Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ảnh hưởng của chế phẩm basfoliar-k đến một số chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh giống ớ...

Tài liệu Ảnh hưởng của chế phẩm basfoliar-k đến một số chỉ tiêu sinh lí, hóa sinh giống ớt f1 np 907

.PDF
58
334
139

Mô tả:

1 PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Cây ớt (Capsicum sp) thuộc chi Capsicum, họ cà (Solanaceae). Có hai nhóm ớt phổ biến là ớt cay (Capsicum frutescens L.) và ớt ngọt (Capsicum annuum L.). Trong số các cây trồng thuộc họ cà (Solanaceae), cây ớt có tầm quan trọng thứ hai chỉ sau cây cà chua. Ngày nay ớt được trồng rộng rãi trên toàn thế giới từ 55 vĩ độ bắc đến 55 vĩ độ nam, đặc biệt ở các nước châu Mỹ và một số nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Việt Nam, Malaysia [62]. Hiện nay có khoảng 50 giống ớt khác nhau có tên gọi rất khác nhau tuỳ hình dạng hay đặc tính, như ớt sừng trâu, ớt cựa gà, ớt cà, ớt Chỉ thiên, ớt hiểm, ớt ngọt. Theo Bosland và Votava (2003) quả ớt có nhiều lợi thế trong việc nấu nướng, trong quả ớt chứa nhiều chất hoá học bao gồm chất dầu dễ bay hơi, dầu béo, capsaicinoit, carotenoit, vitamin, protein, chất sợi và các nguyên tố khoáng chất. Nhiều thành phần trong quả ớt có giá trị dinh dưỡng quan trọng, làm gia vị, mùi thơm và màu sắc [56], [57]. Quả ớt giúp làm giảm nhiễm xạ và cholesterol, giàu vitamin A và C, nhiều kali, axit folic và vitamin E. Trong quả ớt tươi có chứa nhiều vitamin C hơn so với quả thuộc họ cây có múi và chứa nhiều vitamin A hơn so với củ cà rốt. Hai nhóm chất hoá học quan trọng trong ớt là capsaicinoit và carotenoit [60]. Capsaicinoit là alkaloit tạo ra vị cay cho quả ớt. Một số lượng lớn carotenoit cung cấp giá trị dinh dưỡng cao và màu sắc cho quả ớt .[26] Ở Việt Nam diện tích trồng ớt cay ở các vùng ớt tập trung vào khoảng 3000 ha, năm cao nhất (1998) lên tới 5700ha. Vùng trồng ớt chuyên canh tập trung chủ yếu ở khu vực miền trung: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Sản phẩm ớt bột hiện đứng vị trí thứ nhất trong mặt hàng rau - gia vị xuất khẩu. Ớt là cây dễ trồng, không kén đất, thích hợp với nhiều vùng sinh thái do vậy tiềm năng phát triển cây ớt ở nước ta rất to lớn. Khác với các loại rau 2 khác, quả ớt có thể thu hoạch nhiều lần, sơ chế hay chế biến đơn giản (phơi khô, bột, tương ), với đặc điểm này cây ớt khắc phục được tính rủi ro của thị trường, giữ giá cả ổn định, đảm bảo được lợi ích cho người sản xuất. Do giá trị to lớn mà cây ớt mang lại, hiện nay diện tích trồng ớt không những ở phía Nam mà đã được mở rộng ra các tỉnh thuộc khu vực phía Bắc [66], [67]. Ở thực vật rễ là cơ quan hút nước và khoáng chính của cây. Ngoài ra chúng còn có khả năng hấp thụ một số chất từ thân, lá. Chính vì vậy, trong sản xuất con người đã sử dụng một số chế phẩm như phân khoáng, các chất kích thích sinh trưởng phun lên lá nhằm bổ nâng bổ sung một số chất cần thiết cho cây trồng gọi chung là phân bón qua lá. Dùng phân bón qua lá có nhiều ưu điểm: chất dinh dưỡng được cung cấp nhanh hơn bón gốc, hiệu xuất sử dụng phân bón cao hơn, chi phí thấp, ít ảnh hưởng đến môi trường và làm tăng nhanh các quá trình sinh lí trong cây [48]. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá đến các loại cây trồng khác nhau như lúa, lạc, ớt, đậu tương, khoai tây v.v [16],[22],[61],[62],[63]. Các công trình đó cho thấy, sử dụng phân bón lá làm tăng năng suất và chất lượng nông sản. Do lợi ích của phân bón qua lá đã được khẳng định, nên hiện nay trên thị trường đã bán rất nhiều các chế phẩm dùng phun lên lá như: Phân bón lá cao cấp Đầu Trâu; chế phẩm kích thích ra lá Atonik 1,8 DD; chế phẩm kích thích ra hoa Basfoliar-K v.v. Các chế phẩm này được sử dụng trên nhiều các đối tượng khác nhau [9]. Tuy nhiên, không phải tất cả các cây trồng đều có phản ứng như nhau và cũng sử dụng với liều lượng như nhau. Dùng phân bón lá như thế nào để có hiệu quả cao nhất, đồng thời không ảnh hưởng đến chất lượng nông sản nói chung còn ít các tài liệu bàn đến. Chế phẩm kích thích ra hoa Basfoliar-K hiện đang được bán rộng rãi ở các cửa hàng vật tư nông nghiệp, giống cây trồng trong tỉnh Vĩnh Phúc nói chung và Thị xã Phúc Yên nói riêng cho người nông dân sử dụng để phun 3 kích thích đậu quả cho nhiều loại cây trồng khác nhau trong đó có cây ớt. Tuy nhiên, hiệu lực của loại chế phẩm này đối với cây trồng lại rất ít tài liệu bàn đến. Chính vì lí do đó chúng tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của chế phẩm Basfoliar –K đến một số chỉ tiêu sinh lí, hoá sinh giống ớt F1 NP 907 ” nhằm khẳng định hiệu quả của loại chế phẩm này đối với một số chỉ tiêu sinh lí cũng như năng suất, phẩm chất ớt làm cơ sở khuyến cáo cho người sản xuất. 2. Mục đích nghiên cứu Đánh giá hiệu lực của chế phẩm kích thích ra hoa Basfoliar-K đến khả năng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất quả của giống ớt cay F1 NP 907 hiện đang được người nông dân trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đã khuyến cáo cách dùng sản phẩm này cho người nông dân. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Chúng tôi tiến hành trồng giống ớt F1 NP 907 và chia làm 2 lô: Lô đối chứng (không phun Basfoliar-K) và lô thí nghiệm (phun Basfoliar-K) phun lần 1 vào giai đoạn cây có hoa (50% cây có hoa). Phun 2 lần cách lần một là 10 ngày khi cây ra hoa rộ và hình thành quả. Cách bố trí thí nghiệm theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, chế độ chăm sóc đảm bảo sự đồng đều giữa các công thức. Tiến hành đánh giá hiệu lực của chế phẩm Basfoliar-K đến các chỉ tiêu: 3.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng phát triển: Chiều cao cây, đường kính thân cây; khả năng phân cành và nhánh/cây. 3.2. Chỉ tiêu quang hợp: Hàm lượng diệp lục, chỉ số diện tích lá, cường độ quang hợp (khả năng tích lũy sinh khối của cây); huỳnh quang diệp lục. 3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất: số quả/cây; khối lượng quả/cây và năng suất thực thu trên mỗi ô thí nghiệm. 3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng phun chế phẩm Basfoliar-K đến một số chỉ tiêu phẩm chất quả như: hàm lượng axit ascorbic (vitamin C), đường khử, và β caroten (Vitamin A). 4 3.5. Đánh giá hiệu quả sử dụng chế phẩm kích thích sinh trưởng ra hoa đến cây ớt để khuyến cáo cho người sản suất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng thực vật là giống ớt cay F1 NP 907 hiện đang được trồng phổ biến ở khu vực Vĩnh Phúc. Chế phẩm Basfoliar-K - Thành phần: N 10% K2 O 35% MgO 5% Zn 3% Basfoliar K (Bas bột) - Nhà phân phối: công ty BM (BEHN MEYER) CHLB Đức - Mô tả: là một loại phân bón lá có khản năng tan rất tốt trong nước, nên giúp cây trồng hấp thu tối đa các chất dinh dưỡng. Thích hợp cho cây ăn trái, cây rau màu và cây công nghiệp. Có tác dụng kích thích ra nhiều hoa to, mập và ra hoa trái vụ, tăng sức sống của hạt phấn, tăng khả năng đậu trái, tăng sức đề kháng của cây trổng với sâu bệnh, làm dài cuống quả, chống rụng quả non, giúp quả lớn nhanh, mã đẹp và rắn. - Liều lượng sử dụng: 1 gói 15g pha với 10-12 lit nước - Các máy móc và hóa chất phục vụ cho nghiên cứu như: Máy quét lá, máy đo hàm lượng diệp lục tổng số máy SPAD -502, do Nhật Bản sản xuất, máy đo huỳnh quang diệp lục máy chlorophyll fluorometer OS-30 do hãng ADC-Anh cung cấp v.v. Hóa chất gồm: H2O2; H2SO4; KMnO4; HCl; axit Ascorbic v.v. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu tiến hành từ ngày 10 tháng 07 năm 2012 đến ngày 30 tháng 05 năm 2013. - Nghiên cứu ảnh hưởng của phun Basfoliar-K lên lá đến các chỉ tiêu sinh lý, năng suất và phẩm chất giống ớt F1 NP 907 đang được trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc. 5 - Phân tích các chỉ tiêu nghiên cứu tại phòng thí nghiệm Sinh lí thực vật của khoa Sinh - KTNN trường ĐHSP Hà Nội 2, Trung tâm hỗ trợ NCKH & chuyển giao công nghệ và ngoài đồng ruộng. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung các tài liệu nghiên cứu ảnh hưởng của các chế phẩm kích thích ra hoa Basfoliar-K đến sinh trưởng, năng suất và phẩm chất quả đối với quả ớt. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khẳng định chế phẩm Basfoliar-K có phù hợp với cây trồng cụ thể là cây ớt hay không. Nếu thực sự chúng có vai trò làm tăng khả năng sinh trưởng và năng suất, phẩm chất thì khuyến cáo để người nông dân sử dụng và ngược lại. 6 PHẦN II. NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1.Giới thiệu về cây ớt Ớt là một loại quả gia vị và làm rau (ớt ngọt), quả ớt được sử dụng dưới dạng ăn tươi, muối, nước ép, nước sốt, tương, chiết xuất dầu và sấy khô hoặc làm bột và được trồng phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Cây ớt trồng trong chậu có thể làm cây cảnh vì quả ớt có nhiều màu sắc: trắng, đ , vàng, cam, xanh, tím tùy theo giống. Quả ớt dùng làm gia vị giàu vitamin A, vitamin C, hai loại vitamin này trong quả ớt gấp 5 – 10 lần trong cà chua và cà rốt [61]. Theo Đông y, ớt có vị cay, nóng, và ớt có tác dụng tán hàn, tiêu thực, giảm đau, Theo Tây y, ớt có rất nhiều ích lợi cho sức kh e. Chất capsicain (C18H27NO3) trong ớt kích thích não bộ sản xuất ra chất endorphin, một morphin có tác dụng giảm đau, đặc biệt có ích cho người bị viêm khớp mãn tính và ung thư. Ớt cũng giúp ngăn ngừa bệnh tim nhờ một số hoạt chất giúp máu lưu thông tốt, tránh tình trạng đông đặc tiểu cầu. Ngoài ra, ớt còn giúp ngăn ngừa tình trạng huyết áp tăng cao [31]. Theo y học cổ truyền, ớt có vị cay, nóng, có tác dụng khoan trung, tán hàn, kiện tỳ, tiêu thực, chỉ thống (giảm đau), kháng nham (chữa ung thư...). Do vậy ớt thường được dùng để chữa đau bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau khớp, dùng ngoài chữa rắn rết cắn. Nghiên cứu của y học hiện đại cũng thống nhất với y học cổ truyền về tác dụng chữa bệnh của ớt. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc cho thấy quả ớt có rất nhiều ích lợi cho sức kh e. Trong ớt có chứa một số hoạt chất: capsicain là một alkaloid chiếm tỷ lệ khoảng 0,05-2%, được xác định là acid isodexenic vanilylamit, có đặc điểm bốc hơi ở nhiệt độ cao, gây hắt hơi mạnh. Ngoài ra còn có capsicain, là hoạt chất gây đ , nóng, chỉ xuất hiện khi quả ớt chín, chiếm tỷ lệ từ 0,01-0,1%. Capsicain có tác dụng kích thích não bộ sản xuất ra chất endorphin, một chất morphin nội sinh, có đặc 7 tính như những thuốc giảm đau, đặc biệt có ích cho những bệnh nhân bị viêm khớp mạn tính [26],[61]. 1.2.Đặc điểm sinh thái cây ớt [1],[2],[64],[65],[4], [7] * Thời vụ Ớt được trồng quanh năm, tuy nhiên trong sản xuất thường canh tác ớt vào các thời vụ sau: - Vụ sớm: Gieo tháng 8-9, trồng tháng 9-10, bắt đầu thu hoạch tháng 12 và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Vụ này ớt trồng trên đất bờ liếp cao không ngập nước vào mùa mưa. Ớt trồng mùa mưa đỡ công tưới, thu hoạch trong mùa khô dễ bảo quản, chế biến và thời gian thu hoạch dài, tuy nhiên diện tích canh tác vụ này không nhiều. - Vụ chính (Đông Xuân): Gieo tháng 10-11, trồng tháng 11-12, bắt đầu thu hoạch tháng 2-3 năm sau. Trong vụ này cây sinh trưởng tốt, năng suất cao, ít sâu bệnh. - Vụ Hè Thu: Gieo tháng 4-5 trồng tháng 5-6 thu hoạch 8-9 dương dịch. Mùa này cần trồng trên đất thoát nước tốt để tránh úng ngập và chọn giống kháng bệnh thán thư. * Chuẩn bị cây con Lượng hạt giống gieo đủ cấy cho 1.000m2 từ 15-25 gram (150-160 hạt/g). Diện tích gieo ươm cây con là 25 m2. Chọn đất cao ráo hay làm giàn cách mặt đất 0,5-1 m, lót phên tre hay lá chuối rồi đổ lên trên một lớp đất, phân, tro dày 5-10 cm rồi gieo hạt. Cách này dễ chăm sóc cây con và ngăn ngừa côn trùng hoặc gia súc phá hại. Cũng có thể gieo hạt thẳng vào bầu hay gieo theo hàng trên liếp ươm. Hạt ớt thường nẩy mầm chậm, sau 8 -10 ngày sau khi gieo mới mọc kh i đất, cây con cấy vào lúc 30- 35 ngày tuổi, có sử dụng màng phủ cây con nên cấy sớm lúc 20 ngày tuổi. * Cách trồng 8 Đất trồng ớt phải được luân canh triệt để với cà chua, thuốc lá và cà tím. Trồng mùa mưa cần lên liếp cao vì ớt chịu úng kém. Khoảng cách trồng thay đổi tùy thời gian dự định thu hoạch trái, nếu ăn trái nhanh (4-5 tháng sau khi trồng) nên trồng dày, khoảng cách trồng 70 x (45-50) cm, mật độ 2347 - 2381 cây/1.000m2; nếu muốn thu hoạch lâu nên trồng thưa, 80 x (50-60) cm, mật độ 2.000-2.500 cây/1.000m2. * Bón phân Tùy theo loại đất, mức phân bón trung bình toàn vụ cho 1.000m2 như sau: 20 kg Urea + 50 kg Super lân + 20 kg Clorua kali + 12 kg Calcium nitrat + (50-70) kg 16-16-8 + 1 tấn chuồng hoai + 100 kg vôi bột, tương đương với lượng phân nguyên chất (185-210N) - (150-180P2O5) - (160-180K2O) kg/ha. Bón lót Lượng bón 50 kg super lân, 3 kg Clorua kali, 2 kg Calcium nitrat, 10-15 kg 16 – 16 - 8, 1 tấn phân chuồng và 100 kg vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng hoai, lân rãi trên toàn bộ mặt liếp xới trộn đều. Bón thúc Lần 1: 20-25 ngày sau khi cấy (giống thấp cây) và 20 ngày sau khi cấy (giống cao cây). Số lượng 4 kg Urê, 3 kg Clorua kali, 10 kg 16-16-8 + 2 kg Calcium nitrat. Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hoặc đục lỗ màng phủ giữa 2 gốc cây. Lần 2: 55-60 ngày sau khi cấy, khi đã đậu trái đều. Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 2 kg Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc b phân vào lỗ giữa 2 gốc cây Lần 3: Khi cây 80-85 ngày sau khi cấy, bắt đầu thu trái. 9 Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc b phân vào lỗ giữa 2 gốc cây Lần 4: Khi cây 100-110 ngày sau khi cấy, thúc thu hoạch rộ (đối với ớt sừng dài ngày). Lượng bón: 4 kg Urê, 4 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân hoặc b phân vào lỗ giữa 2 gốc cây. Chú ý: Ớt thường bị thối đuôi trái do thiếu canxi, do đó mặc dù đất được bón vôi đầy đủ trước khi trồng hoặc bón đủ Calcium nitrat nhưng cũng nên chú ý phun bổ sung phân Clorua canxi (CaCl2) định kỳ 7-10 ngày/lần vào lúc trái đang phát triển để ngừa bệnh thối đuôi trái.. Nếu không dùng màng phủ, nên chia nhỏ lượng phân hơn và bón nhiều lần để hạn chế mất phân. Nhằm góp phần tăng năng suất và phẩm chất trái, nhất là trong mùa mưa có thể dùng phân bón lá vi lượng như MasterGrow, Risopla II và IV, Miracle,... Bayfolan, Miracle... phun định kỳ 7-10 ngày/lần từ khi cấy đến 10 ngày trước khi thu hoạch. * Chăm sóc: Tưới nước: Ớt cần nhiều nước nhất lúc ra hoa rộ và phát triển trái mạnh. Giai đoạn này thiếu nước hoặc quá ẩm đều dẫn đến đậu trái ít. Nếu khô hạn kéo dài thì tưới rảnh (tưới thấm) là phương pháp tốt nhất, khoảng 3-5 ngày tưới/lần. Tưới thấm vào rãnh tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt, không để nước ứ đọng lâu. 10 Tỉa nhánh: Thông thường các cành nhánh dưới điểm phân cành đều được tỉa b cho gốc thông thoáng. Các lá dưới cũng tỉa b để ớt phân tán rộng Làm giàn: Giàn giữ cho cây đứng vững, để cành lá và trái không chạm đất, hạn chế thiệt hại do sâu đục trái và bệnh thối trái làm thiệt hại năng suất, giúp kéo dài thời gian thu trái. Giàn được làm bằng cách cắm trụ cứng xung quanh hàng ớt dùng dây chì giăng xung quanh và giăng lưới bên trong hoặc cột dây nilong lúc cây chuẩn bị trổ hoa. * Phòng trị sâu bệnh Một số sâu, bệnh thường gặp: Bọ trĩ, bọ phấn trắng, sâu xanh đục trái, sâu ăn tạp, bệnh thán thư Để phòng trừ hiệu quả cần thực hiện một số biện pháp sau: cày ải sớm để tiêu diệt nguồn dịch hại trong đất, thu hoạch ớt đúng thời vụ tránh để quả quá lâu, nhất là khi trời mưa, ớt đến giai đoạn thu hoạch, vệ sinh đồng ruộng, không vứt quả, cây bệnh trên ruộng. * Thu hoạch: Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh, bình thường cách 1-2 ngày thu 1 lần. Nếu chăm sóc tốt thời gian thu hoạch có thể kéo dài hơn 3 tháng 1.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ớt trên thế giới Cây ớt được trồng ở hầu hết các nước trên thế giới, năm 2006 diện tích trồng ớt trên thế giới là 3.708.099 ha và sản lượng ớt tươi 25.866.864 tấn. Trung Quốc là nước đứng đẩu thế giới về diện tích và sản lượng ớt tươi. Năm 2006 diện tích ớt tươi của nước này chiếm 36% và sản lượng ớt tươi chiếm 50,4% của toàn thế giới (bảng 1.1) 11 Bảng 1.1. Diện tích và sản lượng cây ớt của một số nước châu Á năm 2006 Nước Ớt tươi Diện tích (ha) 1.726.038 632.800 Ớt khô, ớt bột Sản lượng Diện tích Sản lượng Nước (tấn) (ha) (tấn) 25.866.864 Thế giới 1.982.061 2.747.003 13.031.000 Ấn độ 954.717 1.193.025 Thế giới Trung Quốc Inđônêxi 173.817 871.080 Băngladesh a Thổ Nhĩ 88.000 1.842.175 Việt Nam Kỳ Hàn 67.032 395.293 Trung Quốc Quốc Nguồn FAO, 2007. [27] 154.812 185.635 50.793 81,007 38.000 245.000 Ấn Độ là nước có tập quán trồng ớt từ lâu đời, là nước đứng đầu thế giới về diện tích và sản lượng ớt khô, năm 2006 diện tích ớt khô của Ấn Độ chiếm 48,2 % và chiếm 43,4 % sản lượng ớt khô toàn thế giới. Năm 2008, diện tích trồng ớt khô nước này là 805.000 ha, sản lượng ớt khô Ấn Độ năm 2008 ở mức 1.297.000 tấn và năm 2009 đạt 1.167.000 tấn . Trong khẩu phần ăn hằng ngày của người dân Hàn Quốc, ớt là thành phần không thể thiếu. Ước tính trung bình 1 người dân Hàn Quốc tiêu thụ 3,8 kg ớt/năm. Ớt là loại rau chủ lực ở nước này: Diện tích trồng ớt tươi của Hàn Quốc đứng thứ 8 trong tốp 10 nước đứng đầu về diện tích trồng trọt. Năm 2006 sản lượng ớt tươi Hàn Quốc đạt 395,295 tấn, ớt khô là 116,915 tấn, năng suất ớt xanh của nước này rất cao đạt được 42,11 tấn/ha. [27] Mỹ là nước thu được lợi nhuận từ ớt cao nhất trên thế giới cả về giá trị nhập khẩu và giá trị xuất khẩu, năm 2008 giá trị nhập khẩu ớt của Mỹ chiếm khoảng 24% so với giá trị nhập khẩu toàn thế giới. Hàn Quốc là nước có thế mạnh về xuất khẩu ớt trong số các nước Châu Á, giá trị xuất khẩu ớt của Hàn Quốc cao gấp 5-6 lần so với Trung Quốc. 12 1.4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ớt ở Việt Nam Ở nước ta, ớt là một loại gia vị rất phổ biến, ở nông thôn trong vườn gia đình người ta thường trồng một vài cây ớt vừa dùng trong bữa ăn hàng ngày, vừa để làm cảnh. Ngoài lượng ớt trồng để sử dụng trong nước, hàng năm nước ta cũng xuất khẩu hàng trăm tấn ớt được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như: Nhật Bản, Hồng Kông, Singapo. Đặc biệt ớt bột được xuất khẩu sang các nước Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc, Hunggari v.v. Theo xếp hạng của FAO, 2006 Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về diện tích trồng và chế biến ớt khô, ớt bột và đứng thứ 7 về sản lượng. [27] Theo số liệu thống kê (Tổng cục thống kê, 2009): năm 2008 diện tích trồng ớt của nước ta là 6.532 ha, sản lượng là 62.993 tấn, tăng 37% về diện tích và 35% về sản lượng so với năm 2007. Năng suất trung bình là 9,6 tấn/ha năm 2008 đạt ở mức thấp so với năng suất trung bình của toàn thế giới 14,5 tấn/ha 1.5. Khái quát một số chế phẩm phun lên lá. 1.5.1. Khái quát. Bón phân lá là biện pháp phun một hay nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng lên các phần ở phía trên mặt đất của cây (lá, cuống, hoa, trái). Do được lá cây hấp thu nhanh nên phân bón lá đáp ứng nhanh và kịp thời nhu cầu dinh dưỡng của cây, giúp cây chóng hồi phục khi bị sâu bệnh, bão lụt hoặc đất thiếu dinh dưỡng [10], [12], [24]. 1.5.2. Chất điều hoà sinh trưởng. [14], [28], [69]. Chất điều hòa sinh trưởng thực vật (plant growth regulator - PGR) là các hợp chất hữu cơ, một số là chất dinh dưỡng giúp làm thay đổi các quá trình sinh lý diễn ra trong cây. PGR được gọi là các chất kích thích sinh học hoặc chất ức chế sinh học hoạt động ở bên trong tế bào để kích thích hoặc ức chế hoạt động của các enzym đặc hiệu hoặc hệ thống các enzym giúp điều hòa 13 trao đổi chất ở thực vật [46], [47]. Chúng thường hoạt động với nồng độ rất thấp trong cơ thể thực vật. Các nhà sản xuất tạo ra các chất điều hòa sinh trưởng thực vật thương mại nhằm tăng năng suất cây trên một đơn vị diện tích, tuy nhiên có một số vấn đề gặp phải khi lựa chọn chất này về vấn đề hiệu quả của chúng đối với từng loại cây trồng, do đó cần có thông tin về tính hiệu quả để phổ biến phạm vi sử dụng một cách rộng rãi [44], [45]. Ngày nay, các chất điều hòa sinh trưởng thực vật tổng hợp được ứng dụng trong nông nghiệp ngày càng phổ biến với rất nhiều mục đích. Có thể nêu lên một số mục đích chính thường được ứng dụng như kích thích ra rễ (các loại auxin: NAA, IBA, IAA), kích thích đậu trái (GA3), chín trái (Ethylen) [40]... 1.5.3. Một số chế phẩm dùng phun trên lá đối với cây trồng. Chế phẩm Pix (mepiquat chloride) là một chất điều hòa sinh trưởng thực vật được sử dụng rộng rãi giúp làm tăng năng suất ở cây bông những không làm ảnh hưởng đến chất lượng sợi [39]. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho rằng hợp chất này làm giảm năng suất cây bông [51]. Các chất điều hòa sinh trưởng thực vật như Atonik, Recine và Cytozmye làm tăng năng suất cây bông [52]. Theo tác giả Abro và cộng sự (2004) [16] thông báo rằng naphthalene làm chậm quá trình thành thục và tăng chiều cao, số chồi và năng suất ở cây bông. Các chế phẩm điều hòa sinh trưởng theo các công thức khác nhau tùy vào nhà sản xuất và đối tượng cây trồng. Tuy nhiên có thể tóm tắt theo hướng ứng dụng các chế phẩm phun lên lá đang bày bán trên thị trường theo các hướng sau: - Hướng kích thích sinh trưởng, kích thích ra lá có các sản phẩm như phân bón lá cao cấp Đầu Trâu 502 – NPK 30 – 12 – 10 (Khối lượng tịnh: 10g) [71]. 14 Phân bón lá Atonik 1.8DD dùng trên đối tượng cây lúa, rau màu, hoa (Khối lượng tịnh: 10g) [68 ]. - Hướng kích thích đậu quả, sinh trưởng quả như phân bón lá cao cấp Pisomix Y95: (Khối lượng tịnh 10g), Chế phẩm Basfoliar-K: (Khối lượng tịnh 15g) [58] kích thích ra hoa sớm, tăng tỷ lệ ra hoa kết trái, chống rụng trái non. Trái to, bóng, chín đồng loạt - Hướng sử dụng chất điều hòa sinh trưởng cũng rất phong phú về thành phần và ứng dụng như: Thuốc Kích thích ra hoa: 5-Nitroguaiacolate [70] là loại hoạt tính tăng tỷ lệ sống của tế bào, điều tiết sự sinh trưởng, có tác dụng thẩm thấu cực mạnh, nó có thể dẫn truyền vào thân thực vật với tốc độ nhanh, kích thích tính lưu động chất nguyên sinh của tế bào, tăng nhanh tốc độ nảy mầm sinh rễ của thực vật, kích thích sự sinh trưởng, sinh sản, trợ giúp thụ phấn hiệu quả [42]. 1.5.4. Các kết quả nghiên cứu phun các chế phẩm lên lá của các tác giả trong và ngoài nước. * Trên Thế giới Nghiên cứu trên đối tượng cây nho, tác giả Mishra và cộng sự (1972) [50] thông báo rằng khi sử dụng GA3 với nồng độ 5ppm làm tăng chiều dài thân leo. Nồng độ GA3 5, 10, 15ppm và nồng độ NAA 25, 50 và 75ppm ở giai đoạn 4 và 6 lá thật làm tăng chiều dài thân của cây nho. Tác giả Sidhu và công sự (1982) [55] sử dụng CCC nồng độ 100ppm và ethrel 250ppm phun có tác dụng kéo dài chồi chính của cây dưa. Theo tác giả Mangal và cộng sự (1981) [49] khi sử dụng CCC nồng độ 250ppm làm tăng rõ rệt về chiều cao cây so với sử dụng CCC nồng độ 500ppm ở cây mướp đắng. Tương tự, khi sử dụng GA3 nồng độ 25ppm và NAA nồng độ 50ppm kích thích sự kéo dài của nho và bầu bí . Theo Morgan và cộng sự (1976) lá cây thiếu Mn thì hàm lượng auxin (IAA) trong mô giảm mạnh, điều đó chứng t ảnh hưởng của Mn đến hoạt 15 tính enzim IAA – oxydase. Các kết quả nghiên cứu của Shaked và Akiva (1967) khi bổ sung Mo với nồng độ từ 0,001 lên 0,01 mg/lít làm tăng khả năng tích lũy sinh khối khô của lá cải xanh từ 12,3 gam sinh khối khô/cây lên 20 gam sinh khối khô/cây và ổn định khả năng này trong thời gian dài. Reuter và CS (1981) nếu thiếu Cu, hoạt tính của enzim phenolaza giảm gây ảnh hưởng đến ra hoa và rụng hoa... (Trích theo Nguyễn Văn Đính [8].) Theo tác giả Das và Swain (1977) [36] cho rằng nitơ và chất điều hòa sinh trưởng làm tăng số lá cũng như diện tích lá của cây bí ngô khi dùng dung dịch platnofix (100ppm), ethrel (200ppm) và alar (200ppm) ở giai đoạn 10 ngày và 20 ngày sau trồng. Trong khi đó tác giả Singh và cộng sự (1991) [58] sử dụng hợp chất mixtalol (30ml/10lit) phun qua lá là tăng số lá trên cây bottlegourd. Khi sử dụng GA3 để tẩm ướt hạt trong 12 giờ sẽ làm tăng số lá trên cây ở muskmelon [53]. Theo Crugman (1973) ở nước Mỹ, để giảm thiểu sự rụng các nón ở cây thông loài Attenuata, đã sử dụng các chất điều hòa sinh trưởng thuộc nhóm auxin. Kết quả tốt nhất thu được khi sử lý 2,4D, NNA, IBA (axit-3-indol butyric) với nồng độ 6-10%. Khi xử lý các hợp chất đó (các chất điều hòa sinh trưởng được trộn với bột đá hoặc với phấn hoa không còn sống và phun lên lá thông) đã gia tăng đáng kể số lượng các quả (nón) thông chín (từ 10-40%). Trong công thức đối chứng, không xử lý auxin, tất cả các nón thông đều rụng [14]. Kết quả nghiên cứu của Kulaeva O.H (1981) Có thể sử dụng các hợp chất nhóm xytokinin trong việc ngắt thời kỳ ngủ của chồi và hạt một số cây gỗ. Xytokinin tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt do bảo quản lâu ở một số giống cây trồng [14]. Theo Licholat (1981) [41]. Đối với các loại hạt, có thể sử dụng Xytokinin để làm chậm quá trinh già của hạt lúa mỳ, lúa. 16 Theo jakuskina (1980) có thể dùng AIA nồng độ (50mg/l) để tăng sự ra rễ phụ ở cành giâm. Xử lý đầu dưới của cành giâm trong AIA làm tăng hô hấp, tăng dòng dẫn các chất dinh dưỡng và kích thích quá trình tạo rễ. [14] Từ năm 1997 – 1999 các nhà khoa học Washington tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của việc bón KCl và K2SO4 lên lá cho cây khoai tây trên bình nguyên Colombia cho thấy phun KCl và K2SO4 làm tăng năng suất củ nhưng không làm tăng kích thước củ rõ rệt (Trích theo Nguyễn Văn Đính [8].) *Ở Việt Nam Bùi Bá Bồng và Nguyễn Văn Bộ, (2005) [5], cho biết: chế phẩm phân bón qua lá đã làm tăng chất lượng nông sản: giảm hàm lượng NO 3 trong dưa chuột 28 – 35%, trong cải xanh 20 – 35%, trong bắp cải 25 – 70%. Phun phân bón qua lá TP -108 cho cà chua làm tăng tỷ lệ tinh bột lên 29%, hàm lượng muối khoáng lên 17,6%, vitamin C lên 11,1%, hàm lượng đường lên 23%. Phun HVP cho trái Thanh long làm thời gian lưu giữ trái kéo dài thêm 10 – 12 ngày so với đối chứng. Sử dụng chế phẩm bón lá HVP 401 – N là tăng độ Bric của trái quýt Tiểu 3,7%... Theo Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Như Khanh (2005) các kết quả nghiên cứu cho thấy: Phun bổ sung KCl (2g/l) lên lá có tác dụng làm tăng cường độ quang hợp, tăng hàm lượng diệp lục, tăng số củ/khóm, khối lượng củ/khóm và tăng năng suất 113,77% ở giống KT3 và 104,07 % của giống khoai tây Mariella so với ĐC [9]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Mã cũng cho thấy: phân vi lượng có tác động mạnh đến sự hình thành nốt sần ở rễ đậu tương, làm tăng hoạt tính enzim nitrogennase từ 20 – 30% làm tăng năng suất và hàm lượng protein từ cây đậu tương [17]. Kết quả nghiên cứu của Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Văn Mã đã khẳng định: phun phân vi lượng dưới dạng chế phẩm Vilado có ảnh hưởng tới khả 17 năng chịu hạn của đậu xanh và cũng khẳng định khi phun Vilado vào thời kỳ ra hoa và cành có thể làm tăng năng suất đậu xanh từ 10 – 13%, tăng hàm lượng protein 15 – 35% [13]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Mã khi phun dung dịch vi lượng qua lá ở nồng độ 0,02% vào lúc ra hoa làm tăng khả năng chịu hạn và năng suất so với đối chứng. Xử lý hạt giống với nồng độ 0,005% và phun lên lá với nồng độ 0,02% cũng có kết quả tương tự [18]. Các hợp chất kích thích sinh trưởng thuộc nhóm auxin như IBA (axit-3 (β)-indolbutyric); α-NAA, 2,4D; 2,4,5T Đã được sử dụng để tăng tỷ lệ ra rễ, rút ngắn thời gian ra rễ trong giâm chiết cành cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lấy gỗ. Theo Nguyễn Văn Niệm và cộng sự (1998), ngay từ năm 1961, đã sử dụng các chất kích thích sinh trưởng trong giâm cành hom chè [23]. Theo Jemes L. và cộng sự (1990) cho thấy nguyên tố kali và các yếu tố dinh dưỡng phụ có ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất củ khoai tây. Nếu thiếu kali thì lá có sự biến đổi màu sắc và hình dạng rất rõ rệt có thể nhìn thấy bằng mắt thường giữa công thức thí nghiệm (bổ sung kali phun lên lá với đối chứng. Do vậy năng suất củ của công thức thí nghiệm cao hơn đối chứng rất rõ rệt (Trích theo Nguyễn Văn Đính [8].) Theo Nguyễn Văn Uyển (1995). IBA được sử dụng trong nhân giống vô tính các cây ăn quả, cây công nghiệp, cây rừng, cây dược liệu để tăng hiệu quả kỹ thuật giâm chiết cành, IBA thường được dùng ở nồng độ hoạt chất từ 25 – 100 mg/l [30]. Ở Việt Nam, theo Trần Thị Ánh (1996) khi nghiên cứu ảnh hưởng của phân vi lượng đối với năng suất và phẩm chất một số cây trồng thì: phân vi lượng đã làm tăng năng suất lúa từ 15 – 20% so với đối chứng, ngô tăng từ 7 – 26%. Hơn nữa phân vi lượng còn làm tăng phẩm chất nông sản, làm hàm 18 lượng tinh bột tăng 4 – 7%, làm tăng lượng protein tổng số trong hạt ngô VMI 14% [2]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Đính cho thấy phun bổ sung KCl lên lá cho khoai tây có ảnh hưởng tốt đến các quá trình sinh lí như trao đổi đổi nước, cường độ quang hợp và năng suất một số giống khoai tây KT3 và Mariella v.v [9],[10],[11]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Điêu Thị Mai Hoa, Nguyễn Văn Mã đã khẳng định: phun phân vi lượng dưới dạng chế phẩm Vilado có ảnh hưởng tới khả năng chịu hạn của đậu xanh và cũng khẳng định khi phun Vilado vào thời kỳ ra hoa và cành có thể làm tăng năng suất đậu xanh từ 10 – 13%, tăng hàm lượng protein 15 – 35% [13]. Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Minh (2011) về hiệu lực của molypden tẩm vào hạt và phun trên lá cây đậu xanh cho thấy: khi sử dụng ở các nồng độ 1, 5, 10, 20mg/l Mo tẩm vào hạt làm tăng đáng kể tỷ lệ nảy mầm của đậu xanh, còn khi sử dụng dung dịch bổ sung molypden phun qua lá ở các giai đoạn 7 lá, 9 lá, ra hoa và tạo quả đều làm tăng chiều cao cây, tăng diện tích lá, giảm cường độ thoát hơi nước, tăng khả năng giữ nước, tăng hàm lượng diệp lục, năng suất quang hợp thuần túy ở cây đậu xanh [20], [21]. Trên đối tượng cây dâu, nghiên cứu của tác giả Trần Thị Ngọc (2011) đã tiến hành thí nghiệm phun chế phẩm bón lá Pomior lên cây dâu với 3 ngưỡng nồng độ 0,4%; 0,5%; 0,6% và khoảng cách giữa 2 lần phun là 10 ngày. Kết quả thí nghiệm cho thấy: Chế phẩm Pomior đã có tác dụng làm tăng khả năng sinh trưởng của cây dâu, từ đó tăng năng suất lá dâu từ 18,73% đến 44,95% ở vụ xuân hè và 12,41% đến 55,11% ở vụ hè thu. Chế phẩm Pomior cũng có tác dụng làm tăng chất lượng lá dâu qua kết quả nuôi tằm, làm tăng năng suất kén tằm từ 9,59% đến 16,67% ở vụ xuân hè và 10,51% đến 27,17% ở vụ hè thu. Trong các nồng độ thí nghiệm thì kết quả cao nhất ở nồng độ 0,6%; tiếp là nồng độ 0,5%; cuối cùng là nồng độ 0,4 % [22]. 19 Theo Vũ Cao Thái [25]. Cho rằng: phân bón qua lá là một giải pháp chiến lược của ngành nông nghiệp, khi sử dụng hiểu quả phân bón lá thì sản lượng trung bình tăng 20 – 30% với cây công nghiệp ngắn ngày. Điều này hoàn toàn có cơ sở khoa học, vì lá là cơ quan tổng hợp trực tiếp chất hữu cơ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng qua các quá trình sinh lý, sinh hóa và quang hợp, khi bón qua lá sẽ khắc phục được các hạn chế của phân bón qua đất bị rửa trôi, bốc hơi hoặc giữ chặt trong đất. Đây là cơ sở để đưa các nguyên tố vi lượng quý hiếm vào các chế phẩm phân bón lá, giúp cây trồng trong những điều kiện bất lợi: hạn hán, lũ lụt, thời kỳ khủng hoảng dinh dưỡng của cây giúp cây nhanh chóng phục hồi. 20 Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Mẫu thực vật: - Giống ớt cay F1 NP 907 được sản xuất tại công ty TNHH giống cây trồng Miền Trung. Giống sinh trưởng và phát triển mạnh, kháng bênh tốt, đâm nhiều nhánh, cho trái sai và trồng được quanh năm, tán rộng, trái màu xanh chuyển đ bóng khi chín, trái suôn, thịt dày, ít hạt, trái dài 10-12 cm, đường kính trái 0,4-0,6 cm, cay và thơm, đặc biệt để lâu không bị mất màu và mềm. Cho trái sau trồng: 70-75 ngày. Thời gian sinh trưởng từ 170 đến 190 ngày, Chiều cao cây từ 60 – 90 cm, Năng suất từ 20 – 30 tạ/ha. - Chế phẩm Basfoliar-K: là chế phẩm kích thích đậu quả cây trồng theo công nghệ của CHLB Đức do công ty BM (BEHN MEYER) CHLB Đức sản xuất. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Cách bố trí thí nghiệm Thí nghiệm ngoài đồng ruộng theo nguyên tắc khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh đảm bảo sự đồng đều giữa các công thức. Diện tích mỗi công thức thí nghiệm là 5,0 m2. Các công thức thí nghiệm gồm:  Công thức đối chứng (Đ/C): Không phun chế phẩm kích thích đậu quả Basfoliar-K chỉ phun nước lã. .  Công thức thí nghiệm (TN1): Phun chế phẩm KTĐQ lần 1 ở giai đoạn 50% cây có hoa (khi cây bắt đầu ra hoa).  Công thức thí nghiệm (TN2): Phun chế phẩm KTĐQ lần 2 cách lần 1 là 10 ngày khi cây ra hoa rộ và hình thành quả. 2.2.2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc Kỹ thuật trồng và chăm sóc theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [1]. [3], [16], [12], [29]. 2.2.3. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất