Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Trung học phổ thông [123doc] tieu luan ve van hoa cham...

Tài liệu [123doc] tieu luan ve van hoa cham

.DOCX
15
65
58

Mô tả:

MỞ ĐẦU I. LỜI NÓI ĐẦU. Đất nước Việt Nam – điểm đến đu lịch của thiên niên kỷ - đó là một lời chào của đất nước Việt Nam chúng ta. Trải dài từ ải Name Quan đến mũi Cà Mau xa xôi. Đất nước Việt Nam thống nhất lãnh thổ từ Bắc đến Nam chạy dài suốt biển Đông cùng dãy núi Trường Sơn hung vĩ. Đất nước cong con hình chữ S, gánh lấy sứ mệnh nối liền dải đất miền Trung đầy nắng và gió. Nơi đây đã từng tồn tại một nền văn hóa vô cùng rực rỡ là nền văn hóa nơi đến của cư dân chămpa. Chămpa nhắc đến nó chúng ta có thể hình dung ra được những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo còn lại cho đến ngày nay mà không ở đâu trên đất nước Việt Name có được. là những di sản văn hóa của thế giới. Nền văn hóa của cư dân Chămpa đã tồn tai một thời rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam để lại những thành tựu vô cùng quý giá. Một vương quốc nằm ở miền đất Name Trung Bộ - nơi đây thực sự hội tụ đủ các yếu tố cho sụ phát triển của một nền văn hóa. Với vị trí thuận lợi, cư dân đã định cư lâu đời ở đây. Đã xây dựng cho mình một phức hợp đủ các loại hình. Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc. Vương quốc Chămpa vẫn tồn tại trong một thời gian dài gần 10 thế kỷ. Bằng chính sự lao động không ệt mỏi và tài nawg sáng tạo tuyệt vời, người Chăm đã xây dựng nền văn minh của chính họ bằng những giá trị văn hóa độc đáo trải dài từ suốt dải đất miền Trung đầy nẵng và gió cho đến vùng đất phía Nam trù phú của tổ quốc NỘI DUNG I. Khái quát về người Chăm và đất nước Chămpa. Người Chăm là một tộc người thuộc chủng Name Á. Ngôn ngữ cuả họ thuộc ngữ hệ Malai-Poolinedi. Cùng với người Việt ở Bắc Bộ, các nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Môn-Khơme và Malai-Polinêdi ở Name Bộ, người Chăm là một trong những nguồn cội của các dân tộc Việt Name ngày nay.trong thời cổ đại và trung đại, người Chăm đã có một nền văn hoá riêng rực rỡ, không thua kém bất cứ nền văn hóa nào ở Đông Name châu Á. Vương quốc Chămpa là vương quốc(Mandala) của các tiểu vương quốc tồn tại gần 15 thế kỷ ( từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XV), phan bố ở miền Trung Việt Name từ núi đến biển, gián cách nhau bằng các đèo, từ đèo Ngang đến đèo Cả Đại Lãnh...có độc lập và liên lập, có một tổng thể văn hóa chung mà cũng có sắc thái văn hóa vùng. Đó là 4 vùng lớn của đồng bằng nhỏ ven biển: amaravati (địa phận các tình Quảng Bình – Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Name – Đà Nẵng) ; Vijaya(Quảng Ngãi, Bình Định); Kauthara(Nha Tra – Khánh Hòa) và Panduranga( Phang Rang, Phan Thiết). Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và những di tích khảo cổ trên và trong long đất trùng hợp với địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh. Niên đại khởi đầu của vương quốc Chămpa theo thư tịch Trung Hoa cổ là cuối thế kỷ thứ II(năm 192, Khu Liên đã lập nước Lâm Ấp ở vùng đất Quảng Name ngày nay. Đó là nước Chămpa của ngời Chăm với đô thành sư tử(Sximhapura – nay là Kaf Triệu, Duy Xuyên). Có thể người Hán đã hiểu đô thành su tử thành Rừng Voi (Tượng Lâm). Ngoài ra, bia Võ Cạnh ở Nha Trang có niên đại thuộc thế kỷ thứ II sau công nguyên cũng đã nói đến một quốc gia do Srimara thành lập. niên đại này trùng với niên đại của khu mộ chum Gò Đình (Đại Lãnh – Đại Lộc – Quàng Name), Lý Sơn( Quảng Ngãi). Sự trùng hợp về không gian và thời gian, của một số loại hình hiện vật, một số ngành nghề...cùng với suy luận logic đã cho thấy văn hóa Chămpa này nảy sinh từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm cổ là con cháu của người Sa Huỳnh cổ. II. Đăc trưng văn hóa Chămpa. 1. Văn hóa nghệ thuật. Văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Từ thế kỷ thứ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độvào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Si-va giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ thứ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền Nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai. 2. Tôn giáo, tín ngưỡng. Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.  Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ ở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga sẽ bao gồm tên của nhà vua và đuôi "-esvara," tức là Shiva.  Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới dạng hình người hay hình khuôn mặt.  Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là kiểu tóc búi.  Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể (trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập phương, tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt, đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.  Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo. Si-va của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt cũng theo cách họ tự đặt tên cho các linga. Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo. Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm. Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi. Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tượng tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là thủ đô của Majapahit. 3. Kiến trúc điêu khắc. Kiến trúc Chăm Pa được phân tích qua các tháp Chăm thờ các vị thần Ấn Độ giáo và các vị vua Chăm được hóa thần còn sót lại cũng như dấu tích của các tòa thành cổ, tu viện phật giáo thời Indrapura. Về phong cách kiến trúc điêu khắc các tháp được các nhà nghiên cứu thường chia ra làm nhiều thời kỳ, mỗi một thời kỳ có những thay đổi khác nhau, dấu dấn riêng biệt của người Chăm là kỹ thuật làm gạch kết dính để xây tháp và chạm trổ trên đá. Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khăc Chăm Pa vẫn có những tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm Văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng vào Chăm Pa từ những thời kỳ đầu, dẫn tới các trước tác về luật pháp, chính trị xã hội đều có mặt ở Chăm Pa, được các vua chúa Chăm áp dụng và ưa thích. 4. chữ viết, bia ký. Chữ bắc Phạn (Sanskrit) đã được người Chăm tiếp thu từ những thế kỷ đầu công nguyên, các chữ viết trên bia Võ Cạnh ở thế kỷ 3 với cách viết rất gần với kiểu viết của các bia ký vùng Amaravati ở Nam Ấn Độ, tuy nhiên chữ viết của Chăm Pa trong hơn 10 thế kỷ tồn tại của mình cũng liên tục thay đổi tương ứng với những thời kỳ ảnh hưởng từ các vùng khác nhau ở Ấn Độ, từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 8, chữ Phạn ở Chăm Pa có dạng tự vuông của vùng bắc Ấn, nhưng từ thế kỷ 9 trở đi chữ Phạn ở Chăm Pa lại có dạng tự tròn của vùng nam Ấn, có thể nhận định Chăm Pa là quốc gia đầu tiên có chữ viết sớm nhấtĐông Nam Á. Xuất phát từ dạng tự của chữ Phạn, người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo (Akhar Thrah) của Ấn Độquan trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa. Theo thống kê của các học giả người Pháp vào năm 1923, số bia ký Chăm đã được biết là 170, tất cả các bia ký Chăm đều được khắc lên đá thành những tấm bia to và đẹp và một số bia ký khác được khắc lên tường của các tháp Chăm. Các văn bia cổ Chăm Pa là những văn bản gần như duy nhất thể hiện ý tưởng của các vị vua và triều đình, trong số 123 bia ký có thể hiểu được nội dung thì 92 bia nói về Siva giáo, 5 bia về thần Brahma, 3 bia về thần Visnu, 7 bia về đức Phật và 21 bia không rõ về về tính tôn giáo. 5. Văn học, ghi chép. Do chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ cho nên ý nghĩa văn chương được thể hiện trong các bia ký, các tác giả bia ký cố gắng dùng lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình, vì thế mà văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng nhất của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian chắc cũng có mặt ở Chăm Pa, điều này được thế hiện qua việc người Chăm dựng đền thờ Rsi Valmiki, người được coi là tác giả của sử thi Ramayana cũng như các bức phù điêu thể hiện các nhân vật có trong sử thi Ramayana như chàng Rama, nàng Sita. Ngoài bộ sử thi Ramayana, các bộ sử thi khác của Ấn Độ cũng được phổ biến ở Chăm Pa như bộ Mahabharata và thậm chí là truyện ngụ ngôn Ấn Độ qua bộ Bhagavata. Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan - Doanh Nhai Thắng Lãm, thì văn bản ghi chép trong xã hội Chăm Pa thời kỳ này được miêu tả: Về việc viết chữ, họ không có giấy hay bút, họ dùng [hoặc] da dê kéo mỏng hay vỏ cây hun khói đen, và họ gấp nó lại thành hình một quyển kinh sách, với phấn trắng, họ viết chữ để ghi lại thành tài liệu lữu trữ. 6. Âm nhạc, ca múa. Các cô gái Chăm trong đội vũ công Phan Rang. Âm nhạc và ca múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, ở các tín ngưỡng như lễ năm mới Rija Nagar, lễ Kate vào tháng 7 Chăm lịch, lễ cầu đảo, lễ mở cửa tháp. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tùy thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống Baranâng và trống gineng là loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo, người Chăm có các điệu múa khác nhau như: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể, múa độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng. 7. Tổ chức xã hội. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu dân tộc học và điền dã cũng như tổng quan các nghiên cứu về xã hội nguời Chăm đều tập trung vào người Chăm hiện đại. Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu lịch sử nào, nhất là các công trình dựa trên khảo cứu văn bia hay văn tịch cổ của người Chăm cho ra các kết luận khách quan có chứng cứ về xã hội Chăm Pa cổ, tuy nhiên từ những sử liệu, bia ký rời rạc chúng ta có thể điểm được một số yếu tố trong tổ chức xã hội Chăm Pa. 8. Luật pháp. Các bia ký và các tác phẩm điêu khắc không thể hiện cho thấy bất kỳ một thiết chế luật pháp nào, tuy nhiên qua ghi chép của Mã Đoan tới đây vào đầu thế kỷ 15 có thể cho chúng ta thấy một phần nào về luật pháp của Chăm Pa thời kỳ đó:      Về các tội bị trừng phạtxứ sở này: Đối với các tội nhẹ, họ dùng việc đánh vào lưng bằng một sợi mây. Đối với các tội nặng, họ cắt mũi. Đối với tội cướp, họ chặt tay. Đối với tội ngoại tình, đàn ông và đàn bà bị khắc lên mặt sao cho thành vết sẹo. 9. Hệ thống đẳng cấp. Một số nghiên cứu dựa trên nền văn hóa Ấn hóa của người Chăm đều trình bày xã hội dưới dạng các đẳng cấp (caste) trong kinh Vệ Đà trước khi đi vào khảo cứu các di tích văn hóa nghệ thuật Chăm Pa còn lại. Theo đó, xã hội Vệ Đà có bốn đẳng cấp, đứng đầu là đẳng cấp giáo sĩ Brahman chuyên về thờ cúng, tiếp theo là đẳng cấp Ksatria tức chiến binh có nhiệm vụ bảo vệ các đẳng cấp kia. Các học giả hiện đại theo xu hướng nghiên cứu thực chứng đã tỏ ra dè dặt hơn và không đề cập gì từ phương diện nghiên cứu sử học, nhất là từ các tài liệu văn bia về cơ cấu xã hội của Chăm Pa cổ. Các sự kiện lịch sử, như việc Lưu Kế Tông, một người Việt chứ không phải người Chăm làm vua Chăm Pa cho dù chỉ có ba năm (983-986) rồi bị người Chăm đoạt lại vương vị cũng chứng tỏ cơ cấu xã hội Chăm Pa cổ phức tạp hơn trong kinh Vệ Đà nhiều. Tóm lại, việc xem xã hội Chăm Pa cổ là xã hội Vệ Đà với bốn đẳng cấp như ở Ấn Độ cổ (hay năm đẳng cấp với đẳng cấp thứ năm là ngoại nhân) cần được nhìn nhận rất thận trọng vì chưa có công trình nghiên cứu nào từ cứ liệu chạm khắc Chăm cổ chứng minh. 10. Chế độ mẫu hệ. Nhiều học giả trong nước trên cơ sở nghiên cứu chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại của người Chăm hiện nay và trên cơ sở nghiên cứu cụ thể các cặp linga-yoni, đặc biệt là linga phân tầng, cả linga phân làm ba tầng thể trimutri (ba thể của Thượng Đế) và hai tầng (linga và yoni - âm và dương) được đặt trên bệ đá hình vuông có khe để nước chảy thoát ra chính là yoni được đặt bên dưới linga, thì cho rằng ở xã hội Chăm cổ vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũng rất to lớn. Tuy nhiên, cũng giống như ở trên, đấy mới chỉ là một suy luận chứ chưa có các tài liệu văn bia chứng minh và chưa có công trình nghiên cứu lịch sử dựa trên các văn khắc Chăm cổ nào đề cập đến việc này. 11. Kinh tế. Trong khi có nhiều công trình nghiên cứu về đời sống, hoạt động kinh tế và cơ cấu, tổ chức và các mặt khác nhau của người Chăm hiện đại thì chưa có những công trình nghiên cứu như vậy cho vương quốc Chăm Pa cổ. Lý do cũng thật dễ nhận thấy vì những gì thuộc về thượng tầng kiến trúc là những thứ khó còn lại với thời gian và sử liệu về một vương quốc có thời đã dựng nền những đền tháp rực rỡ chạy dài suốt ven biển miền Trung Việt nam ngày nay cũng chỉ còn qua các phế tích. Qua các công trình nghiên cứu lịch sử, các tác giả cho rằng nền kinh tế Chăm Pa xưa chủ yếu dựa vào các hoạt động nông nghiệp, sản xuất đồ thủ công và thương mại. Các dầu vết còn lại ở miền Trung Việt Nam của những hệ thống thủy lợi phức tạp và những giống lúa có chất lượng cao đặc trưng riêng của miền Trung được xem là các bằng chứng của một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển cao. Vương quốc Chăm Pa xưa có được vị trí thuận lợi cho sự phát triển thương mại đường biển. Các cảng biển của vương quốc là những điểm trung chuyển giao lưu hàng hóa quốc tế cũng như để xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu từ khai thác rừng ở miền thượng của các đồng bằng ven biển và Tây Nguyên. Từ thế kỷ thứ 10, các cảng của Chăm Pa đã được biết đến như là những thương cảng quan trọng trên Biển Đông, nằm trên hành trình thương mại đường biển giữa phương Đông và phương Tây vẫn được gọi là "Con đường tơ lụa trên biển". Các sản phẩm xuất cảng của Chăm Pa là sản phẩm của sản xuất đồ thủ công như các đồ gốm sứ, đất nung và cả các sản phẩm khai thác miền rừng như sừng tê, ngà voi, và đặc biệt là trầm hương, và cả của hoạt động khai thác tổ yến trên các đảo ngoài khơi. Về phương tiện thanh toán trong giao dịch thương mại, Theo ghi chép của Mã Đoan một thông ngôn của Trịnh Hòa (nhà Minh, Trung Quốc) đến Vijaya vào đầu thế kỷ 15 - khoảng năm 1413 được thể hiện trong cuốn sách sau này của ông là Ying-yai Sheng-lan - Doanh Nhai Thắng Lãm, thì giao dịch thời kỳ này được miêu tả: Trong giao dịch mua bán, họ hiện dùng vàng nhạt màu, non tuổi, có độ bẩy mười phần trăm, hoặc bạc. 12.Dân tộc dân cư. Người Chăm trong thời vương quốc Chăm Pa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Bộ tộc Dừa sống ở Amaravati và Vijaya trong khi bộ tộc Cau sống ở Kauthara và Pandaranga. Hai bộ tộc có những cách sinh hoạt và trang phục khác nhau và có nhiều lợi ích xung đột dẫn đến tranh chấp thậm chí chiến tranh. Nhưng trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột này thường được giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thông qua hôn nhân. Bên cạnh người Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa còn có cả các tộc người thiểu số gốc Nam Đảo và Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa còn có cả người Việt. 13. Di sản ngày nay. Rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên 1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn đượcUNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm nổi tiếng ở miền Trung vẫn được cộng đồng người Chăm hiện nay sử dụng để thờ tự như: Tháp Po Nagar (Khánh Hòa)  Tháp Po Klaung Garai (Ninh Thuận)  Tháp Po Rome (Ninh Thuận)  Tháp Po Sha Inư (Bình Thuận) Các hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước đây là "Musée Henri Parmentier") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo tàng khác như:  KẾT LUẬN Cuộc sống luôn có sự giao lưu tiếp xúc với nhau để đảm bảo cho sự sống và làm phong phú thêm cho tinh thần nhân loại. Quá trình giao lưu là quá trình diễn ra trong một thời gian dài, đồng thời nó diễn ra bất cứ ở đâu trên trái đất này nếu ở đó có sự tồn tại của con người. Nó diễn ra mọi lúc mọi nơi kể cả con đường chiến tranh, cương bức hay tự nguyện và đôi lúc là sự ngẫu nhiên tình cờ. Dù cho phương thức nào đi chăng nữa nó cũng là một phần tất yếu của cuộc sống. Với việc nghiên cứu quá trình giao lưu văn hóa của người Chămpa. Chúng ta biết được nhiều hơn về nguồn gốc, xuất xứ của nền văn hóa này, cùng với những yếu tố ngoại lai du nhập vào, những cải biến, sáng tạo, chọn lọc cho phù hợp với yếu tố văn hóa bản địa. Dó là sự du nhập nền tôn giáo lớn dựa trên tôn giáo tín ngưỡng Ấn Đô, balamon giáo, phật giáo, rồi Islam giáo đến từ đất nước xa xôi Địa Trung Hải là Ả Rập.Tù chữ viết kết hợp với chư Chăm cổ và tiếng Phạn tạo ra ngôn ngữ chữ viết cho riêng mình. Văn học dân gian cùng với sự tiếp thu văn học, sử thi Ấn Độ làm phong phú thêm kho tang văn hóa dân tộc Chămpa rồi sự tiếp thu kiến trúc điêu khác Ấn Độ, Trung Quốc, Khơ me cho ra những đền tháp độc đáo về kiến trúc, về chất liệu rát riêng, không đâu có được. Sự kết hợp những yếu tố đó thật nhuần nhuyễn, tạo ra những công trình kiến trúc thật tuyệt vời và cực kì tinh xảo, cho đến ngày nay vẫn còn là những bí ẩn cần được khám phá và nghiên cứu thêm. Ngày nay thực trạng và di sản của văn minh Chămpa đang xuống cấp trầm trọng vì vậy nó cần được cấp chính quyền quan tâm nghiên cứu và tôn tạo giữ gìn và ra sức phát huy những truyền thống văn hóa quý báu đó. Là di sản dân tộc có một không hai, là chứng tích của một nền văn hóa vô cùng rực rỡ của cư dân Chămpa. Trải qua thăng trầm lịch sử và biến động của thiên tai khắc nghiệt nó vaanx đứng sững tồn tại chó đến ngày nay. Văn hóa Chămpa là một di sản văn hóa vô giá không chỉ của đân tộc Việt Nam mà là của cả nhân loại. MỤC LỤC MỞ ĐẦU I.LỜI NÓI ĐẦU. NỘI DUNG I. Khái quát về người Chăm và đất nước Chămpa. II. Đăc trưng văn hóa Chămpa. 1. Văn hóa nghệ thuật. 2. Tôn giáo, tín ngưỡng. 3. Kiến trúc điêu khắc. 4. Chữ viết, bia ký. 5. Âm nhạc, ca múa. 6. Âm nhạc, ca múa. 7. Tổ chức xã hội. 8. Luật pháp. 9. Hệ thống đẳng cấp 10. Chế độ mẫu hệ. 11. Kinh tế. 12. Dân tộc dân cư. 13. Di sản ngày nay. KẾT LUẬN
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan