1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những thập niên gần đây, các quốc gia trên thế giới đã và đang chứng kiến
sự lan rộng của quá trình toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại. Quá trình
toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại kéo theo sự di chuyển tự do của
hàng hóa, vốn và sức lao động. Nhờ có quá trình toàn cầu hóa mà sự di chuyển
sức lao động từ nước này sang nước khác hay “xuất khẩu lao động” đã mang lại
những giá trị kinh tế không nhỏ và những lợi ích xã hội đáng kể cho các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là một
lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, là một bộ phận của chính sách giải quyết việc
làm cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu tình trạng thất
nghiệp. XKLĐ cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự biến động của nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài
chính tại Hoa Kỳ và lan rộng ra phạm vi toàn cầu, đã và đang đặt hoạt động XKLĐ
của nước ta trước những thách thức to lớn khi thị trường lao động quốc tế ngày càng
cạnh tranh gay gắt, các nước XKLĐ trong khu vực có điều kiện tương đồng đang ra
sức giành giật thị trường, trong khi các nước tiếp nhận lao động lại có xu hướng giảm
dần nhập khẩu lao động phổ thông, tăng lao động có trình độ kỹ thuật cao, lao động
lành nghề. Chính vì lẽ đó, kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 cho đến nay, hoạt động XKLĐ của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do nhiều thị
trường bị mất. Lao động phải về nước trước thời hạn đã và đang đặt ra hàng loạt các
vấn đề phức tạp không chỉ đối với Nhà nước mà còn đối với cả các doanh nghiệp
XKLĐ, chính quyền địa phương và gia đình người lao động.
Phải làm sao để giành lại thị trường cho XKLĐ Việt Nam? Phải làm thế nào
để giải quyết công ăn việc làm cho người lao động về nước trước thời hạn, làm thế
nào để thúc đẩy XKLĐ trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang suy thoái và đặc
biệt trong thời gian tới khi nền kinh tế thế giới vượt qua khủng hoảng? Để có câu
trả lời đúng đắn cho những vấn đề này cần phải có sự nghiên cứu những tác động
cụ thể của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến XKLĐ của Việt Nam,
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm vượt qua những khó khăn mà cuộc khủng
hoảng gây ra và đẩy mạnh XKLĐ trong thời gian tới. Đó chính là lý do để tác giả
2
lựa chọn vấn đề “Xuất khẩu lao động của Việt Nam trước và sau khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008” làm đề tài cho luận án tiến sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
2.1. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài có các công trình nghiên cứu đề cập riêng lẻ, từng khía cạnh khác
nhau về di cư lao động, về các vấn đề liên quan đến khủng hoảng kinh tế thế giới, về
XKLĐ v.v.... Tuy nhiên, chưa có công trình nào được công bố có chủ đề trùng với tên
đề tài nghiên cứu của luận án Tiến sĩ này. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu
được công bố trước đó cũng là tài liệu tham khảo bổ ích để tác giả tham khảo khi thực
hiện luận án. Có thể kể đến một vài nghiên cứu điển hình như: Hai tác giả Ian I.
Mitroff đã viết cuốn: Why Some Companies Emerge Stronger and Better from a
Crisis: 7 Essential Lessons for Surviving Disaster (Xuất bản tháng 6 năm 2009) và tác
giả Shah Gilani với bài báo The real reason for the global financial crisic… the story
no one’s talking about (Xuất bản năm 2008) nói về 7 bài học chủ yếu mà các Công ty
cần phải có để đối phó với kịp thời với khủng hoảng kinh tế thế giới và làm thế nào để
có được lợi nhuận từ sự suy thoái của nền kinh tế, từ chính cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới để các Công ty trở nên mạnh mẽ, hoàn thiện.
Ở một số các công trình nghiên cứu khác về XKLĐ, một số tác giả đã phân tích
về vai trò của XKLĐ đối với các nước, về những tác động của lượng kiều hối từ
người lao động ở nước ngoài chuyển về cũng như những vấn đề đặt ra do ảnh
hưởng của di cư lao động tiêu biểu trong số đó là: Tác giả GodFrey Gunatilleke
với cuốn The Impact of Labour Immigration on households (xuất bản năm 1992).
Tuy nhiên, các tài liệu này đều mang tính lý luận, lý thuyết nhiều mà chưa có ứng
dụng thực tiễn.
Tác giả W.Edwards Deming với công trình nghiên cứu Out of Crisis (Xuất
bản tháng 7 năm 2009) phân tích về những tác động của khủng hoảng kinh tế đối
với thị trường lao động đã kết luận rằng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 sẽ tác động đến sự còn và mất thị trường trong đó có thị trường lao động,
cũng như mang lại cả việc làm và sự thất nghiệp cho nhiều nền kinh tế.
Ngoài ra, với câu hỏi được đặt ra trong đề tài của luận án: Nguyên nhân nào
dẫn đến khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008? Hoạt động xuất khẩu lao động
trên thế giới nói chung và XKLĐ của Việt Nam nói riêng chịu những tác động như
thế nào của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008? Thì hiện nay vẫn chưa
có nghiên cứu nào của các tác giả nước ngoài đề cập đến.
3
2.2. Ở Việt Nam
Về lĩnh vực hoạt động XKLĐ, ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu của các tác giả đề cập đến vấn đề như: Xuất khẩu sức lao động với chương trình
quốc gia về việc làm - thực trạng và giải pháp của tác giả Nguyễn Phúc Khanh (Xuất
bản năm 2007). Hay Giải pháp nào để doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam vượt qua
thách thức và về đích năm 2008 của tác giả Nguyễn Lương Trào đăng trên tạp chí
Lao động và Xã hội (Số 329 năm 2008). Bài viết Thành tựu hạn chế và một số vấn
đề đặt ra đối với quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam của
tác giả Nguyễn Thị Huyền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu (Xuất bản năm
2011). Bài viết Nâng cao sức cạnh tranh nhằm mở rộng và giữ vững thị phần xuất
khẩu lao động trong bối cảnh mới của tác giả Nguyễn Lương Trào (Xuất bản năm
2012). Tuy nhiên, trong các tác phẩm này, khái niệm việc cần thiết nâng cao hiệu quả
quản lý XKLĐ và giải pháp đẩy mạnh XKLĐ khác với cách hiểu mà luận án đưa ra.
Các công trình nghiên cứu nêu trên phân tích vấn đề XKLĐ của Việt Nam ở
nhiều góc độ. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện, cả về mặt lý luận và thực tiễn về thực trạng XKLĐ của Việt Nam giai đoạn
trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 để lấy đó làm cơ sở so
sánh với tình hình XKLĐ của Việt Nam kể từ năm 2008 đến nay nhằm tìm ra những
biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh XKLĐ Việt Nam trong giai đoạn mới – giai đoạn
sau khủng hoảng. Có thể nói đây là luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án có một số mục đích chính sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về XKLĐ của Việt Nam trước và
sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
- Đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước và sau khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
- Nêu bật những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008
đến XKLĐ của Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp đẩy mạnh XKLĐ của Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận án có nhiệm vụ cụ thể dưới đây:
- Làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về XKLĐ; về khủng hoảng kinh tế thế giới
4
năm 2008; về những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến
hoạt động XKLĐ ở phạm vi quốc tế và ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng XKLĐ của Việt Nam trước và sau khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2008; nêu bật những tác động tiêu cực, tích cực đối với XKLĐ Việt
Nam do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng.
- Nêu rõ những nguyên nhân yếu kém trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam
trong thời gian qua do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực và phát
huy tác động tích cực từ chính cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhằm đẩy mạnh
XKLĐ của Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt trong giai đoạn sau khủng hoảng
kinh tế thế giới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề liên quan đến XKLĐ
của Việt Nam trước và sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008; đặc biệt là
chính sách phát triển XKLĐ của Đảng và Nhà nước ta trước, trong và sau khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008;
Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm việc phân tích kinh nghiệm của
một số nước trong việc đẩy mạnh XKLĐ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu giới hạn ở việc phân tích những tác động (tiêu cực,
tích cực) của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến hoạt động XKLĐ của
Việt Nam theo hình thức XKLĐ trực tiếp: hình thức đưa người lao động Việt Nam
(chuyên gia và tu nghiệp sinh, thực tập sinh) đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài một
cách có tổ chức, hợp pháp thông qua các hiệp định Chính phủ, các hợp đồng của doanh
nghiệp được cấp phép XKLĐ, theo các hợp đồng nhận thầu khoán công trình, hợp đồng
nâng cao tay nghề, hợp đồng cá nhân.
- Phạm vi về không gian: Lựa chọn XKLĐ của 3 nước là Philippin, Indonesia,
Ấn Độ để tìm hiểu kinh nghiệm cho XKLĐ Việt Nam vì Philippin, Indonesia là
thành viên của ASEAN, Ấn Độ là nước Châu Á – là nước đang phát triển có nhiều
thành công, tạo được thế cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế nhờ chiến
lược XK chuyên gia công nghệ thông tin.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng XKLĐ của Việt Nam từ năm
2003 cho đến nay; Đề xuất giải pháp đẩy mạnh XKLĐ Việt Nam trong thời gian
tới ( từ nay đến năm 2015 và 2020).
5
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được hoàn thành trên cơ sở của phương pháp luận nghiên cứu là:
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về XKLĐ.
- Luận án sử dụng phương pháp hệ thống hóa, phân tích, luận giải, thống
kê, so sánh để so sánh thực tiễn áp dụng ở các DN XKLĐ ở Việt Nam, căn cứ vào
cơ sở lý thuyết đưa ra ở chương 1, thực trang XKLĐ ở chương 2 để có được phân
tích tổng hợp về XKLĐ.
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu: điều tra xã hội học
và lấy ý kiến chuyên gia để nắm rõ vai trò của XKLĐ, nhằm tìm kiếm các giải pháp
hỗ trợ để hoàn thiện các chính sách cho XKLĐ Việt Nam sau khủng hoảng.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến XKLĐ, trong đó
có làm rõ hơn khái niệm về xuất khẩu lao động;
- Phân tích những tác động (tiêu cực và tích cực) của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 đến XKLĐ nói chung và đến hoạt động XKLĐ của
Việt Nam nói riêng;
- Phân tích thực trạng XKLĐ của Việt Nam trước và sau khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2008;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực, phát
huy tác động tích cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nhằm đẩy
mạnh XKLĐ Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần nói đầu, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng, sơ đồ, biểu
đồ, đồ thị, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 3 chương
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của xuất khẩu lao động trước và
sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước và sau khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
Chương 3. Quan điểm, định hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động
của Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TRƯỚC VÀ SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
THẾ GIỚI NĂM 2008
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm về xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Xuất khẩu lao động là gì?
XKLĐ là bán sức lao động ra thị trường nước ngoài. Sức lao động gắn liền
với người lao động, do đó để XKLĐ, việc đầu tiên cần làm là đưa người lao động
ra nước ngoài để người này có thể bán sức lao động của mình cho người sử dụng
lao động ở nước ngoài. Việt Nam không ban hành luật về XKLĐ mà ban hành
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Năm 2006 Việt Nam ban
hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
(được Quốc Hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu lực từ
ngày 01/7/2007). Luật này đưa ra khái niệm “Đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài”. Điều 1 của Luật này quy định phạm vi điều chỉnh của Luật là “hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền và nghĩa
vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền và nghĩa vụ
của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Khái niệm về XKLĐ như sau: Xuất khẩu lao động, mà thực chất là xuất khẩu
hàng hóa - sức lao động, là hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước
ngoài trong một thời hạn nhất định theo hợp đồng hoặc theo thỏa thuận được ký
kết giữa các bên có liên quan theo đúng quy định của luật pháp nước gửi và nước
nhận lao động nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho cả người lao động lẫn
người sử dụng lao động.
1.1.1.2. Đặc điểm của xuất khẩu lao động
Thứ nhất, đặc điểm về hàng hóa sức lao động - đối tượng của XKLĐ
- Về chất lượng: Chất lượng của hàng hóa - sức lao động được phản ánh ở kỹ
năng, kinh nghiệm, tay nghề, khả năng dẻo dai, sự bền bỉ trong lao động của người
lao động. Ba điểm cần lưu ý khi đánh giá chất lượng của hàng hóa – sức lao động
với ý nghĩa là đối tượng của hoạt động XKLĐ. Đó là: i). Phụ thuộc vào sức khỏe
của người LĐ . Sức khỏe của người LĐ lại phụ thuộc vào tuổi tác của họ; ii). Phụ
thuộc vào trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp và khả năng sáng tạo của
7
người lao động. iii).Phụ thuộc vào môi trường và điều kiện tại nơi làm việc.
- Về tính chất của hàng hóa - sức lao động: XKLĐ là một loại hình xuất
khẩu dịch vụ vì vậy chất lượng hàng hóa - sức lao động không thể xác định thông
qua các tiêu chí định lượng, ngược lại, người ta phải có những tiêu chí khác khi
đánh giá chất lượng của sức lao động (căn cứ vào khả năng đáp ứng, kinh nghiệm,
sự sáng tạo của người lao động cũng như các điều kiện làm việc, sinh hoạt, nghỉ
ngơi của người lao động tại nước ngoài).
Thứ hai, đặc điểm về thị trường xuất khẩu lao động
Có sự hợp tác giữa các nước, đồng thời cũng có sự cạnh tranh giữa các DN,
các tổ chức kinh tế trong một quốc gia được phép tiến hành hoạt động đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài, cạnh tranh giữa các quốc gia XKLĐ với nhau.
Doanh nghiệp, quốc gia nào có được nguồn lao động có chất lượng cao, có tính
chuyên nghiệp, dịch vụ lao động đa dạng hơn đáp ứng yêu cầu của người sử dụng
lao động ở nước ngoài thì sẽ có nhiều hợp đồng hơn, chi phí môi giới rẻ và thu
nhập của người lao động do đó cũng cao hơn so với các nước khác.
Thứ ba, đặc điểm về mối quan hệ giữa các bên trong việc thực hiện hoạt động
xuất khẩu lao động
Góc độ thứ nhất là góc độ vĩ mô ở phạm vi quốc tế, liên quan đến nước
XKLĐ và nước NKLĐ: Mối quan hệ giữa các bên trong hoạt động XKLĐ tương
đối phức tạp có sự tham gia của người LĐ với các bên tại nước xuất khẩu và các
bên tại nước NKLĐ. Chế độ chính sách về XKLĐ và NKLĐ phải được hai Nhà
nước xây dựng đảm bảo sự hài hòa lợi ích của các bên; Góc độ thứ hai là góc độ
chỉ của nước XKLĐ hoạt động XKLĐ làm phát sinh mối quan hệ ba bên là người
lao động, Nhà nước và các tổ chức XKLĐ.
Thứ tư, đặc điểm về giá của hàng hóa - sức lao động và tính giới hạn của việc
sử dụng sức lao động
Thể hiện sự khác biệt giữa xuất khẩu hàng hóa - sức lao động với xuất khẩu
hàng hóa thông thường. Giá trị hàng hóa sức lao động gồm ba bộ phận: (i) Giá trị
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động của bản thân người
lao động; (ii) Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để người lao động có thể
nuôi sống gia đình họ; (iii) Chi phí đào tạo nghề nghiệp, chi phí để thỏa mãn các
nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động.
XKLĐ là một hoạt động có thời hạn và sau khi hợp đồng XKLĐ kết thúc,
người lao động vẫn có thể bán sức lao động cho người có nhu cầu nếu họ đáp ứng
8
được yêu cầu của người sử dụng lao động. Trường hợp này gọi là tái XKLĐ.
Thứ năm, đặc điểm về các tiêu chí đánh giá hiệu quả của xuất khẩu lao động
Mục đích nghiên cứu của luận án này không phải là đánh giá hiệu quả của
XKLĐ mà là đánh giá những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 đến XKLĐ nói chung và của XKLĐ của Việt Nam nói riêng nhằm tìm kiếm
giải pháp phù hợp để đẩy mạnh XKLĐ sau khủng hoảng. Do đối tượng của XKLĐ
là hàng hóa-sức lao động của con người, để đánh giá hiệu quả của XKLĐ cần được
xem xét dưới hai góc độ là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Về hiệu quả kinh tế
của XKLĐ được đánh giá dựa trên các tiêu chí kinh tế gắn liền với lợi ích có được
của các bên tham gia (thu nhập của người LĐ tích lũy hoặc gửi về cho gia đình;
Doanh số, lợi nhuận của các DN XKLĐ; Kim ngạch XKLĐ; Các khoản đóng góp
của XKLĐ vào ngân sách Nhà nước).
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu lao động
1.1.2.1. Căn cứ vào cơ sở phát sinh: XKLĐ thường gồm 5 loại là XKLĐ theo hiệp định,
XKLĐ theo hợp đồng, XKLĐ theo mô hình liên kết, XKLĐ thông qua các đơn hàng của
doanh nghiệp XKLĐ và XKLĐ thông qua hợp đồng tu nghiệp sinh, thực tập sinh.
1.1.2.2. Căn cứ vào chất lượng hàng hóa - sức lao động:
- XKLĐ giản đơn là hình thức theo đó người LĐ chưa qua đào tạo, trình độ
sức lao động thấp, chất lượng thấp, giá cả lao động rẻ.
- XKLĐ đã qua đào tạo là hình thức XKLĐ theo đó người lao động đã qua
đào tạo nghề theo định hướng tại các trường dạy nghề. Xu hướng trên thị trường
lao động quốc tế ngày càng có nhu cầu cao đối với hình thức XKLĐ này.
- XKLĐ có trình độ cao đối tượng được đưa đi XK là các chuyên gia, các nhà
khoa học, các kỹ thuật viên…
1.1.2.3. Căn cứ vào sự di chuyển hàng hóa sức lao động có các hình thức:
- XKLĐ trực tiếp: Theo đó sức lao động di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia,
người lao động được đưa ra nước ngoài làm việc có thời hạn.
- XKLĐ tại chỗ: Theo đó người lao động vẫn ở trong nước mình nhưng làm
việc cho các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nước ngoài tại chính nước mình.
XKLĐ của Việt Nam hiện nay được tiến hành theo các hình thức sau:
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với các doanh
9
nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực
tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình
thức thực tập nâng cao tay nghề;
- Hợp đồng cá nhân lao động trực tiếp ký kết với chủ sử dụng LĐ nước ngoài.
1.1.3. Vai trò và tác động của xuất khẩu lao động
1.1.3.1. Đối với nước xuất khẩu lao động
- XKLĐ góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm và giải quyết chính
sách xã hội cho người lao động: Số lao động được đưa ra nước ngoài làm việc hiện
nay phần lớn là người LĐ ở nông thôn, đang thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp.
- XKLĐ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Thông qua XKLĐ tay nghề
của một bộ phận người lao động được nâng lên nhờ được đào tạo và đào tạo lại khi
làm việc ở nước ngoài, góp phần hình thành đội ngũ công nhân có tác phong công
nghiệp, có kỷ luật lao động, có chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động, có trình
độ ngoại ngữ…Khi bộ phận NLĐ này về nước, họ sẽ đáp ứng tốt yêu cầu của các
nhà đầu tư theo chiều sâu, từ đó góp phần nhất định trong việc chuyển dịch kinh tế
theo cơ cấu nghề một cách hợp lý hơn.
- XKLĐ góp phần cải thiện chất lượng một bộ phận nguồn nhân lực: Thông
qua XKLĐ người lao động đến làm việc tại các nhà máy xí nghiệp với tác phong công
nghiệp hiện đại, quản lý sản xuất khoa học, có điều kiện tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Vì vậy, sau khi kết thúc thời gian làm việc ở nước ngoài trình độ tay nghề, tác phong,
kỷ luật lao động, họ trở thành những người công nhân có tác phong công nghiệp có tay
nghề, có ngoại ngữ. Điều này góp phần cải thiện chất lượng một bộ phận nguồn nhân
lực lao động trong nước khi họ trở về và cả ở nước XKLĐ.
- XKLĐ thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại: XKLĐ ngày càng đóng vai trò
thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế và phân công lao động quốc tế, các quan hệ kinh
tế đối ngoại đã tạo điều kiện cho việc mở rộng XKLĐ. XKLĐ còn là cầu nối để phát
triển hoạt động giao lưu văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia,
nâng cao vị trí chính trị và uy tín của nước XKLĐ trên trường quốc tế.
Vai trò quan trọng của XKLĐ đối với nước XKLĐ là không thể phủ nhận. Tuy nhiên,
XKLĐ cũng có những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội của nước XKLĐ:
- XKLĐ có thể gây khan hiếm cục bộ lao động nội địa: Ở một số nước
10
XKLĐ, trong một số giai đoạn có thể gây khan hiếm cục bộ LĐ trong các lĩnh vực
cần LĐ giản đơn, lao động đòi hỏi tay nghề cao, nhất là ở những nước và khu vực
có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, XKLĐ tăng cao nhưng thiếu kế hoạch phát triển
nguồn nhân lực bền vững. Hiện tượng “chảy máu chất xám” ra nước ngoài gia tăng
do có sự gia tăng về XKLĐ có trình độ chuyên môn cao gây nhiều khó khăn cho
nước XKLĐ, đặc biệt là các nước đang phát triển khi các nước này đang thực hiện
quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
- XKLĐ có thể ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn - xã hội: Khi người LĐ ra
nước ngoài làm việc ngoài những mặt tích cực mà họ tiếp thu từ nước ngoài, một bộ
phận người LĐ còn tiếp nhận cả những thói hư, tật xấu của xã hội nước nhập cư. Về
nước họ mang theo những thói xấu sẽ có tác động tiêu cực đến đời sống xã hội tại quê
nhà. Ngoại tệ người LĐ gửi về gia đình trong một số trường hợp không được sử dụng
hiệu quả dẫn đến tiêu cực, gây mất trật tự xã hội.
- XKLĐ có thể làm gia tăng tội phạm hình sự: Do quản lý XKLĐ buông
lỏng, chỉ tiêu XKLĐ thấp trong khi số lượng người LĐ muốn đi làm việc ở nước
ngoài cao một số DN XKLĐ đã xảy ra tình trạng tiêu cực như đút lót, hối lộ, lừa
đảo hoặc người LĐ phải trả các mức phí quá cao để được LĐ tại thị trường có thu
nhập cao thông qua môi giới XKLĐ. Điều này một phần làm gia tăng tội phạm
hình sự, gây phức tạp và ảnh hưởng đến an ninh và trật tự xã hội.
1.1.3.2. Đối với nước nhập khẩu lao động
- NKLĐ góp phần giải quyết nhu cầu thiếu hụt lao động của nước nhập
khẩu: Việc NKLĐ đã góp phần cải thiện tình hình khan hiếm lao động tại nước
tiếp nhận, làm tăng cung lao động, giảm căng thẳng cung cầu trên thị trường LĐ,
nhất là những công việc nặng nhọc mà LĐ bản xứ không muốn làm hoặc không
quen làm.
- NKLĐ tiết kiệm các chi phí đầu tư ban đầu cho người lao động: Nếu
không NKLĐ, nước NKLĐ phải bỏ ra một khoản chi phí để nuôi dưỡng và đào tạo
công dân nước mình cho đến tuổi LĐ. Nếu nhập khẩu LĐ có tay nghề còn tiết
kiệm cho nước nhập cư một khoản chi phí đào tạo không nhỏ.
- NKLĐ góp phần phát triển kinh tế và tích lũy cho xã hội: Những người LĐNK
khi tham gia vào quá trình sản xuất, tiêu dùng tại nước NK sẽ đóng góp một phần nhất
định vào sự phát triển KT-XH của nước NKLĐ, đồng thời thông qua các khoản đóng
góp của họ như thuế thu nhập, phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các loại phí
khác… họ đã làm gia tăng phần tích lũy cho xã hội của nước NKLĐ.
11
Ngoài những vai trò quan trọng mà NKLĐ mang lại cho nước nhập khẩu,
NKLĐ cũng có những tác động tiêu cực đối với nước NKLĐ, như:
- NKLĐ có thể gây trì trệ trong việc áp dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công
nghệ: Các chủ sử dụng LĐ dựa vào NKLĐ không lành nghề với giá rẻ nên ít quan
tâm đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như việc đổi
mới các trang thiết bị lao động khiến cho các cơ sở sử dụng LĐNK trở nên trì trệ,
chậm đổi mới sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hiện đại hóa của nước NKLĐ
- NKLĐ có thể dẫn đến tình trạng có một số ngành quá phụ thuộc vào lao
động nhập khẩu: Thực tế, LĐNK chỉ đến làm việc trong thời gian ngắn, thường là
3 đến 5 năm, nên luôn không ổn định về số lượng và trình độ chuyên môn, chưa kể
đến việc NKLĐ còn phụ thuộc vào chính sách nhập cư của Chính phủ và tình hình
kinh tế chính trị, … Do đó, việc quá phụ thuộc vào nguồn LĐNK về lâu dài sẽ có
tác động không tốt đối với một số ngành công nghiệp của nước NKLĐ.
- NKLĐ tạo ra cộng đồng lao động nhập cư: Những lao động nhập cư này
mang đến những điều tốt và cả những thói hư tật xấu trong lối sống, trong sinh hoạt
làm ảnh hưởng đến an ninh, đến trật tự xã hội, gây mất đoàn kết cộng đồng, gây nên
những phản ứng bài xích dân tộc có thể làm xấu quan hệ hữu nghị giữa các nước.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động
1.1.4.1. Cầu về xuất khẩu lao động: Cầu về XKLĐ của một số nước còn phụ thuộc
vào nhu cầu tiếp nhận LĐ của thị trường NKLĐ, vào thu nhập, điều kiện sống, làm việc
của người LĐ ở nước ngoài, vào chính sách NKLĐ của nước tiếp nhận lao động. Các
yếu tố khác như tôn giáo, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống cũng tác động đến
cầu về lao động. Khi cầu về LĐNK tăng, hoạt động XKLĐ sẽ có cơ hội phát triển
mạnh mẽ. Khi sản xuất tại nước NKLĐ bị thu hẹp, nạn thất nghiệp gia tăng thì cầu về
LĐNK cũng giảm, hoạt động XKLĐ sẽ gặp khó khăn về thị trường.
1.1.4.2. Nguồn cung về xuất khẩu lao động: Phụ thuộc vào số lượng, chất lượng LĐ
sẵn sàng tham gia XKLĐ, chính sách XKLĐ của từng nước. Thị trường lao động
thế giới đang có sự sàng lọc sau khủng hoảng kinh tế năm 2008, chất lượng LĐ
tham gia XKLĐ quyết định đến cung trong XKLĐ.
1.1.4.3. Cơ chế tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động xuất khẩu lao
động: Được xây dựng dựa trên chủ trương, chính sách, pháp luật của nước
XKLĐ và nước NKLĐ.
12
1.2. CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2008 VÀ
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 2008
1.2.1.1. Khái niệm về khủng hoảng kinh tế: khủng hoảng kinh tế thế giới, còn gọi
là khủng hoảng kinh tế toàn cầu, là sự suy giảm nghiêm trọng các hoạt động kinh
tế mà biểu hiện đầu tiên là sự suy thoái kinh tế diễn ra nhanh chóng theo chu kỳ
với quy mô không thể vực dậy với sự ảnh hưởng tiêu cực đến nền KT của nhiều
quốc gia và của nền KT toàn cầu.
1.2.1.2. Đặc điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008
Thứ nhất, khởi nguồn là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại Hoa Kỳ
Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ đã lan đến hầu hết các nước
ở Châu Âu và các nước khác.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế ở
phạm vi toàn cầu.
1.2.1.3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008
Thứ nhất, rủi ro cao tiềm ẩn ngay trong chính sách dễ dãi trong việc cho
phép các ngân hàng thương mại hoạt động đa năng
Thứ hai, sự thiếu kiểm soát của Chính phủ Hoa Kỳ trong hoạt động của các
công cụ tài chính mới.
Thứ ba, chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ cho phép mở rộng các hoạt động
mang tính đầu cơ đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán.
Thứ tư, tình trạng bong bóng của thị trường bất động sản và sự mất kiểm
soát của Chính phủ Hoa Kỳ.
Những phân tích trên cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 là
kết quả của một cuộc chạy đua tìm kiếm lợi nhuận một cách không kiểm soát, đẩy nền
kinh tế rơi vào suy thoái, kéo theo sự suy thoái kinh tế của nhiều nước và dẫn đến
cuộc khủng hoảng kinh tế mới, khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
1.2.2. Những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008
đến xuất khẩu lao động
1.2.2.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 có tác động tiêu cực đến
cầu về xuất khẩu lao động.
1.2.2.2. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 làm thay đổi nguồn cung
13
về xuất khẩu lao động
1.2.2.3. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 buộc các nước XKLĐ
phải xem xét lại cơ chế tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động XKLĐ của
mình.
1.2.2.4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 làm cho thị trường
XKLĐ bị xáo trộn
1.3. KINH NGHIỆM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.3.1. Kinh nghiệm của Philippine
1.3.1.1. Kinh nghiệm về tăng cường vai trò của Chính phủ trong việc quản lý
hoạt động XKLĐ Chính phủ Philippin khuyến khích các công ty XKLĐ tư nhân
lập quỹ lao động riêng của họ để sử dụng trong trường hợp NLĐ do công ty đưa ra
nước ngoài làm việc bị về nước trước thời hạn.
1.3.1.2. Kinh nghiệm về quản lý chặt chẽ đối với các công ty tuyển dụng LĐXK
Chính phủ Philippin quy định người LĐ Philippin đi làm việc ở nước ngoài được
cấp loại hộ chiếu có đóng dấu đặc biệt của Trung tâm dịch vụ LĐ thuộc POEA.
Quy định này giúp Chính phủ Philippin quản lý sát sao hơn đối với số LĐXK khi
họ sống và LĐ ở nước ngoài.
1.3.1.3. Kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện nhiều chính sách ưu đãi với người
lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng con đường hợp pháp Chính phủ đã cấp cho
người LĐXK giấy chứng nhận “Balik Manggagawa” trong đó đảm bảo sau khi họ về
nước sẽ được tiếp tục được nhận vào nơi làm việc trước khi đi.Với những chính sách
thiết thực như vậy của Chính phủ, người lao động Philippin làm việc ở nước ngoài rất
ít bỏ trốn sau khi hết hợp đồng lao động. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà Việt
Nam có thể nghiên cứu và áp dụng từ Philippin trong hoạt động XKLĐ.
1.3.2. Kinh nghiệm của Indonesia
1.3.2.1. Kinh nghiệm về việc coi XKLĐ là quốc sách, là ngành công nghiệp hàng
đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Chính phủ Indonesia trực tiếp quản
lý hoạt động XKLĐ thông qua cơ chế quản lý, điều hành chương trình việc làm ở
nước ngoài. Bộ Nhân lực và Di trú Indonesia được thành lập có nhiệm vụ cấp giấy
phép, giám sát hoạt động XKLĐ và đưa ra các hình thức xử lý vi phạm đối với
những cơ sở tư nhân hoạt động trong lĩnh vực tuyển dụng LĐXK.
1.3.2.2. Kinh nghiệm về việc giao nhiệm vụ tuyển dụng LĐXK cho cơ quan Nhà
nước đảm nhiệm Cơ quan tuyển dụng lao động Indonesia (PJTKI) trực thuộc Bộ
14
Lao động Indonesia là cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm tuyển dụng và gửi
người LĐ ra nước ngoài làm việc. Tuy nhiên, vai trò của PJTKI còn rất nhiều hạn
chế do mạng lưới hoạt động mới chỉ tập trung tại các thành phố, chưa vươn được
đến các vùng nông thôn nghèo nơi có nhu cầu lớn về XKLĐ của người dân. Đây là
kinh nghiệm cần được Việt Nam quan tâm xem xét trước khi áp dụng.
1.3.2.3. Kinh nghiệm về việc tạo lập cơ chế hữu hiệu để bảo vệ người LĐ trong
thời gian người LĐ làm việc ở nước ngoài cũng như khi họ về nước Sau khi
người lao động hồi hương, Indonesia đã có một bệnh viện chuyên điều trị cho những
người sau LĐ khi hồi hương. Việt Nam cần xem xét áp dụng hình thức này.
1.3.3. Kinh nghiệm của Ấn Độ
1.3.3.1. Kinh nghiệm về xử phạt nghiêm minh với chế tài phù hợp Cơ quan có
thẩm quyền có thể tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền ký quỹ của các tổ chức, cá
nhân làm nhiệm vụ tuyển chọn và đưa người LĐ đi nước ngoài khi các tổ chức này
vi phạm các cam kết. Trong những trường hợp cần thiết, Chính phủ có thể yêu cầu
hủy bỏ hợp đồng cung ứng LĐXK và cấm đưa người LĐ sang một số nước khác.
1.3.3.2. Kinh nghiệm về xuất khẩu chuyên gia công nghệ thông tin Để tiếp tục
giữ vững thị phần về XKLĐ, chuyên gia CNTT trước những biến động về cung cầu
trong XKLĐ dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế gới năm 2008, Chính
phủ Ấn Độ đã tích cực ký các thỏa thuận hợp tác với các nước Trung Đông, Châu Phi,
Đông Nam Á trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và kỹ thuật liên quan đến hoạt động
XKLĐ. Điều này sẽ tạo thuận lợi để các chuyên gia của Ấn Độ có thể sử dụng các
dịch vụ này một cách tốt nhất khi lao động của họ làm việc ở nước ngoài.
Chương 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
TRƯỚC VÀ SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2008
2.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
TRƯỚC VÀ SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2008
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước khi xẩy ra cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 2008
2.1.1.1. Về số lượng lao động xuất khẩu
Việt Nam đưa lao động ra nước ngoài làm việc có thời hạn đã được 33 năm.
XKLĐ của Việt Nam đã có những bước đột phá về số lượng. Chia khoảng thời gian
2000-2007 thành hai giai đoạn với mốc phân chia là năm 2004, đánh dấu sự sụt
15
giảm đáng kể của số lượng lao động xuất khẩu. Từ 2000-2003, số lao động đi làm
việc ở nước ngoài năm 2003 tăng mạnh, đạt 75.000 người (tăng 62,6% so với năm
2002 và 107,03% so với năm 2001). Năm 2003, do chiến tranh Iraq và dịch bệnh
viêm đường hô hấp cấp (SARS) nên Malaysia và Hàn Quốc đã tạm ngừng tiếp
nhận lao động Việt Nam từ 1/4/2003, Đài Loan hạn chế và kiểm tra Visa đối với
lao động Việt Nam hết sức chặt chẽ nhưng số lao động đi XKLĐ vẫn tăng nhanh.
Điều này có được một mặt là nhờ vào sự chuyển đổi cơ chế, chính sách của Nhà
nước, mặt khác là sự hỗ trợ tích cực của các ngành, địa phương cùng nỗ lực của
các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường XKLĐ.
2.1.1.2. Về cơ cấu lao động xuất khẩu
Cơ cấu theo giới tính: Trong những năm trước khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu lao động nam ra nước ngoài. Trung bình
trong giai đoạn 2000-2007, số lao động nam tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao
động chiếm gần 70% tổng số lao động nhập khẩu của Việt Nam. Việt Nam là nước
xuất khẩu nhiều lao động nam và hiện đang cố tăng dần tỷ trọng lao động nữ đi lao
động ở nước ngoài.
Lý do là vì lao động nữ ở Việt Nam có thể lực chưa tốt, ngoại ngữ yếu và vì
vậy lao động nữ là lực lượng khó tìm việc làm hơn cả. Thu nhập trong nước của họ
thấp hơn nam giới, hơn thế nữa cơ hội tìm kiếm việc làm ở ngoài nước phù hợp với
LĐ nữ không nhiều, thu nhập lại bấp bênh. Số lao động nữ này chủ yếu làm một số
công việc như: Công nhân ở các nhà máy dệt, may mặc, giúp việc gia đình, hộ lý…
Cơ cấu lao động theo trình độ tay nghề: Về trình độ tay nghề, lao động Việt
Nam ra nước ngoài làm việc phần lớn có trình độ tay nghề thấp, thậm chí không có
tay nghề. Đa số lao động Việt Nam mới chỉ tốt nghiệp cấp II, rất ít người có trình
độ văn hoá cấp III hoặc đã được đào tạo nghề trước khi ra nước ngoài làm việc.
Cơ cấu lao động theo ngành nghề: Giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế năm
2008, lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài luôn bị hạn chế bởi ngành nghề
lao động. Trong giai đoạn từ năm 2000-2007, lao động Việt Nam ra nước ngoài làm
việc trong các ngành nghề thuộc các lĩnh vực khác nhau như xây dựng, công nghệ
dân dụng, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, các dịch vụ vận tải biển.
Lao động nhập khẩu của Việt Nam cũng chỉ đảm nhận những công việc thủ công,
không đòi hỏi trình độ hay kỹ năng về chuyên môn cao như thợ xây dựng, thuyền viên,
thợ mỏ, y tá, canh tác nông nghiệp…Và những vị trí công việc này thường có thu nhập
thấp, điều kiện làm việc và môi trường lao động khó khăn, không thuận lơi.
16
2.1.1.3. Về thị trường xuất khẩu lao động
Trong thời gian trước khủng hoảng, tức là giai đoạn 2000-2007, thị trường
xuất khẩu lao động của Việt Nam đã mở rộng, lao động Việt Nam có mặt ở 40
quốc gia và vùng lãnh thổ, song đông đảo nhất là ở châu Á, trong đó có các thị
trường xuất khẩu lao động truyền thống như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và
Malaysia, ở Singapore… Như vậy, trước khi xẩy ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 2008, các thị trường nhập khẩu lao động chủ yếu của Việt Nam vẫn là các
thị trường XKLĐ truyền thống, gồm Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản.
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sau khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 cho đến hiện nay
2.1.2.1. Về số lượng lao động xuất khẩu
Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nên số lượng
lao động xuất khẩu bị giảm sút. Trong tháng 3/2013, Việt Nam mới chỉ đưa được
6.943 người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Đài Loan 2.998 người; Hàn Quốc
1.563 người; Nhật Bản 236 người; Malaysia 842 người; UAE 43 người, Ả rập Xê út
92 người...) Tính chung, ba tháng đầu năm 2013 mới chỉ đưa được 19.814 người ra
nước ngoài làm việc (Phong Cầm, 2013). Dự báo đến cuối năm 2013 Việt Nam khó
có thể hoàn thành được mục tiêu xuất khẩu lao động đã đặt ra.
2.1.2.2. Về cơ cấu lao động xuất khẩu
Số lượng lao động phổ thông đã giảm từ 77,98% xuống còn 55,39%, trong
khi lao động đã qua đào tạo tăng từ 22,02% lên 44.61%, trong đó đặc biệt là
chuyên gia kỹ thuật và lao động lành nghề tăng từ 2,44% lên 12,49%. Các ngành
nghề trong xuất khẩu lao động được mở rộng từ xây dựng, công nghiệp, y tế…sang
lâm nghiệp, vận tải, dịch vụ nhà hàng, khách sạn, sân gôn, bán hàng, quản lý chung
cư, bảo vệ tại các siêu thị, cửa hàng, khu thương mại….
2.1.2.3. Về thị trường xuất khẩu lao động
Tại thị trường Malaysia: Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008, từ năm 2009 đến nay, luật pháp Malaysia khắt khe hơn, thị trường lao
động Malaysia không có sự chênh lệch giữa thu nhập theo hợp đồng và bên ngoài
nên số lao động phá vỡ hợp đồng và bỏ trốn ra ngoài làm việc tại Malaysia không
đáng kể, chỉ chiếm dưới 1% trên tổng số lao động đưa đi.
Tại thị trường Đài Loan: Do có sự cạnh tranh khốc liệt sau khủng hoảng nên
năm 2012 Việt nam mới chỉ đưa sang Đài Loan là 30.533 người; Trong 4 tháng
đầu năm 2013 là 11.810 người.
17
Tại thị trường Hàn Quốc: Tính đến tháng 1 năm 2013, tỷ lệ lao động Việt
Nam bỏ trốn tại Hàn Quốc đã có dấu hiệu giảm tuy không đáng kể. Tình hình
này đang đặt ra cho Chính phủ và các cơ quan chức năng Việt Nam nhiều thách
thức, thử thách lớn để có các giải pháp cụ thể, mạnh mẽ, quyết liệt hơn đối với
lao động sang làm việc và học tập tại thị trường này.
Tại thị trường Nhật Bản: Năm 2013, Nhật Bản sẽ tăng số lượng tiếp nhận lao
động Việt Nam từ 7.000 lao động (năm 2012) lên khoảng 8.000-9.000 lao động
trong năm 2013. (Phong Cầm, Tienphongonline ngày 7/2/2013). Đây là cơ hội tốt
để đưa nhiều lao động Việt Nam sang Nhật Bản làm việc trong năm 2013 và cả
những năm tiếp theo.
2.1.2.4. Về hình thức xuất khẩu lao động
Hình thức xuất khẩu lao động cũng có những thay đổi nhất định. trước
khủng hoảng, các hình thức xuất khẩu lao động mà Việt Nam ưa chuộng là hình
thức xuất khẩu lao động được thực hiện bởi doanh nghiệp và tổ chức sự nghiệp
(chiếm tới 82%) thì sau khủng hoảng, hình thức này chỉ chiếm 73%. Xuất khẩu lao
động theo hình thức đấu thầu và đầu tư ra nước ngoài chiếm 8% ở giai đoạn trước
khủng hoảng thì sau khủng hoảng, hình thức này chiếm 14,84%. Xuất khẩu lao
động theo hình thức hợp đồng cá nhân chỉ chiếm 1% ở giai đoạn trước khủng
hoảng, sau khủng hoảng, hình thức này chiếm 4%...
2.1.3. Nhận xét chung về thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam
sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 cho đến hiện nay
2.1.3.1. Về thị trường XKLĐ: Việt Nam vẫn giữ được các thị trường XKLĐ trọng
điểm và truyền thống (Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản). Nhu cầu nhập
khẩu lao động từ Việt Nam sang 4 thị trường này vẫn cao cho dù có những biến
động nhất định về cung cầu lao động sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
Với thị trường Nhật Bản, do những thay đổi trong quan hệ đối ngoại – Việt Nam
có nhiều khả năng sẽ phát triển XKLĐ sang Nhật Bản trong những năm tới với
những đơn hàng mới đa dạng hơn... Đây là những thuận lợi và thành công trong
hoạt động XKLĐ của Việt Nam.
Bất cập lớn nhất trong XKLĐ của Việt Nam kể cả trước và sau khủng
hoảng, là tình trạng người LĐVN ở lại nước Sở tại một cách bất hợp pháp ngày
càng gia tăng. Tình trạng này nếu không có biện pháp ngăn chặn, xử lý mạnh thì
năng lực cạnh tranh trong XKLĐ của Việt Nam giảm sút và khó giữ được thị
trường. Đồng thời khi nguồn cung cho XKLĐ ở phạm vi toàn cầu đang dôi dư và
18
các nước xuất khẩu lao động đang tìm mọi biện pháp để cạnh tranh, giành giật thị
trường xuất khẩu lao động
2.1.3.2. Về chất lượng XKLĐ và cơ cấu ngành nghề: Từ sau khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2008, do nhận thấy được những biến động về cung và cầu đối với
chất lượng của nguồn LĐNK theo đó các nước NKLĐ, kể cả 4 nước nhập khẩu
nêu trên đang gia tăng nhu cầu về NKLĐ đã qua đào tạo, lao động có kỹ thuật (lao
động là sỹ quan trên biển, lao động trong ngành CNTT…), đặc biệt là lao động có
kỹ năng quản lý (quản lý nhà hàng, quản lý khu chung cư…), do đó trong những
năm gần đây Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam đã kịp thời chuyển hướng
sang XKLĐ các đối tượng lao động này. Đây là sự thành công đáng kể trong hoạt
động XKLĐ hiện nay, đặc biệt sau khủng hoảng. Tất nhiên số lượng lao động này
chưa tăng đáng kể.
2.2. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
THẾ GIỚI NĂM 2008 ĐẾN XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
2.2.1. Những tác động tiêu cực
2.2.1.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 làm gia tăng một lượng lớn lao
động Việt Nam phải về nước trước thời hạn Năm 2009, là năm XKLĐ tiếp tục
chịu tác động của khủng hoảng kinh tế năm 2008: Cầu về LĐXK giảm sút, một bộ
phận đáng kể lao động mất việc làm dẫn đến hậu quả là đã có khoảng 9.000 lao
động Việt Nam làm việc ở nước ngoài phải về nước trước hạn vì mất việc làm
(Nguyễn Ngọc Quỳnh, 2009).
Tại Đài Loan: Do tác động của cuộc khủng hoảng năm 2008, Đài Loan đã cắt
giảm hàng nghìn lao động nước ngoài trong đó có Việt Nam (nhà máy giảm giờ làm,
LĐ không có việc, không có giờ làm thêm, công nhân bị chuyển đổi nhà máy…, và số
cắt giảm này đã phải về nước trước hạn). (Cục quản lý lao động Ngoài nước, 2010).
Tại Malaysia: Do khó khăn về kinh tế, thị trường xuất khẩu hàng hóa bị thu
hẹp, nhiều nhà máy - xí nghiệp phải thu hẹp sản xuất, giảm giờ làm, Chính phủ
Malaysia đưa ra chính sách cắt giảm mạnh số lượng lao động nước ngoài trong đó
có lao động Việt Nam.
Tại Nhật Bản: Khủng hoảng kinh tế đã khiến kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là
khu vực cơ khí, chế tạo bị đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp năm 2009 là 4,4% cao nhất
trong 4 năm gần đây. Sự cắt giảm lao động trên toàn thế giới nói chung và tại một
số thị trường nước ngoài đã khiến lao động Việt Nam phải về nước trước thời hạn
với số lượng ngày càng gia tăng.
19
2.2.1.2. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 làm suy giảm số lượng lao
động xuất khẩu của Việt Nam Tại hầu hết các thị trường XKLĐ, do đó số LĐ
Việt Nam làm việc ở nước ngoài bị mất việc làm ngày càng gia tăng, nhiều LĐ làm
thủ tục xong nhưng lại từ chối không tham gia XKLĐ, LĐ bỏ hợp đồng do khủng
hoảng kinh tế (Nhà máy giảm giờ làm, công nhân không có việc, công nhân chuyển
nhà máy do chủ giảm giờ làm…) làm ảnh hưởng nhiều đến doanh nghiệp XKLĐ.
2.2.1.3. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 làm giảm thu nhập của lao
động Việt Nam, dẫn tới giảm sút nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia
Sự suy giảm của nguồn kiều hối do lao động xuất khẩu bị mất việc làm sẽ làm
gia tăng nghèo đói và tăng khoảng cách giàu nghèo. Theo đánh giá của Ngân hàng
thế giới (WB) thì nguồn kiều hối năm 2009 có thể giảm khoảng 0,9%, trong trường
hợp xấu nhất là 6%. Do lao động không muốn gửi tiền về nước qua các kênh chính
thống bởi sự suy giảm lòng tin đối với tính ổn định của hệ thống các ngân hàng
(Bích Thảo, 2009)
2.2.1.4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 gây ra nhiều tổn thất cho
các doanh nghiệp XKLĐ Việt Nam doanh nghiệp XKLĐ đang điêu đứng trước số
lượng lao động bị về nước trước thời hạn; Tình trạng chậm hoặc không thực hiện
được các hợp đồng XKLĐ doanh nghiệp Việt Nam đã ký với DN (đối tác) nước
ngoài; Ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong nước cũng như chủ trương xóa đói
giảm nghèo; Ảnh hưởng không tốt đến quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác.
Khủng hoảng diễn ra khiến cho việc thực hiện các hiệp định song phương về
XKLĐ đã ký với nước đối tác bị chậm tiến độ.
2.2.2. Những tác động tích cực
2.2.2.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 kích thích tính năng động, sự nhạy
bén của các doanh nghiệp XKLĐ nhằm tìm ra lối thoát mới Nhiều doanh nghiệp
XKLĐ đã chủ động tìm kiếm, khai thác các thị trường mới ngoài 4 thị trường trọng
điểm truyền thống; Nhiều doanh nghiệp XKLĐ đã ứng phó tốt với tình trạng lao
động phải về nước trước hạn; Một số thị trường khi khủng hoảng có dấu hiệu suy
giảm, các nước tiếp nhận lao động bắt đầu đưa ra những đơn hàng mới nhưng vẫn
không có lao động, một số doanh nghiệp XKLĐ cũng tìm cách đàm phán để giảm
thiểu phí môi giới cho người lao động, ký kết các đơn hàng mới hiệu quả thiết thực
đến thu nhập, việc làm, quyền lợi của người lao động.
2.2.2.2. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 là cơ hội để các cơ quan
quản lý Nhà nước thể hiện khả năng ứng phó linh hoạt trước những biến động
20
từ nền kinh tế thế giới Bộ LĐTB&XH. Bộ đã chỉ đạo triển khai những giải pháp
nhằm ổn định thị trường XKLĐ, tiếp tục đưa lao động mới XK đồng thời chuẩn bị
các điều kiện để đẩy mạnh XKLĐ khi nhu cầu lao động thế giới tăng lên; Công tác
quản lý và giải quyết các vấn đề phát sinh đối với LĐXK đang làm việc ở ngoài nước
cũng được thực thi tốt hơn bằng cách ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn, đặc
biệt trong trường hợp lao động phải về nước trước hạn.
2.2.2.3. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 khiến các doanh nghiệp
XKLĐ Việt Nam có nhiều sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh
đối với lao động làm việc ở nước ngoài về nước trước thời hạn
Dưới tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã có hàng loạt lao
động Việt Nam phải về nước trước thời hạn. Đồng thời phát sinh tranh chấp giữa
lao động với chủ sử dụng và doanh nghiệp XKLĐ. Số lao động về nước được các
doanh nghiệp XKLĐ làm thủ tục thanh lý hợp đồng theo đúng quy định của pháp
luật. Doanh nghiệp đã theo sát tình hình từng thị trường để phát hiện và giải quyết
các vấn đề phát sinh nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động, tránh
tình trạng lao động gửi đơn thư khiếu kiện gây ảnh hưởng đến công tác XKLĐ.
Với các doanh nghiệp có số lượng lớn lao động đang làm việc ở nước ngoài, khi có
tranh chấp phát sinh doanh nghiệp đã khẩn trương cử cán bộ phối hợp với đối tác
và chủ sử dụng lao động, Ban Quản lý lao động và Cục Quản lý lao động Ngoài
nước để phối hợp giải quyết theo chính sách và quy định của nước Sở tại không để
gây ảnh hưởng đến dư luận chung trong xã hội.
2.2.2.4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 cũng là cơ hội để Nhà
nước và doanh nghiệp XKLĐ nhìn nhận lại những điểm còn tồn tại, những hạn
chế trong công tác quản lý hoạt động XKLĐ, từ đó có những giải pháp kịp thời
nhằm đẩy mạnh hoạt động này trong giai đoạn sau khủng hoảng.
Hạn chế rõ nhất là số lượng LĐXK tuy tăng hàng năm nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động. Số lao động đi theo hợp đồng
nhận thầu, trúng thầu và lao động có trình độ kỹ thuật cao còn ít; Ý thức tuân thủ
pháp luật, cam kết trong hợp đồng của lao động Việt Nam chưa cao.
Nhiều doanh nghiệp XKLĐ chưa mạnh. Một số doanh nghiệp không chú
trọng công tác quản lý lao động ở nước ngoài, chậm phát hiện và xử lý các vấn đề
phát sinh đối với người lao động. Hoạt động của các Ban chỉ đạo xuất khẩu lao
động ở các địa phương chưa hiệu quả.
- Xem thêm -