Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị (trên tư liệu tiếng anh và tiếng việ...

Tài liệu ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị (trên tư liệu tiếng anh và tiếng việt)

.PDF
267
320
78

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TIẾN DŨNG ẨN DỤ Ý NIỆM TRONG CÁC DIỄN NGÔN CHÍNH TRỊ (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TIẾN DŨNG ẨN DỤ Ý NIỆM TRONG CÁC DIỄN NGÔN CHÍNH TRỊ (TRÊN TƯ LIỆU TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT) Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9 22 90 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hồng Cổn HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Nội dung luận án có tham khảo và sử dụng ngữ liệu được trích dẫn từ các diễn ngôn chính trị tiếng Anh và tiếng Việt được liệt kê trong Phụ lục của luận án. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Tiến Dũng MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN................................................................................................................ 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 9 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ học .................................... 9 1.1.2. Ẩn dụ ý niệm trong diễn ngôn chính trị ................................................ 15 1.2. Cơ sở lý thuyết ......................................................................................... 21 1.2.1. Khái quát về khoa học tri nhận và ngôn ngữ học tri nhận .................... 21 1.2.2 Ý niệm và ý niệm hóa ............................................................................ 23 1.2.3. Ẩn dụ ý niệm ......................................................................................... 26 1.2.4. Diễn ngôn và diễn ngôn chính trị ........................................................ 344 1.3. Tiểu kết..................................................................................................... 38 Chương 2: KHẢO SÁT ẨN DỤ CẤU TRÚC TRONG CÁC DIỄN NGÔN CHÍNH TRỊ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT............................................ 38 2.0 Dẫn nhập ................................................................................................. 399 2.1 Ẩn dụ cấu trúc trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh ......................... 411 2.1.1 Ẩn dụ cấu trúc có miền nguồn HOẠT ĐỘNG CON NGƯỜI ............. 422 2.1.2. Ẩn dụ cấu trúc có miền nguồn MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN ............... 60 2.2 Ẩn dụ cấu trúc trong các diễn ngôn chính trị tiếng Việt ........................... 67 2.2.1 Ẩn dụ cấu trúc có miền nguồn HOẠT ĐỘNG CON NGƯỜI ............... 68 2.2.2. Ẩn dụ cấu trúc có miền nguồn MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN ............... 77 2.3 Một số nhận xét chung về ẩn dụ cấu trúc trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh và tiếng Việt ................................................................................... 83 2.4 Tiểu kết...................................................................................................... 85 Chương 3: KHẢO SÁT ẨN DỤ BẢN THỂ TRONG CÁC DIỄN NGÔN CHÍNH TRỊ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT............................................ 88 3.0 Dẫn nhập ................................................................................................... 88 3.1 Ẩn dụ bản thể trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh ............................ 88 3.1.1 Ẩn dụ bản thể có miền nguồn HOẠT ĐỘNG CON NGƯỜI ................ 88 3.1.2 Ẩn dụ bản thể có miền nguồn MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN ............... 100 3.1.3 Ẩn dụ bản thể có miền nguồn CƠ THỂ SỐNG ................................... 104 3.2 Ẩn dụ bản thể trong các diễn ngôn chính trị tiếng Việt .......................... 107 3.2.1 Ẩn dụ bản thể có miền nguồn là HOẠT ĐỘNG CON NGƯỜI .......... 107 3.2.2 Ẩn dụ bản thể có miền nguồn là MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN............ 117 3.2.3. Ẩn dụ bản thể có miền nguồn là CƠ THỂ SỐNG .............................. 124 3.3. Một số nhận xét chung về ẩn dụ bản thể trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh và tiếng Việt ............................................................................... 1277 3.4 Tiểu kết................................................................................................ 12929 PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................... 1311 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................ 1354 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 1365 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Thống kê lượt xuất hiện của miền nguồn CHÍNH TRỊ LÀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH ................................................................ 44 Bảng 2.2: Thống kê lượt xuất hiện của miền nguồn CHÍNH TRỊ LÀ XÂY DỰNG ......................................................................................... 50 Bảng 2.3: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ CHIẾN TRANH .................................................................................... 56 Bảng 2.4: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ HIỆN TƯỢNG THỜI TIẾT.................................................................. 61 Bảng 2.5: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI ............................................................... 65 Bảng 2.6: Thống kê lượt xuất hiện của ẩm dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ HÀNH TRÌNH ...................................................................................... 68 Bảng 2.7: Thống kê lượt xuất hiện của ẩm dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ XÂY DỰNG ......................................................................................... 71 Bảng 2.8: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHIẾN TRANH LÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ............................................... 75 Bảng 3.1: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm THẾ GIỚI LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG ............................................................................. 93 Bảng 3.2: Thống kê lượt xuất hiện ẩn dụ ý niệm QUỐC GIA LÀ MỘT GIA ĐÌNH ............................................................................................. 97 Bảng 3.3: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH QUYỀN LÀ CỖ MÁY ...................................................................................... 101 Bảng 3.4: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ ĐỘNG THỰC VẬT ............................................................................ 103 Bảng 3.5 Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm THẾ GIỚI LÀ MỘT CỘNG ĐỒNG ..................................................................................... 111 Bảng 3.6: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm QUỐC GIA LÀ MỘT GIA ĐÌNH ................................................................................. 113 Bảng 3.7: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH QUYỀN LÀ CỖ MÁY ...................................................................................... 118 Bảng 3.8: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm CHÍNH TRỊ LÀ ĐỘNG THỰC VẬT ............................................................................ 120 Bảng 3.9: Thống kê lượt xuất hiện của ẩn dụ ý niệm QUỐC GIA LÀ CƠ THỂ SỐNG và CÁI XẤU LÀ VẾT THƯƠNG / BỆNH TẬT .......... 124 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ là công cụ tri nhận của con người, trong đó ẩn dụ là một công cụ tri nhận tiêu biểu và hiệu quả. Hầu hết quá trình tri nhận của con người về thế giới xung quanh là dựa trên các ý niệm mang tính ẩn dụ và những ý niệm này có nhiệm vụ cấu trúc hóa và có ảnh hưởng đến ngôn ngữ con người sử dụng. Lakoff [121: 229] đã nhận định rằng: “Nếu không có hệ thống ẩn dụ thì chúng ta không thể có triết lý hóa, lý thuyết hóa mà chỉ có đôi chút hiểu biết chung chung về đời sống cá nhân và xã hội thường ngày mà thôi”. Ngôn ngữ học tri nhận đã nghiên cứu ẩn dụ trong mối tương quan giữa ngôn ngữ và tâm lý, và hiện ẩn dụ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học liên ngành, phát huy vai trò quan trọng trong các lĩnh vực từ thi ca, kinh tế, ngoại giao đến khoa học, chính trị … Không chỉ có tầm quan trọng, ẩn dụ còn hiện diện vô cùng phổ biến trong mọi mặt của đời sống con người. Theo Lakoff và Johnson [124: 3], “ẩn dụ hiện diện ở khắp mọi nơi trong đời sống chúng ta, không chỉ trong ngôn ngữ mà còn trong tư duy và hành động”. Ẩn dụ được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày và cả trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học. Những ý niệm cơ bản và mang tính phổ quát nhất về thế giới được chúng ta tri nhận thông qua các phép đồ họa ẩn dụ vốn xuất phát từ những kinh nghiệm thực tế và cụ thể mà chúng ta trải nghiệm hoặc tích lũy từ cuộc sống hàng ngày. Sự phổ biến của ẩn dụ được phản ánh qua quan sát của Geary [101: 5-7], theo đó, cứ 10 đến 20 từ chúng ta nói ra có thể xuất hiện một ẩn dụ và chúng ta sử dụng khoảng sáu ẩn dụ trong vòng một phút. Trên thế giới, có nhiều tác giả đã nghiên cứu về ẩn dụ trong các lĩnh vực văn học, thi ca, khoa học, pháp luật, báo chí và đã có nhiều công trình nghiên cứu về ẩn dụ trong diễn ngôn chính trị (DNCT). Tuy nhiên, ở Việt Nam, đối tượng nghiên cứu trong tiếng Việt chủ yếu là các phương thức ẩn dụ 1 dùng trong thi ca (Hữu Đạt [19]; Nguyễn Lai [36]; Ngũ Thiện Hùng và Trần Thị Thanh Thảo [31]; Phan Văn Hòa và Nguyễn Thị Tú Trinh [29]; Nguyễn Thị Bích Hạnh [26]; Phạm Thị Hương Quỳnh [77], Trần Thế Phi [75]) hoặc trong thành ngữ tiếng Việt (Trần Bá Tiến [78], Vi Trường Phúc [76]) hoặc trong diễn ngôn báo chí kinh tế (Hà Thanh Hải, [67]). Cũng có thể kể đến Nguyễn Văn Hán [68] nghiên cứu về định vị thời gian dưới góc nhìn tri nhận, Ly Lan [72] khảo sát ẩn dụ ý niệm chỉ tình cảm, Nghiêm Hồng Vân [80] nghiên cứu đối chiếu ẩn dụ ý niệm chỉ trạng thái tình cảm vui mừng và tức giận trong tiếng Nhật và tiếng Việt, Lê Thị Kiều Vân [79] nghiên cứu đặc trưng văn hóa và tri nhận của người Việt qua một số từ khóa, Trần Thị Phương Lý [73] tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm phạm trù thực vật, Nguyễn Thị Bích Hợp [70] nghiên cứu ẩn dụ ý niệm phạm trù đồ ăn và Nguyễn Thị Như Ngọc [74] chọn chủ đề nghiên cứu là ẩn dụ và dịch ẩn dụ trong văn bản diễn thuyết chính trị Mỹ. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lý Toàn Thắng [56], các công trình nghiên cứu ẩn dụ theo quan điểm ý niệm ở Việt Nam còn chưa nhiều và chưa đa dạng. Đặc biệt trong lĩnh vực DNCT, số lượng các công trình nghiên cứu ẩn dụ ý niệm ở Việt Nam lại càng hạn chế mặc dù ẩn dụ ý niệm trong các DNCT là một vấn đề phức tạp nhưng vô cùng hấp dẫn bởi ẩn chứa bên trong mỗi DNCT là chiến thuật, là sách lược, là tác động của cả một chế độ chính trị, của một nền văn hóa được biểu đạt một cách sinh động và thuyết phục qua hành vi sử dụng ẩn dụ ý niệm của các diễn giả chính trị. Tiếp nối các nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm trong DNCT ở ngoài nước và với mong muốn bổ sung thêm minh chứng về lĩnh vực nghiên cứu này ở Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn “Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị (trên tư liệu tiếng Anh và tiếng Việt)” làm đề tài luận án tiến sỹ. Luận án sẽ tìm hiểu về việc sử dụng ẩn dụ ý niệm trong DNCT tiếng Anh và tiếng Việt, xác định những loại ẩn dụ ý niệm phổ biến trong hai ngôn ngữ; từ đó giúp làm sáng tỏ thêm về phương thức tri nhận thế giới của người bản ngữ nói tiếng 2 Anh và tiếng Việt, ngõ hầu giúp ích cho việc dạy-học và nghiên cứu tiếng Anh ở Việt Nam. Có thể nói đây là một đề tài có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nghiên cứu việc sử dụng ẩn dụ ý niệm trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận nhằm làm rõ đặc điểm của các loại ẩn dụ ý niệm được sử dụng phổ biến trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt, vai trò của các ẩn dụ ý niệm này, những điểm tương đồng và dị biệt của các ẩn dụ ý niệm trong DNCT của hai ngôn ngữ. Từ đó, luận án đưa ra những kiến giải đối với các điểm tương đồng và dị biệt (nếu có) dựa trên mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và tư duy. Với mục đích nghiên cứu đó, luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu cụ thể như sau: i. Những loại ẩn dụ ý niệm nào được sử dụng trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt? Các ẩn dụ ý niệm này có tần suất sử dụng như thế nào? ii. Vai trò của các ẩn dụ ý niệm là gì khi được sử dụng trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt? iii. Các ẩn dụ ý niệm xuất hiện trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt có những điểm tương đồng và dị biệt gì? iv. Những điểm tương đồng và dị biệt (nếu có) sẽ được giải thích như thế nào thông qua mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và tư duy? 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích nêu trên, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết về ẩn dụ ý niệm trong DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. - Thu thập, miêu tả ngữ liệu ẩn dụ ý niệm trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt nhằm làm sáng tỏ tình hình sử dụng, phương thức ý niệm hóa và vai trò của ẩn dụ ý niệm trong các DNCT của hai ngôn ngữ. 3 - Đối chiếu nhằm chỉ ra những tương đồng và khác biệt, đồng thời phân tích sự tác động của các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa và tư duy để giải thích các đặc trưng trên của ẩn dụ ý niệm trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các ẩn dụ ý niệm được sử dụng trong một số DNCT của các nguyên thủ các nước nói tiếng Anh như Hoa Kỳ, Anh Quốc và Australia, và các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận án là các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt được dùng làm cứ liệu, bao gồm các bài viết và các bài diễn thuyết về chủ đề chính trị của các nguyên thủ các nước nói tiếng Anh như Hoa Kỳ, Anh Quốc và Australia và các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay. 3.3. Nguồn ngữ liệu Ngữ liệu nghiên cứu tiếng Anh của luận án bao gồm 58 bài diễn văn, gồm diễn văn nhậm chức và Thông điệp liên bang của một số Tổng thống Hoa Kỳ, chủ yếu là các vị Tổng thống trong 30 năm trở lại đây như Ronald Reagan (1985-1989), George HW Bush (1990 – 1993), Bill Clinton (1994 – 2000), George W Bush (2001 – 2008), Barack Obama (2009 – 2016), Donald Trump (2017). Ngoài ra còn có một số bài diễn văn được các Tổng thống Hoa Kỳ khác nhau thực hiện tại thời điểm có những sự kiện lịch sử quan trọng như sự kiện 11/9 năm 2011, sự kiện bức tường Berlin sụp đổ và một số bài diễn văn tranh cử tổng thống và tuyên bố thắng cử và một số bài diễn văn của một số Thủ tướng Anh Quốc như Margaret Thatcher, Tony Blair, Gordon Brown, David Cameron và một số Thủ tướng Australia như Paul Keating, Bob Hawke, John Howard, Julia Gillard, Malcolm Turnbull, Scott Morrison. Các diễn ngôn được lựa chọn có nội dung phản ánh các sự kiện, quan điểm, lập trường 4 chính trị để đảm bảo đối tượng nghiên cứu là các DNCT tiếng Anh. Tổng độ dài của 58 bài diễn văn là 128.485 từ. Ngữ liệu tiếng Việt gồm 56 bài diễn văn tiếng Việt của các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam trong giai đoạn từ 1945 đến nay mà tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn, Tổng Bí thư Trường Chinh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Các diễn ngôn tiếng Việt được lựa chọn cũng có nội dung phản ánh các sự kiện, quan điểm, lập trường chính trị phù hợp với đặc diểm của DNCT nói chung. Các DNCT tiếng Việt có tổng độ dài là 126.180 từ. (Cụ thể, xem danh mục các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt được dùng làm tư liệu nghiên cứu ở Phụ lục 1). 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện việc khảo sát và nghiên cứu đề tài, chúng tôi sẽ áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp miêu tả ngôn ngữ, cụ thể là phương pháp phân tích ngữ nghĩa theo các khung lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận được sử dụng để miêu tả và phân tích quá trình ý niệm hóa, đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của các ẩn dụ ý niệm thuộc hai loại: ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể được sử dụng trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt mà luận án khảo sát. Các ẩn dụ ý niệm sau khi được nhận diện sẽ được liệt kê và phân loại theo loại ẩn dụ cấu trúc hoặc ẩn dụ bản thể và sau đó là theo miền nguồn và tiếp đến là theo tầng bậc là ẩn dụ thượng danh hay ẩn dụ hạ danh. Luận án cũng sẽ phân tích tần suất sử dụng của các ẩn dụ ý niệm và các biểu thức ngôn ngữ chứa đựng các thuộc tính miền nguồn ý niệm trong nguồn ngữ liệu là các DNCT. Luận án sẽ cố gắng phác họa các mô hình tri nhận của người bản ngữ nói tiếng Anh và 5 người Việt khi lựa chọn sử dụng ẩn dụ ý niệm trong các DNCT trong hai chương chính của luận án. - Phương pháp phân tích diễn ngôn được sử dụng để phân tích vai trò của ẩn dụ ý niệm trong việc tạo lập diễn ngôn và thể hiện tư tưởng, quyền lực, tạo ra hiệu lực xã hội, hiệu lực chỉ đạo và điều hành trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. - Phương pháp so sánh đối chiếu cũng được sử dụng để xác định các đặc điểm tương đồng và dị biệt của ẩn dụ ý niệm trong DNCT của hai ngôn ngữ. Cụ thể, dựa trên kết quả mô tả, luận án đã tiến hành áp dụng phương thức đối chiếu 2 chiều (cả tiếng Anh và tiếng Việt đều được coi là ngữ nguồn và ngữ đích) để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt của ẩn dụ ý niệm trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. Tuy nhiên, do mục đích chính của luận án này không phải là nghiên cứu đối chiếu về mặt hệ thống, nên chúng tôi áp dụng phương pháp đối chiếu chủ yếu để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong việc sử dụng các ẩn dụ ý niệm ở DNCT của các diễn giả chính trị nói tiếng Anh và tiếng Việt. Ngoài các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng các thủ pháp thống kê, phân loại. Cụ thể: - Thủ pháp thống kê được dùng để khảo sát, thống kê ngữ liệu, cung cấp các thông tin định lượng cần thiết cho việc miêu tả, nhận xét, đánh giá về đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, xu hướng sử dụng ẩn dụ ý niệm trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. - Thủ pháp phân loại được dùng để phân loại và hệ thống hóa các miền nguồn và các loại ẩn dụ ý niệm trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt theo các nhóm để phục vụ mục tiêu nghiên cứu. 5. Những đóng góp mới của luận án Mặc dù ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận với việc ứng dụng các thành tựu của các khung lý thuyết ngôn 6 ngữ học tri nhận trong nhiều lĩnh vực nhưng luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu ẩn dụ ý niệm trong DNCT của các nước nói tiếng Anh và tiếng Việt, một lĩnh vực lâu nay chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần củng cố lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận, hệ thống hóa các vấn đề cơ bản của ẩn dụ ý niệm trên cơ sở phân tích nguồn ngữ liệu DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có giá trị ứng dụng trong công tác giảng dạy, nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm cũng như công tác nghiên cứu, phân tích văn bản học, cụ thể là thể loại DNCT. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm khái niệm, biểu thức, ngữ nghĩa, ngữ dụng và cơ chế ánh xạ của các ẩn dụ ý niệm trong DNCT tiếng Anh và tiếng Việt, một lĩnh vực chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng khẳng định ưu thế của ngôn ngữ học tri nhận và lý thuyết ẩn dụ ý niệm trong việc nghiên cứu và phân tích DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu này cũng sẽ giúp cho những người làm công tác nghiên cứu ngôn ngữ hiểu sâu hơn về vấn đề ẩn dụ ý niệm theo góc độ ngôn ngữ học tri nhận trong văn cảnh là các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ giúp cho những người làm công tác biên - phiên dịch tiếng Anh chuyên ngành chính trị, giảng viên và sinh viên tiếng Anh hiểu sâu hơn về vấn đề ẩn dụ tri nhận trong các DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp ích cho công tác biên-phiên dịch tài liệu chính trị, biên soạn và thiết kế tài liệu giảng dạy tiếng Anh, đặc biệt là việc giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành chính trị, góp phần nâng cao 7 hiệu quả, chất lượng sử dụng tài liệu giảng dạy, công tác dạy và học môn tiếng Anh tại các trường đại học. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được tổ chức thành 3 chương chính sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận Chương này trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và các vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc phân tích ẩn dụ ý niệm trong DNCT ở các chương sau. Chương 2: Khảo sát ẩn dụ cấu trúc trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh và tiếng Việt Chương 2 của luận án phân tích các ẩn dụ ý niệm cấu trúc và các biểu thức ẩn dụ cấu trúc phổ biến trong DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. Chương 3: Khảo sát ẩn dụ bản thể trong các diễn ngôn chính trị tiếng Anh và tiếng Việt Chương 3 của luận án phân tích các ẩn dụ ý niệm bản thể và các biểu thức ẩn dụ bản thể phổ biến trong DNCT tiếng Anh và tiếng Việt. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ học 1.1.1.1 Nghiên cứu ẩn dụ theo hướng truyền thống Ẩn dụ, theo nhận định của Al-Zoubi, Al-Ali và Al-Hasnawi [83], là một phương tiện ngôn ngữ độc đáo xuất hiện trong đại đa số ngôn ngữ trên thế giới. Ẩn dụ hiện diện trong mọi cấp độ hoạt động xã hội và phong cách ngôn ngữ, không chỉ trong ngôn ngữ văn chương mà còn trong ngôn ngữ báo chí, luật học, triết học, và đặc biệt trong ngôn ngữ chính trị nhờ vào khả năng biểu cảm, có khả năng cụ thể hóa những ý niệm trừu tượng với tính liên hội cao, và, theo Charteris-Black [89], nhờ vào việc ẩn dụ có sức nặng thuyết phục đối với lý trí cũng như tình cảm của người nghe. Các ẩn dụ của một ngôn ngữ là sự chắt lọc các giá trị nền văn hóa dân tộc của ngôn ngữ đó. Ẩn dụ là công cụ nhận thức và hành động của các thành viên cùng sống trong một cộng đồng văn hóa, phản ánh quan điểm, thái độ của họ đối với thế giới khách quan nói chung và đời sống xã hội của cộng đồng văn hóa đó nói riêng. Vì thế, có thể nhận định rằng, ẩn dụ là một sản phẩm của văn hóa. Ẩn dụ được các nhà nghiên cứu dành nhiều sự quan tâm từ thời Cổ đại và được coi như là một phương thức chuyển nghĩa dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có điểm tương đồng. Aristotle đã định nghĩa ngắn gọn về ẩn dụ: “Ẩn dụ là phương thức chuyển đổi tên gọi” [dẫn theo Trần Văn Cơ, 12: 58]. Theo Lakoff [120], lý thuyết ngôn ngữ học cổ điển coi ẩn dụ là một vấn đề thuộc địa hạt ngôn ngữ, không phải là vấn đề của tư duy hay hành động; và lối nói ẩn dụ được cho là không hiện diện trong ngôn ngữ hàng ngày mà chỉ 9 xuất hiện trong các địa hạt bên ngoài ngôn ngữ đời thường, như trong thi ca và hoa mĩ tu từ - một loại ngôn ngữ đặc biệt. Trần Văn Cơ [11] đã mô tả hai quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau về ẩn dụ: các nhà triết học duy lý chủ nghĩa người Anh quan niệm lời nói là nhằm biểu đạt tư tưởng và truyền đạt kiến thức, do vậy chỉ cần sử dụng những từ được dùng với nghĩa đen và vì thế vai trò của ẩn dụ bị xem nhẹ. Chẳng hạn, nhà triết học người Anh T. Hobbes gọi ẩn dụ là “đám ma trơi” và xem việc sử dụng ẩn dụ như “đi loạng quạng giữa vô số những điều xằng bậy”; còn triết gia người Anh J. Locke thì cho rằng việc sử dụng ẩn dụ có thể tạo ra những tư tưởng ngụy tạo và làm sai lệch suy nghĩ. Ngược lại, các nhà triết học và học giả theo trường phái lãng mạn lại cho rằng ẩn dụ là phương thức duy nhất để biểu hiện tư tưởng và biểu đạt tư duy. Ví dụ, một trong những người sáng lập Triết học cuộc sống, F. Nietzsche cho rằng mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể là quan hệ mỹ học được biểu hiện bằng ẩn dụ, sự nhận thức về nguyên tắc mang tính ẩn dụ và nếu không có ẩn dụ thì con người sẽ mất đi khả năng tranh luận về chân lý. Theo nhận xét của Kovecses [114: ix – x], tu từ học truyền thống chỉ xem ẩn dụ như một đặc điểm của từ ngữ, được sử dụng với mục đích nghệ thuật và không thường xuyên xuất hiện trong giao tiếp hàng ngày. Nói cách khác, ẩn dụ là cách nói bóng bẩy, bắt nguồn từ nhu cầu biểu đạt các khái niệm mà ngôn từ biểu đạt không tồn tại và ẩn dụ trở nên phổ biến chính nhờ sức mạnh thẩm mỹ này. Ẩn dụ dựa trên khái niệm tương đồng hoặc so sánh giữa nghĩa đen và nghĩa hình ảnh của một biểu thức và chính sự tương đồng giữa các biểu vật cho phép giải thích việc sử dụng một đơn vị từ theo lối ẩn dụ. Tuy nhiên, theo hướng nghiên cứu này, việc sử dụng ẩn dụ chỉ là phản xạ vô thức.. Ngôn ngữ học truyền thống không xem ẩn dụ là hành động diễn ngôn mang tính chất thuyết phục và không thể giúp người nói hình thành các quan điểm 10 của mình. Nói cách khác, ẩn dụ chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như một phương thức tư duy. Ở Việt Nam, nhiều nhà ngôn ngữ học có quan điểm coi ẩn dụ là dựa trên sự tương đồng. Đỗ Hữu Châu [4: 54] nhận định: “Ẩn dụ là cách gọi tên một sự vật này bằng tên một sự vật khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng”. Nguyễn Thiện Giáp [22: 162] cũng có quan điểm tương tự: “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau.” 1.1.1.2 Nghiên cứu ẩn dụ theo hướng ngôn ngữ học tri nhận i) Các nghiên cứu ở ngoài nước Từ khi ngôn ngữ học tri nhận ra đời, quan điểm về ẩn dụ bắt đầu có sự thay đổi. Các nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận khởi nguồn từ những năm 1980 với những tên tuổi như G. Lakoff, M. Johnson, G. Fauconnier, Ch. Fillmore, R. Jackendoff, R. Langacker, L. Talmy, M. Turner, A. Wierzbicka ... Năm 1980 với tác phẩm “Metaphors we live by” viết chung với nhà triết học M. Johnson, Lakoff bắt đầu phát triển lý thuyết về ẩn dụ tri nhận (ẩn dụ ý niệm). Lý thuyết này làm cho danh tiếng Lakoff vượt ra ngoài phạm vi thuần túy ngôn ngữ học, báo hiệu một sự thay đổi lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về ngôn ngữ trong mối liên hệ với các ngành khoa học khác. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ chủ yếu liên quan đến tư duy hơn là liên quan đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận coi ẩn dụ là công cụ quan trọng để ý niệm hóa các khái niệm trừu tượng và tư duy về sự vật. Theo Lakoff và Johnson [113: 14], “hệ thống ý niệm thông thường của chúng ta, dựa vào đó chúng ta vừa suy nghĩ vừa hành động, về cơ bản mang bản chất ẩn dụ”. Trong những năm qua, lý thuyết ẩn dụ ý niệm đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Xu hướng nghiên cứu ban đầu cho rằng phép ẩn dụ ý niệm chủ yếu căn cứ vào nghiệm thể. Tuy nhiên, Lakoff [116] đã cho rằng những ẩn dụ cảm xúc xuất hiện trong ngôn ngữ và xuất phát từ cơ sở văn hóa, cơ sở sinh lý 11 học của con người. Grady [105] có một tiến bộ quan trọng trong lý thuyết ẩn dụ khi chỉ ra rằng kinh nghiệm hàng ngày, kinh nghiệm cảm giác của con người là cơ sở đưa ra các đánh giá chủ quan của nhận thức ngôn ngữ. Cùng với một số nhà nghiên cứu khác, Lakoff đã phát triển tư tưởng về vai trò của ẩn dụ trong quá trình tạo lập hệ thống ý niệm của con người và cấu trúc của ngôn ngữ tự nhiên thành học thuyết “trí tuệ ngiệm thân” (embodied mind), nghiên cứu sự phụ thuộc của năng lực tư duy và những quan niệm về thế giới vào đặc điểm cấu tạo của cơ thể và bộ não con người. Kể từ khi phát hiện ra ẩn dụ ý niệm, các nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau đã ứng dụng lý thuyết ẩn dụ để nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm trong các linh vực pháp luật, thi ca, chính trị, tâm lý học, vật lý, khoa học máy tính, toán học và triết học. Các kết quả nghiên cứu về cấu trúc ẩn dụ đã góp phần làm sáng tỏ cách thức con người tư duy trong một số lĩnh vực trí tuệ. Trong lĩnh vực văn học, Lakoff và Turner [126] đã chứng minh rằng phép ẩn dụ chủ yếu tồn tại trong thơ ca và chỉ khi đã trở nên ổn định, ẩn dụ ý niệm mới được sử dụng trong tư tưởng và ngôn ngữ hàng ngày. Các sáng tạo ẩn dụ của nhà thơ chủ yếu nằm trong cơ chế ánh xạ ẩn dụ. Các cơ sở ẩn dụ về yếu tố đạo đức trong văn học được làm rõ nhờ các cuộc thảo luận về ẩn dụ và đạo đức của Lakoff trong lĩnh vực chính trị và đạo đức [122], và Lakoff và Johnson trong triết học [125]. Trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và các vấn đề xã hội, Lakoff và Johnson [124: 159] đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy rằng “ẩn dụ đóng vai trò then chốt trong việc kiến tạo thực trạng xã hội và chính trị. Lakoff [122] đã phân tích chính trị thế giới quan của những người có quan điểm bảo thủ và cấp tiến ở Mỹ, xem xét các quan điểm về kiểm soát súng, án tử hình, thuế, các chương trình xã hội, môi trường và nghệ thuật trong một khung tri nhận nhất định. Trong lĩnh vực tâm lý học, ẩn dụ cũng thể hiện vai trò quan trọng trong lĩnh vực nhận thức và tâm lý học; và nghiên cứu của Gibbs [103] và Lakoff 12 [116] đã chứng minh điều này. Có thể nói rằng lý thuyết ẩn dụ ý niệm ngày càng được hoàn thiện và phát huy vai trò quan trọng không chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học mà còn trong các lĩnh vực nghiên cứu đa ngành khác. Ngôn ngữ học tri nhận coi ẩn dụ ý niệm là công cụ quan trọng để ý niệm hóa. Theo Lakoff [120], ẩn dụ ý niệm là các ánh xạ có tính hệ thống giữa hai miền ý niệm: miền nguồn là một phạm trù trải nghiệm được ánh xạ hay phóng chiếu vào miền đích là một miền trải nghiệm khác. Ví dụ, câu “Argument is war” (Tranh luận là cuộc chiến tranh) có miền nguồn chiến tranh được ánh xạ vào miền đích tranh luận và được biểu hiện qua những biểu thức ngôn ngữ như tấn công, chống đỡ, bảo vệ… theo đó miền đích tranh luận có những đặc điểm của miền nguồn chiến tranh. Trọng tâm của ẩn dụ ý niệm không phải là ngôn ngữ mà là phương thức chúng ta ý niệm hóa một miền tâm trí qua một miền tâm trí khác. Các ẩn dụ hoạt động như các “công cụ tri nhận”, nghĩa là các ẩn dụ không chỉ là cách thức biểu hiện tư tưởng bằng phương tiện ngôn ngữ mà còn là cách thức tư duy về sự vật. Lakoff và Johnson [124] chứng minh rằng chúng ta không chỉ phát hiện ra ẩn dụ ý niệm “thời gian là tiền bạc” về mặt ngôn ngữ học mà thực ra chúng ta đã suy nghĩ hoặc ý niệm hóa phạm trù đích thời gian qua phạm trù nguồn tiền bạc, khi chúng ta sử dụng các diễn ngôn sau đây: a) You’re wasting my time. (Anh đang làm lãng phí thời gian của tôi) b) How do you spend your time? (Anh tiêu dùng thời gian ra sao?) c) Is that worth your time? (Việc đó có đáng bỏ thời gian của anh không?) ii) Các nghiên cứu ở trong nước Ở Việt Nam, Nguyễn Lai được xem là nhà ngôn ngữ học đầu tiên nghiên cứu khuynh hướng tri nhận trong Giáo trình chuyên luận “Từ chỉ hướng vận động tiếng Việt” [35]. Tuy không sử dụng thuật ngữ “tri nhận” nhưng Nguyễn Lai đã nghiên cứu về quá trình phát triển ngữ nghĩa của các từ chỉ hướng vận động RA - VÀO, LÊN - XUỐNG, ĐẾN - TỚI, LẠI - QUA, SANG - VỀ theo 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan