc, chỉ ra những suy nghĩ sai lệch, không thực tế trong nội dung những sản phẩm truyền hình và việc sử dụng phương tiện này trong truyền bá văn hóa. Những vấn đề này cũng được đề cập trong nghiên cứu của Lee Jong Nim (2007), Hiện trạng và vấn đề của Hallyu truyền hình: tập trung vào sự biến đổi bối cảnh thị trường truyền hình trong nước và môi trường chế tác truyền hình; trong bài viết của Jeon Kyu Chan và Yoon Tae Jin (2005), Dòng chảy văn hóa châu Á và Hallyu, hay bài Khu vực hóa truyền hình Đông Á và Hallyu của Ha Jong Won- Yang Eun Kyung (2002). Sau những phân tích, các tác giả cho rằng, với thế mạnh về khả năng chiếm sóng dài lâu trên truyền hình các nước Đông Á, các nhà sản xuất phim truyền hình Hàn Quốc nên khai thác thế mạnh của mình là đi vào sự tương đồng văn hóa cũng như tính chuyên nghiệp cao của ngành công nghiệp văn hóa Hàn, chúng có thể giúp tiếp tục phát triển Hallyu. Bổ sung cho nhận định này có phân tích của Yoon Jae Sik và các đồng nghiệp trong Đề án những phương án khắc phục sự thoái trào của Hallyu (2008), chỉ ra những điểm thuận lợi và đưa ra những đề xuất mang tính cảnh báo cho Hallyu sau khi khái quát về thực trạng tồn tại của Hallyu ở một vài quốc gia châu Á. Dù có những phê phán nhưng mục tiêu chính của những nghiên cứu trên là ngợi ca thành công của Hallyu, cho rằng người Hàn Quốc đã may mắn cũng như đã có nhận định đúng đắn để quyết định một bước tiến vĩ đại làm thay đổi hình ảnh đất nước. Sự quảng bá về một “Hàn Quốc năng động” (Dynamic Korea) là một minh chứng cho việc Hàn Quốc tự tin hơn kể từ khi Hallyu lan rộng đến nhiều nước khác ngoài châu Á. Các nghiên cứu trên hầu hết đều là những phân tích nhằm chỉ ra ảnh hưởng tích cực trong quá trình phổ biến - truyền bá văn hóa Hàn Quốc tới cộng đồng các nước mà Hallyu hướng tới, thông qua truyền thông. Sở dĩ chiều cạnh tiêu cực của nó hay cái nhìn đa chiều về ảnh hưởng của Hallyu chưa được quan tâm là bởi, các nhà nghiên cứu nhận thấy sự dễ tính của người tiêu dùng nước ngoài khi đón nhận lối sống Hàn hiện đại qua phim ảnh, đi cùng các hình thức giải trí khác như âm nhạc, trò chơi truyền hình trực tiếp (gameshow),... 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan