Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học ảnh hưởng của công giáo trong phát triển bền vững ở tây nguyên hiện nay...

Tài liệu ảnh hưởng của công giáo trong phát triển bền vững ở tây nguyên hiện nay

.PDF
197
170
62

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ LIÊN ¶NH H¦ëNG CñA C¤NG GI¸O TRONG PH¸T TRIÓN BÒN V÷NG ë T¢Y NGUY£N HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA Xà HỘI KHOA HỌC Mã số: 60 22 03 08 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. BÙI THỊ NGỌC LAN 2. PGS.TS. NGUYỄN HỒNG DƯƠNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Lê Thị Liên MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2. Giá trị tham khảo và vấn đề đặt ra luận án cần tập trung nghiên cứu 6 6 23 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 2.1. Cơ sở lý luận về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên 2.2. Đặc điểm Công giáo ở Tây Nguyên và những yếu tố tác động đến ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay 27 27 58 Chương 3: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay 3.2. Những vấn đề đặt ra đối với ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay 77 77 107 Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA CÔNG GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 4.1. Dự báo xu hướng ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên 4.2. Những yêu cầu cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay 4.3. Giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 118 118 123 130 151 153 154 172 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Đánh giá về sự khuyên bảo của chức sắc, tu sĩ đối với tín đồ 167 Bảng 3.2: Đánh giá về sự giúp đỡ của chức sắc, tu sĩ đối với tín đồ 167 Bảng 3.3: Đánh giá về lý do theo đạo của tín đồ 168 Bảng 3.4: Đánh giá về một số hoạt động kinh tế, xã hội của tín đồ ở địa phương 168 Bảng 3.5: Đánh giá về đời sống của tín đồ ở địa phương 169 Bảng 3.6a: Đánh giá về việc tiếp cận các chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo của tín đồ ở địa phương Bảng 3.6b: 169 Đánh giá về việc tín đồ tham gia các tổ chức chính trị, xã hội ở địa phương 169 Bảng 3.7: Tín đồ tham gia các sinh hoạt động ở địa phương 170 Bảng 3.8: Đánh giá về việc tín đồ tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội do chính quyền địa phương tổ chức Bảng 3.9: Đánh giá về mức độ tham gia các sinh hoạt tôn giáo của tín đồ hiện nay Bảng 3.10: 171 Biến động cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh các tỉnh Tây Nguyên Bảng 3.12: 171 Đánh giá những nguyên nhân cản trở người Công giáo trong phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương Bảng 3.11: 170 172 Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã các tỉnh Tây Nguyên tính đến tháng 9/2014 172 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội [139]. Tây Nguyên là một trong những vùng ưu tiên phát triển bền vững nhằm tạo ra sự cân đối, từng bước thu hẹp khoảng cách về xã hội và tiến tới giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các địa phương, vùng miền. Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và an ninh - quốc phòng của Việt Nam. Ở Tây Nguyên có 54 dân tộc, khoảng 5,3 triệu người, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 36,85%, trong đó đồng bào dân tộc tại chỗ chiếm 25,52% [2]. Bên cạnh tín ngưỡng đa thần, Tây Nguyên có 4 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài và một số tôn giáo khác, với số lượng tín đồ đến năm 2014 là 2,04 triệu, chiếm 36% dân số [2]. Công giáo truyền lên Tây Nguyên từ năm 1848, với hơn 01 triệu tín đồ, đông nhất trong số các tôn giáo hiện nay ở Tây Nguyên, trong đó gần một nửa triệu tín đồ là người dân tộc thiểu số. Hoạt động truyền giáo vào vùng dân tộc thiểu số đã, đang là chiến lược lâu dài của Giáo hội Công giáo. Trong quá trình truyền giáo và phát triển, Công giáo đã trở thành nhân tố ảnh hưởng sâu rộng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và an ninh - quốc phòng ở Tây Nguyên. Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và những nỗ lực của chính quyền địa phương, nhất là hệ thống chính quyền cơ sở vùng dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế, xã hội bền vững ở Tây Nguyên nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân thì Công giáo đã góp phần: làm chuyển biến đời sống tín đồ người dân tộc thiểu số, từ khép kín sang cởi mở, hòa nhập; loại bỏ một số hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của người dân, giữ gìn và phát triển văn hóa các dân tộc; thay đổi thói quen từ du canh, du cư sang định canh, định cư, biết tổ chức cuộc sống hợp lý, bảo vệ môi trường, đoàn kết cộng đồng và đảm bảo an ninh trong các giáo xứ, giáo họ; tích cực trong các hoạt động từ thiện xã hội và hưởng ứng chủ trương xã hội hóa y tế, 2 giáo dục của Đảng và Nhà nước ở Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển bền vững đất nước Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước [23], do vậy, Công giáo ở Tây Nguyên cũng sẽ là nhân tố trong việc tham gia vào quá trình phát triển bền vững khu vực. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Công giáo khi truyền vào Tây Nguyên cũng có ảnh hưởng tiêu cực. Là tôn giáo nhất thần, Công giáo đã gây ra xung đột văn hóa với truyền thống đa thần và từng bước Công giáo hóa văn hóa, tín ngưỡng một số dân tộc thiểu số theo đạo. Quan niệm trong sinh sản của Công giáo không giới hạn số con đã mâu thuẫn và làm cho việc thực hiện chính sách dân số của Đảng và Nhà nước trong vùng Công giáo gặp khó khăn. Trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, dưới thời thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược Công giáo đã bị lợi dụng để can thiệp vào Việt Nam. Điều này một mặt để lại những hệ lụy tiêu cực trong quan hệ giữa Công giáo và chính quyền cũng như người dân không theo Công giáo, mặt khác tạo cớ để các phần tử cực đoan tiếp tục lợi dụng Công giáo vào hoạt động chống phá gây bất ổn ở Tây Nguyên. Bên cạnh đó, Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo còn cao, trình độ dân trí thấp, bản sắc văn hóa đang có xu hướng mai một, an ninh - quốc phòng còn nhiều bất ổn, những hạn chế trong quản lý xã hội, quản lý hoạt động tôn giáo chưa tốt khiến cho không ít tín đồ, chức sắc Công giáo mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước. Những bất cập trên nếu không được nghiên cứu và có giải pháp giải quyết thỏa đáng, thì những giá trị và ảnh hưởng tích cực của Công giáo sẽ khó được phát huy, mặc khác những mặt tiêu cực của Công giáo sẽ là nhân tố tiềm ẩn những bất ổn, ảnh hưởng trực tiếp đến đồng thuận xã hội trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề "Ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay" làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.2. Mục đích Trên cơ sở những vấn đề lý luận, kế thừa các công trình nghiên cứu trước đó, luận án làm rõ thực trạng ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền 3 vững, luận án đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên và những yếu tố tác động đến ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay. - Phân tích thực trạng ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay. - Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là vấn đề lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: thế giới và Việt Nam đều thống nhất đánh giá về phát triển bền vững trên 3 tiêu chí: kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, từ tính đặc thù địa - chính trị - văn hóa ở Tây Nguyên, nên nghiên cứu về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên, luận án thấy cần thiết tách lĩnh vực văn hóa và an ninh - quốc phòng trong tiêu chí xã hội thành những tiêu chí riêng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề, bởi: Công giáo là vấn đề thuộc về tâm linh, là yếu tố cấu thành văn hóa, ảnh hưởng của Công giáo trên các lĩnh vực chủ yếu là niềm tin tôn giáo, Tây Nguyên là không gian văn hóa đặc thù của các dân tộc thiểu số, quá trình truyền giáo Công giáo có những tiếp biến và ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa các tộc người nơi đây; Tây Nguyên là khu vực có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng, biên giới lãnh thổ tiếp giáp với nhiều nước, là hành lang mà bọn phản động, cực đoan liên tục hoạt động chống phá để thực hiện ý đồ tách Tây Nguyên khỏi Việt Nam. Trong chiến lược này, chúng sử dụng tôn giáo như một phần của kế hoạch "diễn biến hòa bình tại Tây Nguyên". Với 4 những lý do đó, luận án nghiên cứu về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên trên 5 tiêu chí: kinh tế; chính trị, xã hội; văn hóa; môi trường, an ninh - quốc phòng. - Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của Công giáo trên địa bàn 3 tỉnh: Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm Đồng, vì đây là 3 tỉnh có đông tín đồ Công giáo và là nơi đặt trụ sở 3 Tòa Giám mục của Công giáo. - Về thời gian: từ khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ban hành Nghị quyết số 25, ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn và một số phương pháp liên ngành, cụ thể: Luận án sử dụng phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, so sánh: thu thập, thống kê số liệu thực tiễn về các nội dung nghiên cứu. Đồng thời luận án tổ chức điều tra xã hội học với 3 mẫu phiếu ở 3 tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm Đồng với số lượng phiếu thu về là 399 phiếu cho 3 đối tượng cụ thể: 159 phiếu dành cho cán bộ làm công tác tôn giáo thuộc các ngành: tôn giáo, dân vận, công an, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, dân tộc [Phụ lục 1.1]; 132 phiếu dành cho tín đồ Công giáo [Phụ lục 1.2]; 108 phiếu dành cho chức sắc, tu sĩ Công giáo [Phụ lục 1.3]. Từ kết quả thu thập, tổng hợp, luận án phân tích các vấn đề cần nghiên cứu, làm rõ tính đặc thù về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên và đưa ra những đánh giá, nhận định, kết luận có cơ sở khoa học. Luận án sử dụng phương pháp chuyên gia, tọa đàm khoa học: Tọa đàm, trao đổi với các giám mục, linh mục, tu sĩ ở 3 giáo phận: Kon Tum, Ban Mê Thuột và Đà Lạt để làm rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu. Trao đổi với cán bộ làm công tác tôn giáo các tỉnh: Kon Tum, Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển ở địa phương. 5. Những đóng góp mới của luận án Một là, luận án làm rõ các tiêu chí đánh giá ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững trên 05 tiêu chí: kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh - quốc phòng. 5 Hai là, luận án làm rõ đặc điểm và ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên; đề xuất các yêu cầu, giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Những kết quả của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các bộ, ngành và cán bộ, đảng viên nhận thức khách quan về vai trò, ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa học cho việc đề xuất chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy chuyên ngành Chủ nghĩa Xã hội khoa học, chuyên ngành Tôn giáo học và là tài liệu phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về Công giáo. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án của tác giả nước ngoài - Francis, LAUDATO SI’ of the Holy Father Francis on care for our common home (Thông điệp về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta) [58]. Cuốn sách là Thông điệp của người đứng đầu Giáo hội Công giáo thế giới về việc bảo vệ môi trường. Việc quan tâm đến bảo vệ môi trường là một trong những hoạt động quan trọng của Tòa thánh Vatican trong nhiều thập kỷ qua. Từ thời Giáo hoàng Phaolo VI đã ban hành Tông thư "Bát thập niên" năm 1967 kêu gọi tín đồ trên toàn thế giới có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên. Các Giáo hội châu Á, trong đó có Việt Nam, năm 2011 đã ra lời kêu gọi một lối sống mới, một nền văn hóa mới tôn trọng thiên nhiên. Quan điểm của Giáo hội cho rằng tài nguyên thiên nhiên không phải là nguồn nguyên liệu vô hạn, thậm chí có một số tài nguyên không thể tái tạo được, do đó không thể khai thác thiên nhiên một cách thái quá, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn dự trữ tài nguyên cho thế hệ hiện tại cũng như tương lai. Tiếp nối quan điểm đó, Giáo hoàng Phanxicô thúc đẩy vấn đề bảo vệ môi trường không chỉ bằng những lời kêu gọi, thuyết giảng ở các diễn đàn lớn mà còn được đúc kết thành Thông điệp về Bảo vệ môi trường "Laudato Si’" ban hành ngày 17/6/2015 tại Vatican. Đây được xem như một văn kiện quan trọng của Giáo hội mà toàn thể các tín đồ có nghĩa vụ phải thực hiện. Đây không chỉ là tiếp nối hành trình bảo vệ môi trường của các Giáo hoàng trước, mà còn là chủ trương, thể hiện trách nhiệm của Giáo hội đối với vấn đề môi trường trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Thông điệp gồm 6 chương với 246 đoạn, đề cập đến các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay. Từ đó tác giả kêu gọi mọi người hãy hành động vì môi trường trên tinh thần đối thoại và đề ra các giải pháp để bảo vệ môi trường sống và xem đó như "một hành trình giáo dục", mà khởi đầu là trường học, gia đình và các phương tiện truyền thông. 7 - Francis, Esortazione Apostolica Amoris Laetitia, Tông Huấn hậu thượng hội đồng về "Tình Yêu trong Gia Đình" của Giáo hoàng Phanxicô [59]. Tông huấn là tổng hợp kết quả của hai Thượng Hội Đồng về gia đình được Giáo hội đề ra năm 2014 và 2015. Tông huấn gồm 9 chương và 325 đoạn tổng hợp, trích dẫn những báo cáo cuối cùng của thượng hội đồng, các văn kiện, giáo huấn của các Giáo hoàng trước đó và nhiều bài giáo lý về gia đình của chính Giáo hoàng Phanxicô. Dựa trên nền tảng Kinh thánh, hôn nhân trong Công giáo chỉ được tiến hành trên cơ sở tự do, tự nguyện, đủ tuổi để yêu thương nhau trọn đời và cùng nhau sinh con. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay tình trạng hôn nhân gia đình đang đứng trước nhiều thách thức do các yếu tố tác động từ bên ngoài như: tình trạng di dân, lựa chọn giới tính khi sinh, sử dụng các biện pháp tránh thai ngoài tự nhiên để hạn chế việc sinh nhiều con… Trước tình hình đó, Giáo hoàng kêu gọi tín đồ cần thiết phải củng cố gia đình trên nền tảng hôn nhân Công giáo để hạn chế tình trạng ly hôn, vì điều này sẽ gây hậu quả xấu cho các thành viên trong gia đình. Giáo hoàng kêu gọi tín đồ quan tâm đến gia đình người khuyết tật và đề cao đạo đức gia đình trong việc tôn trọng và noi gương người già. Giáo hoàng nhấn mạnh sự cần thiết phải dành thời gian cho việc chuẩn bị tâm lý và kiến thức, đạo đức nền tảng về gia đình cho tín đồ trước khi kết hôn. Do vậy, trách nhiệm của Giáo hội là phải trang bị cho tín đồ những giáo lý về hôn nhân gia đình và phải đồng hành với các gia đình trẻ trong những năm đầu kết hôn, giáo dục tín đồ về việc làm cha mẹ có trách nhiệm và cách thức để vượt qua những khủng hoảng, phức tạp trong cuộc sống gia đình nhằm xây dựng gia đình bền vững. - Gaudium et Spes 1965 (Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay) [27]. Đây là một trong những văn kiện của Công đồng Vatican II (1962 1965), được ban hành ngày 7/12/1962. Hiến chế được gọi là Mục vụ vì dựa trên nguyên tắc giáo lý để trình bày thái độ của Giáo hội Công giáo với thế giới và con người ngày nay. Hiến chế đề cập đến nguyên tắc của Giáo hội đối với đời sống kinh tế, xã hội, đồng thời chỉ ra một số giải pháp trong phát triển kinh tế như: phát triển kinh tế để phục vụ con người, phát triển kinh tế dưới sự kiểm soát 8 của con người, phải chấm dứt tình trạng bất bình đẳng quá lớn trên bình diện kinh tế, xã hội. Hiến chế cũng bàn đến các vấn đề khác trong phát triển kinh tế, xã hội như: việc làm, điều kiện lao động và giải trí; tổ chức kinh tế thế giới, tranh chấp lao động, vấn đề đầu tư và tiền tệ, sở hữu và quyền tư hữu. - P. Dourisboure, Dân Làng Hồ [33]. Đây là cuốn hồi ký của một linh mục người Pháp, ghi lại quá trình truyền giáo thời kỳ đầu ở Kon Tum của các linh mục nước ngoài (thừa sai Công giáo) khi đến Tây Nguyên. Cuốn sách tái hiện đời sống của các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng xưa. Cuộc sống của họ được bao bọc bởi rừng, sống chết với rừng và những huyền thoại về rừng với nhiều phong tục, kiêng cữ, tạo nên tính cấu kết cộng đồng bền chặt. Đây cũng chính là những cản trở, thách thức mà các thừa sai Công giáo khi đến đây phải đối diện. Tác giả đã tái diễn lại những nỗ lực, sự kiên trì của các thừa sai trước những thách thức từ con người, thiên nhiên, ngôn ngữ và phong tục tập quán của người dân Tây Nguyên để thành lập được các trung tâm truyền giáo thu hút người dân theo đạo, đặt nền tảng cho việc truyền giáo vào Tây Nguyên trong những giai đoạn sau này. - Libereria Editrice Vaticana Compendium of the Social Doctrine of the Church (Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo) [74]. Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo là cuốn sách tổng hợp giáo lý Công giáo để giải thích các vấn đề xã hội một cách hệ thống, trên cơ sở hàng nghìn bản văn về: Kinh thánh, hiến chế, tông thư, tông huấn, thông điệp của Giáo hội và các Giáo hoàng. Trên cơ sở lý luận của Giáo hội về thần học, triết học, luân lý học, văn hóa và mục vụ, từng vấn đề cụ thể của xã hội được luận giải trong 12 chương của Học thuyết với 1232 chú thích cho thấy một cái nhìn tổng lược của toàn bộ giáo huấn Công giáo về xã hội. Học thuyết này được coi như phương tiện quan trọng thể hiện trách nhiệm của Giáo hội trong xã hội hiện nay, là phương thức thể hiện quan hệ giữa Công giáo với Nhà nước, đồng thời tác động đến nhận thức của tín đồ về đời sống của họ trước các vấn đề xã hội. - Jacques Dournes, POTAO (Một lý thuyết về quyền lực ở Jorai Đông Dương) [32]. Đây là công trình nghiên cứu về sự vận hành của quyền lực giữa 9 những tộc người khác nhau ở khu vực Tây Nguyên. Người Gia Rai gọi những nhân vật có chức năng đặc biệt là Potao và chia thành: Potao lửa, Potao nước, Potao gió. Chức năng của các vị này là giữ mối quan hệ giữa xã hội loài người với các quyền năng vũ trụ được thể hiện trong ba yếu tố trên. Potao là những người đảm nhận mối quan hệ giữa những người Gia Rai và các thế lực (vũ trụ và chính trị) nối liền huyền thoại và lịch sử. Dù không đề cập đến ảnh hưởng của tôn giáo với phát triển tộc người, nhưng tác giả đã chỉ ra nét độc đáo trong nền văn hóa Gia Rai, đó là hệ thống chính trị - tôn giáo mà đỉnh cao là các Potao. Các dân tộc khác biết đến Gia Rai như là dân tộc của các Potao. Công trình này sẽ giúp luận án chú ý hơn đến tính chính trị - tôn giáo khi tiếp cận các nội dung nghiên cứu về Công giáo trong vùng dân tộc thiểu số. 1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án của các tác giả trong nước 1.1.2.1. Những nghiên cứu về tôn giáo và Công giáo liên quan đến đề tài - Bài: "Xu thế tôn giáo trên thế giới và tác động của chúng đối với các tôn giáo ở Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập quốc tế" của Lê Tâm Đắc [55]. Tác giả cho rằng trong xã hội hiện đại các tôn giáo nhanh chóng thâm nhập và tác động vào hầu khắp các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hình thành rõ khuynh hướng: dân tộc hóa tôn giáo, phong trào đòi ly khai, khủng bố liên quan đến tôn giáo, cá thể hóa tôn giáo... Tác động của toàn cầu cũng làm cho hệ thống tôn giáo trên thế giới trở nên đa dạng, địa - tôn giáo có sự thay đổi mạnh mẽ. Liên quan trực tiếp đến nội dung luận án, tác giả chỉ rõ: sự xuất hiện và phát triển của Hà Mòn và Canh Tân Đặc Sủng là những hiện tượng tôn giáo mới nội sinh xuất phát từ Công giáo. Cả hai loại này phát triển khá rộng ở khu vực Tây Nguyên thu hút nhiều tín đồ Công giáo người dân tộc thiểu số tin theo và gây bất ổn xã hội. Qua sự tác động này cho thấy, Công giáo ở Tây Nguyên đã mất đi một số tín đồ do chuyển sang theo Tin lành, Phật giáo và các "hiện tượng tôn giáo mới", nên Công giáo sẽ tích cực truyền giáo vào vùng dân tộc, củng cố và phát triển đức tin theo hướng bền vững. - Công trình: "Phát huy vai trò tôn giáo trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh - quốc phòng ở Tây Nguyên" của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [4]. 10 Bài viết cho thấy, trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số tín đồ các tôn giáo ở Tây Nguyên đoàn kết, gắn bó, sáng tạo trong lao động, đang góp phần bảo vệ và xây dựng, phát triển bền vững Tây Nguyên. Để phát huy vai trò của các tôn giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên, bài viết cũng chỉ rõ cần tiếp tục quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất cho các tôn giáo tham gia đóng góp vào đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc đa dạng hóa các loại hình văn hóa, xã hội còn để người dân có quyền lựa chọn, có điều kiện hưởng lợi. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật bảo đảm cho các tôn giáo sinh hoạt bình thường, cải cách thủ tục hành chính trong giải quyết các nhu cầu hợp pháp của tôn giáo để chức sắc, tín đồ yên tâm đóng góp cho công tác an sinh xã hội. Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập, cần nhìn nhận và phát huy những giá trị tích cực về đạo đức, văn hóa các tôn giáo. Thực hiện quyền bình đẳng tôn giáo để phát huy tinh thần đoàn kết, khoan dung, vai trò của các tôn giáo trong việc tham gia giải quyết những vấn đề chung của xã hội. - Công trình: "Tập tư liệu kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên 2001 - 2015" của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên [10]. Đây là tập tư liệu tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội Tây Nguyên phản ánh từ thực trạng dân số và lao động, tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư cũng như từng lĩnh vực cụ thể về: nông nghiệp - nông thôn, thương mại, vận tải, giáo dục và đào tạo, y tế và mức sống của dân cư nơi đây. Đặc biệt, tập tài liệu đưa ra một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 với các số liệu rất tin cậy phản ánh từng lĩnh vực cụ thể và có sự so sánh giữa các tỉnh trong khu vực trên các lĩnh vực. - Công trình: "Những nẻo đường Phúc âm hóa Công giáo ở Việt Nam" của Nguyễn Hồng Dương [44]. Cuốn sách tiếp cận vấn đề Công giáo dưới góc độ chính trị - xã hội phản ánh những chiều cạnh của Công giáo đối với dân tộc Việt Nam. Tác giả đã khai thác ý thức, trách nhiệm chính trị của người Công giáo với dân tộc qua những giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước. Liên quan đến đề tài luận án tác giả đã khai thác trách nhiệm chính trị của người Công giáo đối với việc tổ chức giáo xứ, giáo họ Công giáo trong vùng dân tộc thiểu số thuộc giáo phận Kon Tum, nhất là 3 dân tộc có tín đồ Công giáo đông nhất là Gia Rai, Ba Na và Xê Đăng. Tác giả cho rằng các làng/giáo họ Công giáo người Kinh thành 11 lập trong giai đoạn này có vai trò quan trọng là chỗ dựa cho các làng/giáo họ Công giáo người dân tộc thiểu số. Cùng với việc lập làng là việc đào tạo Giáo phu người dân tộc thiểu số hoạt động theo Hội các chú Giáo phu và Luật Chú Giáo phu phục vụ cho mục đích truyền giáo. Tác giả khai thác trách nhiệm chính trị của người Công giáo trong việc hội nhập văn hóa các dân tộc thiểu số. - Công trình: "Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam" của Ngô Hữu Thảo [136]. Tác giả đã hệ thống hóa và làm rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. Vận dụng những quan điểm đó vào thực tiễn công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Tác giả cho rằng hiện nay thế giới đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa và Việt Nam cũng nằm trong xu thế đó, vì thế công tác tôn giáo phải tiếp tục đặt ra nhiệm vụ mới. Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thì việc phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc là hết sức cần thiết. - Công trình: "Nhà nước tôn giáo và pháp luật" của Đỗ Quang Hưng [88]. Theo tác giả "Nhà nước - tôn giáo - luật pháp" có mối quan hệ mật thiết với nhau biểu hiện ở nhiều khía cạnh. Niềm tin tôn giáo hàm chứa cả những ngụ ý xã hội và đạo đức, vì thế các tín đồ luôn thể hiện niềm tin tôn giáo qua các hoạt động của công dân trong hệ thống chính trị. Tác giả đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội ở các phương diện: mối quan hệ giữa tôn giáo và thể chế xã hội, đưa ra các mô hình nhà nước thế tục, điểm mấu chốt giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội. Phân tích về chính sách tôn giáo ở Việt Nam, tác giả cho rằng Việt Nam theo mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về tôn giáo, trong đó vấn đề thể nhân và pháp nhân tôn giáo là vấn đề rất cần được tính đến trong luật pháp tôn giáo ở Việt Nam và là vấn đề pháp lý quan trọng bậc nhất hiện nay. Cũng theo tác giả, đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đã hội đủ những điều kiện để xuất hiện một "thị trường tôn giáo" tương đồng với nhiều nước trong khu vực. Sự thức tỉnh tôn giáo ở Việt Nam thể hiện rõ nét trong đời sống tinh thần, xã hội của cá nhân, cộng đồng. 12 - Công trình: "Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội - Trường hợp Việt Nam" của Đỗ Lan Hiền [66]. Về lịch sử hình thành tư tưởng khoan dung tác giả cho rằng ở phương Tây xuất hiện rất sớm trong các tôn giáo, tiêu biểu là giáo huấn của trong Công giáo (Kitô) "bỏ gươm vào vỏ, vì ai dùng gương sẽ chết vì gươm" [66, tr.12]. Quan niệm về khoan dung tôn giáo, tác giả cho rằng "phạm trù dùng để chỉ một thái độ, ứng xử tôn trọng, hòa hợp đối với cái khác biệt, khác lạ, thậm chí là đối lập lại với mình. Là sự chế ngự, xóa bỏ được thói loại trừ, khai trừ, kỳ thị, lo sợ cái khác lạ, cái khác mình, cái đối lập với mình. Khoan dung không phải là sự nhượng bộ, sự hạ mình hay nhận đặc ân, mà khoan dung còn là trách nhiệm, là sự duy trì mọi quyền con người" [66, tr.24]. Tác giả cho rằng Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sớm và sâu sắc tư tưởng của Nho, Phật, Đạo từ Trung Hoa và Ấn Độ, nên tinh thần khoan dung của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong đời sống tôn giáo (tam giáo đồng nguyên). Từ nghiên cứu về khoan dung cho thấy, người dân Việt Nam đã thể hiện rõ nét tính khoan dung trong ứng xử với Công giáo, một tôn giáo khá xa lạ, có lúc còn xung đột với truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng cũng được chấp nhận, tạo đồng thuận xã hội, đoàn kết tôn giáo để cùng phát triển. - Công trình: "Tôn giáo và văn hóa" của Đỗ Quang Hưng [84]. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa đối với trường hợp Công giáo tác giả cho rằng: những nỗ lực hội nhập văn hóa của người Công giáo Việt Nam hiện nay là đặt ra những vấn đề mới trong quan hệ với văn hóa dân tộc. Theo tác giả đây là xu hướng tiến bộ phù hợp với thời đại và với dân tộc tạo cầu nối văn hóa để người Công giáo thuận lợi hơn trong việc thực hiện đường hướng "sống phúc âm giữa lòng dân tộc". Chục năm trở lại đây đường hướng hội nhập văn hóa của người Công giáo đã thu được nhiều kết quả trên hai phương diện thần học và đời sống tôn giáo mà nổi bật là hội nhập văn hóa Công giáo vào nền văn hóa bản địa. - Công trình: "Giá trị di sản của đa dạng tôn giáo ở Việt Nam và những đóng góp đối với xã hội Việt Nam" [123]. Công trình gồm những bài viết từ hội thảo quốc tế cùng tên với sự tham gia của nhiều tác giả. Trong đó bài Sự hòa nhập của tôn giáo với văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên của tác giả H’Ngăm Niê K’dăm, tác giả đã chỉ ra sự phong 13 phú, đa dạng của đời sống văn hóa, tinh thần các dân tộc Tây Nguyên, nhất là kho tàng văn học dân gian, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số. Khi các tôn giáo truyền vào và phát triển ở Tây Nguyên đã không tránh khỏi những đụng chạm, những xung đột về văn hóa, nhưng về sau các tôn giáo đã thực hiện hội nhập văn hóa trong truyền giáo, tạo nên sự thích nghi hòa hợp giữa tôn giáo và tập tục truyền thống giữa các dân tộc. Đây là cơ sở để các tôn giáo ý thức và thực hiện việc gìn giữ văn hóa các dân tộc, vận dụng luật tục của đồng bào vào đời sống tôn giáo, làm cho tôn giáo tiệm cận hơn với văn hóa dân tộc, nhưng cũng là cơ sở để tôn giáo xác lập vị trí của mình một cách vững chắc ở khu vực này. - Công trình: "Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại" [122]. Công trình với sự tham gia của nhiều tác giả, trong đó bài Xây dựng hệ thống chính sách pháp luật nhằm phát huy nguồn lực - Sức mạnh mềm của các tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc của ThS. Nguyễn Văn Thanh và ThS. Hà Thị Xuyên, tác giả nhận định cần nhìn nhận vai trò của tôn giáo trong thời đại ngày nay dưới tác động của toàn cầu hóa, các tôn giáo sẽ khai thác cơ hội này, nhất là những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ để đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo và phát triển tín đồ; đồng thời xu thế này cũng làm cho các tôn giáo khó có thể giữ được tín đồ theo lối truyền thống, mà sự đổi đạo, cải đạo tiếp tục diễn ra giữa tín đồ các tôn giáo. Tôn giáo thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giao lưu quốc tế cũng như tham dự vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước bối cảnh đó đòi hỏi, Đảng, Nhà nước cần có những ứng xử phù hợp với tôn giáo và công tác tôn giáo để vừa quản lý, vừa phát huy được nguồn lực của tôn giáo trong phát triển xã hội. - Bài: "Thái độ của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam trong tiếp nhận và thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay" của Bùi Thanh Hà [62], theo tác giả, việc tiếp nhận pháp luật về tôn giáo của các tổ chức, cá nhân tôn giáo còn ở mức độ khác nhau. Bên cạnh đa số các tổ chức tôn giáo có nhận thức đúng đắn về chính sách, pháp luật của nhà nước; thực hiện các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, còn một bộ phận nhỏ chức sắc, nhà tu hành chưa hiểu rõ hoặc bị các phần tử xấu lợi dụng nên cố tình không hiểu hoặc xuyên 14 tạc các quy định pháp luật. Do đó, quản lý xã hội bằng pháp luật là phương thức quản lý cơ bản, tuy nhiên nếu chỉ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật chưa đủ, để pháp luật đi vào cuộc sống cần có phương pháp cách thức để thực hiện pháp luật. Đối với lĩnh vực tôn giáo, kết quả của việc thực hiện pháp luật sẽ là minh chứng thực tiễn tiếp nhận tích cực hay tiêu cực các quy định pháp luật. - Công trình: "Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo" của Nguyễn Hồng Dương [43]. Tác giả đã làm rõ quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo theo các vấn đề sau: quan điểm về bản chất tôn giáo, về tự do, tín ngưỡng tôn giáo, về đoàn kết tôn giáo trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, về chống lợi dụng tôn giáo và quan điểm về công tác vận động tôn giáo. Tác giả cũng đã phân tích sự biến động của từng tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật giáo sau giải phóng và trong giai đoạn đổi mới, để thấy được xu hướng vận động thích nghi của các tôn giáo trong từng giai đoạn cách mạng. Đây chính là cơ sở thực tiễn để Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục đổi mới trong nhận thức và hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp với một đất nước đa dạng tôn giáo như Việt Nam. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về tôn giáo và Công giáo trong phát triển bền vững nói chung và ở Tây Nguyên nói riêng - Công trình: "Vấn đề Tôn giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên" của Viện Nghiên cứu Tôn giáo [164]. Đề tài đã tiếp cận vấn đề tôn giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên trên 5 trụ cột chính là: kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và an ninh - quốc phòng. Đề tài đã đánh giá tác động của thực thể tôn giáo tới phát triển bền vững ở Tây Nguyên trên ba phương diện: niềm tin tôn giáo, các thực hành lễ nghi và việc tạo ra các cộng đồng tôn giáo khác nhau có ảnh hưởng, chi phối gì với phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Đề tài đã cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về ảnh hưởng tích cực của tôn giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên và đưa ra các nhóm giải pháp về tôn giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên. - Bài: "Tác động của tôn giáo đối với xã hội ở Tây Nguyên" của Chu Văn Tuấn [153]. Tác giả đã khái quát 5 đặc điểm nổi bật phản ánh xã hội Tây Nguyên qua các vấn đề: nghèo đói, bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo; tính phức tạp 15 và sự biến động lớn của các tộc người; biến động của tôn giáo, từ tín ngưỡng đa thần truyền thống đến việc các tôn giáo nhất thần truyền vào làm phá vỡ cấu trúc tôn giáo truyền thống, ảnh hưởng đến xã hội và an ninh khi bị các thế lực cực đoan lợi dụng; thiết chế xã hội truyền thống bị phá vỡ khi các tôn giáo truyền vào, cùng với đó là vai trò của già làng, trưởng buôn giảm, tính cộng đồng giảm; vấn đề đất đai là nguyên nhân gây mâu thuẫn phức tạp trong hoạt động tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên. Cùng với năm đặc điểm, tác giả trình bày khái lược tình hình tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay, trong đó nhấn mạnh đến các tôn giáo lớn là: Công giáo, Tin lành, Phật giáo, đồng thời làm rõ những tác động tích cực, tiêu cực của tôn giáo đối với xã hội Tây Nguyên trên các phương diện: xã hội, kinh tế, văn hóa. Đối với tác động tích cực, tác giả khẳng định: tôn giáo đã góp phần làm thay đổi tâm lý, phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số; tác động tới việc xóa đói, giảm nghèo đảm bảo an sinh xã hội cho người dân; góp phần thúc đẩy nâng cao dân trí khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hình thành nên những cộng đồng dân tộc tôn giáo mới, đan xen với những cộng đồng truyền thống tạo nên sự đa dạng tính cộng đồng của xã hội Tây Nguyên. Tác động tiêu cực đó là việc các tôn giáo truyền vào đã tạo nên những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, nhất là xung đột văn hóa dẫn đến phức tạp về an ninh chính trị khi tôn giáo bị các phần tử cực đoan lợi dụng vào mục đích chống phá Nhà nước. Theo tác giả, để phát triển bền vững Tây Nguyên thì một trong những lĩnh vực quan trọng là phải giữ được sự ổn định chính trị - xã hội, trong đó có vai trò của tôn giáo. - Bài: "Mối quan hệ giữa tôn giáo với kinh tế ở Tây Nguyên từ góc nhìn vốn xã hội trong đời sống xã hội" của Nguyễn Thị Minh Ngọc [121]. Tác giả đã tiếp cận vốn xã hội từ những khái niệm cơ bản của hai tác giả Cohen và Prusak "Vốn xã hội bao gồm toàn bộ những kết nối có tính chủ động của con người: sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau, các giá trị chung và các hành vi ứng xử nhằm liên kết con người và các cộng đồng, tạo ra sự hợp tác mong muốn". Theo tác giả vốn xã hội chính là con người, vấn đề cốt lõi của vốn xã hội là niềm tin. Với trường hợp các hệ phái Tin lành ở Mỹ, tác giả cho rằng những người di cư đầu tiên đến Mỹ chỉ có thể thông qua tôn giáo mới giữ được văn hóa truyền thống và hòa nhập 16 vào xã hội. Đạo đức và quan niệm giá trị, mối quan hệ xã hội, sự hợp tác và tín nhiệm giữa mọi người, sự trao đổi và giúp đỡ giữa các hội đoàn, sự kế thừa truyền thống văn hóa của người dân di cư đều được thực hiện thông qua mạng lưới tôn giáo và lấy tôn giáo làm hạt nhân. Trên cơ sở đó, tác giả đã luận giải vốn xã hội của tôn giáo tại Tây Nguyên và tác động của nó đến hoạt động kinh tế. Theo tác giả, vốn xã hội của tôn giáo là một lĩnh vực khẳng định vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo. Tôn giáo tham gia vốn xã hội nhờ quá trình hình thành niềm tin qua tương tác trong và ngoài cộng đồng tôn giáo. - Bài: "Tác động tôn giáo tới nhận thức và hành vi bảo vệ môi trường của tín đồ các tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay" của Ngô Quốc Đông [57]. Tác giả đã phân tích quan điểm của các tôn giáo về môi trường, trong đó đi sâu phân tích quan điểm của Công giáo về môi trường trên nền tảng Kinh thánh và các văn kiện của Giáo hội. Với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã dẫn đến những phát triển nhanh nhưng thiếu bền vững làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và nhiều tác nhân khác, nên Giáo hội đã có những quan điểm nhìn nhận lại ứng xử của con người với môi trường theo các quan điểm: Giáo hội không chống lại khoa học, nhưng con người cần có trách nhiệm với thiên nhiên; thiên nhiên là "quà tặng" của Thiên Chúa ban cho con người nên không vì động cơ cá nhân mà khai thác cạn kiệt theo ý chủ quan của con người, nên bảo vệ môi trường trước tiên phải điều chỉnh từ chính hành vi con người. Như vậy, quan điểm về môi trường của Công giáo là quy hướng về Thiên Chúa, sự phá hoại thiên nhiên là trái với ý định Thiên Chúa. Điểm chung giữa quan niệm của các tôn giáo về môi trường là lấy con người làm trung tâm để xem xét. Bảo vệ môi trường phải bắt đầu bằng việc giáo dục con người qua các nguyên tắc luân lý của từng tôn giáo. - Bài: "Quan niệm về bảo vệ môi trường của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay" của Nguyễn Thị Quê Hương [89]. Tác giả cho rằng đồng bào dân tộc thiểu số có đời sống tinh thần tâm linh mang tính đặc thù, phụ thuộc vào đức tin của từng loại hình tín ngưỡng mà họ tôn thờ. Việc bảo vệ rừng, nguồn nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nội dung quan trọng được quy định cụ thể trong luật tục của một số dân tộc. Vùng Tây Nguyên
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan