Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng một số bài giảng dạy học chủ đề phương trình lượng giác nhằm phát huy t...

Tài liệu Xây dựng một số bài giảng dạy học chủ đề phương trình lượng giác nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh

.DOC
90
185
143

Mô tả:

Mở đầu 1. lý do chọn đề tài Việc phát huy tính tích cực của người học trong quá trình dạy học từ lâu đã được những nhà giáo dục coi là một trong những điều kiện cơ bản nhất để đạt kết quả cao trong quá trình dạy học. Muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học thì cần rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh, coi đây không chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả dạy học mà là mục tiêu quan trọng của dạy học. Trong thời đại “bùng nổ thông tin” hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, sự gia tăng nhanh chóng và thường xuyên của khối lượng thông tin, tri thức thì việc dạy không thể hạn chế ở chức năng dạy kiến thức mà phải tăng cường rèn luyện cho học sinh phương pháp học, thời gian học ở nhà trường lại có hạn nên đòi hỏi con người phải có thái độ và năng lực cần thiết để tự định hướng, tự cập nhật và làm giàu tri thức của mình nhằm đáp ứng được những yêu cầu của một thế giới thay đổi nhanh chóng. Muốn vậy cần phải có thói quen học tập suốt đời và phải phát huy được tính tích cực nhận thức trong quá trình học tập không thụ động vào kiến thức mà thầy cô nhà trường giảng dạy. Nói tới phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học, đó là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Nếu rèn luyện cho người học có được kỹ năng, phương pháp, thói quen tự học, biết ứng dụng những điều đã học vào những tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết những vấn đề gặp phải thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có của mỗi người. Học tập Toán không thể không đi theo xu thế đó. Đặc biệt phần phương trình lượng giác là phần không thể thiếu trong chương trình toán phổ thông, vì phần kiến thức này cung cấp hệ thống các kiến thức cơ bản về phương trình lượng giác, nhằm rèn luyện phát triển tư duy lôgic, kĩ năng vận dụng các kiến thức vào giải quyết bài tập. Tuy nhiên đây lại là phần có rất nhiều các công thức và rất dễ nhầm lẫn giữa công thức này và công thức khác, do vậy trong quá trình học học sinh cần phát huy tính tích cực nhận thức nhằm hiểu bài một cách sâu hơn và tránh thụ động. 1 Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Xây dựng một số bài giảng dạy học chủ đề phương trình lượng giác nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên của luận văn là nghiên cứu những cơ sở lý luận của tính tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, những biểu hiện của tính tích cực. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh thông qua dạy học phần phương trình lương giác, ban nâng cao lớp 11 trung học phổ thông. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung vào bốn nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến tính tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh và việc dạy học phần phương trình lương giác, đại số 11. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong quả trình học tập. - Đề xuất một số bài giảng dạy học nội dung phương trình lượng giác nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. - Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá hiệu quả của việc nghiên cứu và các giải pháp đã đề xuất, từ đó rút ra kết luận về khả năng áp dụng đố với phương án đã đề ra. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học phần phương trình lượng giác ở trường trung học phổ thông. - Đối tượng nghiên cứu: xây dựng một số bài giảng dạy học nội dung phương trình lượng giác nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. 5. Vấn đề nghiên cứu Dạy học nội dung phần phương trình lượng giác đại số 11 ban nâng cao như thế nào để nhằm phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh? 6. Giả thuyết khoa học 2 Dạy học nội dung phương trình lượng giác trong phần đại số 11 theo hướng phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn toán trong trường trung học phổ thông. 7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu nội dung phương trình lượng giác trong sách giáo khoa, sách bài tập đại số 11 ban nâng cao và sách tham khảo. 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lý luận của đề tài: + Bước đầu xác định được cơ sở lí luận cơ bản về tính tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh và quá trình dạy học theo hướng dạy cách phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. + Đề ra phương án dạy học nội dung phương trình lượng giác theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức cho học sinh Trung học phổ thông trong quá trình dạy học Toán. -Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: + Nội dung luận văn có thể giúp giáo viên có thêm tư liệu phục vụ việc giảng dạy chương: phương trình lượng giác lớp 11 ban nâng cao. + Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải bài toán phương trình lượng giác góp phần nâng cao chất lượng dạy học Toán trong trường phổ thông. 9. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Nghiên cứu lí luận: các cơ sở tâm lý học, giáo dục học và dạy học môn Toán; các định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán; các tài liệu, sách báo liên quan đến đề tài. - Điều tra và quan sát: điều tra việc dạy của giáo viên, học của học sinh, thực trạng vấn đề học của học sinh qua các hình thức: dự giờ, quan sát, phỏng vấn trực tiếp. - Thực nghiệm sư phạm: thực nghiệm sư phạm được tiến hành để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các giải pháp đã được đề xuất trong luận văn. 3 10. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày theo 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Chương 2. Xây dựng một số bài giảng chủ đề phương trình lượng giác nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh Chương 3. Thực nghiệm sư phạm 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Một số khái niệm tính tích cực 1.1.1 Một số quan niệm về tính tích cực Đây là một khái niệm rộng ở ở tất cả các lĩnh vực khoa học như triết học, sinh vật học, tâm lý học, giáo dục học. Có rất nhiều các quan niệm khác nhau về tính tích cực: - Các nhà triết học duy vật cho rằng: tính tích cực là sự vận động của vật chất. Sự vận động thay đổi này có thể nhận thấy ngay ở mức độ thấp nhất của vật chất, giúp cho sự vật thoát khỏi trạng thái nằm yên. - Các nhà tâm lý học cho rằng: tính tích cực được đặt trong mối quan hệ với hoạt động luôn xuất hiện động lực và dẫn đến hoạt động phản ứng của cơ thể để vượt khó khăn trở ngại và từ đó thể hiện tính chất độc lập của chủ thể với môi trường. + Tính chất vượt khó khăn trở ngại trong môi trường hoàn cảnh theo mục đích vạch ra của chủ thể. + Thể hiện tính ổn định, bền vững của hoạt động tạo thành kiểu phản ứng môi trường. Lại có ý kiến cho rằng: tính tích cực là lòng mong muốn không chủ định gây nên những biểu hiện bên ngoài hoặc bên trong của hoạt động. Tóm lại: tính tích cực của cá nhân là sự biểu hiện nỗ lực của cá nhân ( ý chí, trí, lực…) trong quá trình tác động đến đối tượng ( nhận thức, tái tạo…) nhằm thu lượm được kết quả cao trong quá trình hoạt động của cá nhân. Tính tích cực gắn với hoạt động trạng thái của chủ thể, nó bao hàm cả tính chủ động có ý thức của chủ thể. 1.1.2 Khái niệm tính tích cực nhận thức Để tiếp cận được với khái niệm tính tích cực nhận thức, chúng ta phải đứng trên góc độ triết học, tâm lý học, giáo dục hoc. 5 - Theo tâm lí học: tính tích cực nhận thức có thể hiểu là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí, nhằm giải quyết các vấn đề học tập và nhận thức góp phần làm cho nhân cách của chủ thể được phát triển, nó vừa là mục đích hoạt động, vừa là phương tiện, là điều kiện để đạt được mục đích, vừa là kết quả của hoạt động. Nó là phẩm chất hoạt động của cá nhân. - Theo giáo dục học hiện đại cho rằng: tính tích cực nhận thức là một tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tâp. Như vậy, tính tích cực nhận thức có hai tính chất nổi bật liên quan chặt chẽ với nhau, đó là: + Thái độ của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức. + Sự thay đổi bên trong các mô hình tâm lí của hoạt động nhận thức. 1.2 Những biểu hiện của tính tích cực nhận thức - Khả năng định hướng đổi mới nhiệm vụ nhận thức và định hướng khi nghiên cứu tài liệu học tập. - Hứng thú sâu sắc đối với nhiệm vụ học tập và với đối tượng nghiên cứu. - Sự tập trung chú ý cao, sự căng thẳng trí tuệ. - Có ý chí kiên trì, khắc phục khó khăn, huy động tất cả những kiến thức để hoàn thành nhiệm vụ. - Khả năng linh hoạt để đáp ứng lại những tình huống khác nhau để tìm cách giải quyết vấn đề, từ đó kiểm tra kết quả giải quết vấn đề. Biểu hiện này là biểu hiện đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất của tính tích cực nhận thức, thể hiện bản chất của tính tích cực nhận thức - Một là: Tính tích cực tái hiện ( mức độ bắt chước): chủ thể nhận thức chủ yếu dựa vào trí nhớ đê tái hiện lại những điều đã được nhận thức. 6 - Hai là: Tính tích cực tìm tòi: đặc trưng bằng sự bình phẩm, phê phán, tìm tòi trong quá trình nhận thức. Thể hiện óc sáng kiến, lòng khao khát hiểu biết, hứng thú học tập. Tính tích cực loại này không bị hạn chế trong khuôn khổ những yêu cầu của giáo viên trong giờ học. - Ba là: Tính tích cực sáng tạo: là mức độ cao nhất của tính tích cực nhận thức, nó đặc trưng bằng sự khẳng định con đường riêng của mình, thể hiện sự độc lập nhận thức không giống với con đường của mọi người đã thừa nhận, để đạt được mục đích. Để giúp giáo viên phát hiện các em có tích cự nhận thức hay không, cần dực vào một số dấu hiệu sau đây: - Có chú ý học tập không? - Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức hoạt động học tập hay không (thể hiện ở việc hăng hái phát biểu ý kiến, ghi chép...)? - Có hoàn thành những nhiệm vụ đợc giao không? - Có ghi nhớ tốt những điều đã được học không? - Có hiểu bài học không? - Có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngôn ngữ riêng không? - Có vận dụng được các kiến thức đã học vào thực tiễn không? - Tốc độ học tập có nhanh không? - Có hứng thú trong học tập hay chỉ vì một ngoại lực nào đó mà phải học? - Có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn trong học tập không? - Có sáng tạo trong học tập không? Sự biểu hiện và cấp độ từ thấp đến cao của tính tích cực học tập, mối liên quan giữa động cơ và hứng thú trong học tập được diễn đạt trong sơ đồ sau: 7 TÍCH CỰC HỌC TẬP BIỂU HIỆN CẤP ĐỘ -Khao khát học, hăng hái trả lời câu hỏi; - Bắt trước; - Tìm tòi; -Hay nêu thắc mắc; - Sáng tạo. - Chủ động vận dụng; -Tập trung chú ý. ĐỘNG CƠ HỨNG THÚ TỰ GIÁC TÍCH CỰC SÁNG TẠO ĐỘC LẬP 8 1.3 Mức độ tính tích cực nhận thức của học sinh Về mức độ tích cực của học sinh trong quá trình học tập có thể không giống nhau, giáo viên có thể phát hiện được điều đó nhờ dựa vào một số dấu hiệu sau đây: - Tự giác học tập hay bị bắt buộc bởi những tác động bên ngoài (gia đình, bạn bè, xã hội). - Thực hiện yêu cầu của thày giáo theo yêu cầu tối thiểu hay tối đa? - Tích cực nhất thời hay thường xuyên liên tục? - Tích cực tăng lên hay giảm dần? - Có kiên trì vượt khó hay không? 1.4 Một vài đặc điểm tính tích cực nhận thức của học sinh Tính tích cực của học sinh có mặt tự phát và mặt tự giác: Mặt tự phát: là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu kì, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà trẻ đều có ở những mức độ khác nhau. Cần coi trọng những yếu tố tự phát này, nuôi dưỡng, phát triển chúng trong dạy học. Mặt tự giác: là trạng thái tâm lí có mục đích và đối tượng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học. Tính tích cực nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà còn từ nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức thẩm mỹ, nhu cầu giao lưu văn hóa... Hạt nhân cơ bản của tính tích cực nhận thức là hoạt động tư duy của cá nhân được tạo nên do sự thúc đẩy của hệ thống nhu cầu đa dạng. Tính tích cực nhận thức và tính tích cực học tập có liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không phải là đồng nhất. Có một số trường hợp, tính tích cực học tập thể hiện ở sự tích cực bên ngoài, mà không phải là tính tích cực trong tư duy. Đó là những điều cần lưu ý khi đánh giá tính tích cực nhận thức của học sinh. Gần đây một số nhà lí luận dạy học cho rằng: với những học sinh khá, giỏi, thông minh... việc sử dụng biện pháp giáo cụ trực quan, phương pháp dạy học nêu 9 vấn đề … đôi khi như là một vật cản, làm chậm quá trình tư duy vốn diễn ra rất nhanh và diễn ra qua trực giác của các em này. Đối với những học sinh này, trong nhiều trường hợp tri thức được lĩnh hội bằng trực giác. 1.5 Về nguyên nhân của tính tích cực nhận thức của học sinh Tính tích cực nhận thức của học sinh tuy nẩy sinh trong quá trình học tập nhưng nó lại là hậu quả của nhiều nguyên nhân: có những nguyên nhân phát sinh lúc học tập, có những nguyên nhân hình thành từ quá khứ, thậm trí từ lịch sử dài lâu của nhân cách. Nhìn chung, tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: - Bản thân học sinh: + Đặc điểm hoạt động trí tuệ (tái hiện, sáng tạo...). + Năng lực (hệ thống tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, sự trải nghiệm cuộc sống...) + Tình trạng sức khỏe. +Trạng thái tâm lí (hứng thú, xúc cảm, chú ý, nhu cầu, động cơ, ý chí...). + Điều kiện vật chất, tinh thần (thời gian, tiền của, không khí đạo đức). + Môi trường tự nhiên, xã hội. - Nhà trường: + Chất lượng quá trình dạy học giáo dục (nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức kiểm tra đánh giá...). + Quan hệ thày trò. + Không khí đạo đức nhà trường. - Gia đình; - Xã hội. Trong những nhân tố trên đây, có những nhân tố có thể hình thành ngay, nhưng có những nhân tố chỉ được hình thành qua một quá trình lâu dài dưới ảnh hưởng của nhiều tác động. Như vậy, việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh đòi hỏi một kế hoạch dài lâu và toàn diện khi phối hợp hoạt động gia đình, nhà trường và xã hội. 10 1.6 Hứng thú và vấn đề tích cực hoạt động nhận thức của học sinh Để tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, hứng thú là vấn đề được các thầy giáo quan tâm nhất vì: - Nó có thể hình thành ở học sinh một cách nhanh chóng và bất cứ lúc nào trong quá trình dạy học. - Có thể gây hứng thú ở học sinh mọi lứa tuổi. - Điều quan trọng hơn cả là nó nằm trong tầm tay của người thầy. Người thầy có thể điều khiển hứng thú của học sinh qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức; qua các bước lên lớp: mở bài, giảng bài mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ thầy trò… Về phía học sinh, nhất là học sinh nhỏ tuổi, vai trò hứng thú đối với kiến thức giữ vị trí rất quan trọng trong việc làm cho các em tích cực học tập. Vấn đề kích thích hứng thú học tập? Mọi người đều biết, hứng thú là sự phản ánh thái độ (mối quan hệ) của chủ thể đố với thực tiễn khách quan. Đây là sự phản ánh có chọn lọc. Thực tiễn rất rộng lớn, nhưng con người chỉ hứng thú những cái gì cần thiết, quan trọng, gắn liền với kinh nghiệm và sự phát triển tương lai của họ. Nói cách khác, muốn kích thích hứng thú thì điều quan trọng nhất là phải nắm được khả năng, nhu cầu, nguyện vọng và định hướng giá trị của học sinh. Xét về môi trường, hứng thú là sự thống nhất giữa bản chất bên trong của chủ thể và thế giới khách quan. Như vậy, hứng thú không phải là một quá trình tự lập và khép kín mà phải có nguồn gốc từ cuộc sống tự nhiên và xã hội xung quanh. Nếu ta thay đổi điều kiện sống thì hứng thú có thể thay đổi. Điều đó có nghĩa là có thể điều khiển được hứng thú, khác với quan niệm cho rằng hứng thú là một cái gì bẩm sinh, bất biến. Sự thống nhất giữa môi trường và chủ thể ở đây trước hết phải thể hiện sự thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích xã hội; ở sự đồng đều về hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo; ở sự đồng cảm trong quan hệ thầy trò; ở không khí đạo 11 đức chung của tập thể (trường, lớp); ở sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục. Tất cả những điều trên là cần thiết, nhưng chúng thường được triển khai trong một kế hoạch dài lâu và có sự phối hợp của nhiều người, nhiều thành phần xã hội. Điều mà thầy giáo phải thực hiện thường xuyên là kích thích hứng thú trong quá trình dạy hoc thông qua các yếu tố của nó: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, lúc mở bài, lúc dạy bài mới, lúc kiểm tra, đánh giá… Hiện nay, việc phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh đang tập trung vào hướng này. 1.7 Một số quan điểm nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh Phát huy tính tích cực nhận thức không phải vấn đề mới. Từ thời cổ đại các nhà sư phạm tiền bối như Khổng Tử, Aristot…đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và đã nói lên nhiều biện pháp, phát huy tính tích cực nhận thức. Trong thế kỉ 20, các nhà giáo dục Đông, Tây, đều tìm kiếm con đường tích cực hóa hoạt động dạy học. Chúng ta thường kể đến tư tưởng của các nhà giáo dục nổi tiếng như B.P.Êxipop, M.A.Danilop, M.N.Xcatkin, I.F.Kharlamop, I.I.Xamova (Liên xô), Okon (Ba lan), Skinner (Mĩ)…Ở Việt Nam các nhà lí luận dạy học cũng viết nhiều về tính tích cự nhận thức của học sinh như Hà Thế Ngữ, Nguyễn Ngọc Quang, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Bá Kim…và rất nhiều công trình luận án phó tiến sĩ đã và đang được bảo vệ của các nhà khoa học. Cụ thể: Theo Nguyễn Bá Kim  112 có đề cập đến việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Phương pháp dạy học cần hướng vào việc tổ chức cho người học học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo. Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ với những hoạt động nhất định. Do đó cần phát hiện được những hoạt động như vậy để người học chiếm lĩnh nội dung và đạt được những mục tiêu dạy học khác. Cụ thể: 12 - Xác lập vị trí chủ thể của người học, đảm bảo tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của hoạt động học tập được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu. - Tri thức được cài đặt trong tình huống có sư phạm. - Dạy việc học và dạy tự học thông qua toàn bộ quá trình dạy học. - Tự tạo và khai thác những phương tiện dạy học để tiếp nối và gia tăng sức mạnh của con người. - Tạo niềm lạc quan học tập dựa trên lao động thành quả của bản thân người học. - Xác định vai trò mới của người thầy với tư cách người thiết kế,ủy thác, điều khiển và thể chế hóa.. Theo Đặng Vũ Hoạt nêu ra các phương hướng lớn sau: - Giáo dục động cơ, thái độ học tập. - Thực hiện dạy học nêu vấn dề là phương án cơ bản nhất. - Vận dụng kiến thức vào nhiều hoàn cảnh khác nhau, giải bài tâp, giải vấn đề bằng nhiều cách khác nhau. - Gắn lí luận với thực tiễn khai thác vốn sống của học sinh. - Phát triển ý thức tự kiểm tra, tự đánh giá của học sinh. Theo Thái Duy Tuyên  269 nêu các biện pháp nâng cao tính tích cực nhận thức của học sinh trong giờ lên lớp như sau: - Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. - Nội dung dạy học phải mới, những cái mới ở đây không phải quá xa la với học sinh, cái mới phải được liên hệ và phát triển từ cái cũ. Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, với suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của các em. - Phải dùng các phương pháp đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, làm việc độc lập và phối hợp chúng với nhau. Kiến thức phải 13 được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với nhau. Những vấn đề quan trọng, các hiện tượng then chốt, bất ngờ. - Sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt ở các lớp nhỏ, dụng cụ trực quan có tác dụng tốt trong việc kích thích hứng thú của trẻ. - Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: cá nhân, nhóm, tập thể, tham quan, làm việc trong vườn trường trong phòng thí nghiệm… - Thầy giáo, bạn bè động viên, khen thưởng khi có thành tích học tập tốt. - Luyện tập dưới các hình thức khác, vận dụng kiến thức vào thực tiễn vào các tình huống mới. - Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy giáo và học sinh. - Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong quá trình học tập. - Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong học tập qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động xã hội. - Tạo không khí đạo đức lành mạnh trong lớp, trong trường, tôn vinh sự học nói chung và biểu dương những học sinh có thành tích học tập tốt. - Có sự động viên, khen thưởng từ phía gia đình và xã hội. Trong thời gian tới nên điều chỉnh công tác nghiên cứu và chỉ đạo vấn đề tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh theo một số hướng cơ bản sau: - Nghiên cứu phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức sáng tạo chứ không dừng lại mức độ tái hiện như hiện nay. - Phát huy sức mạnh bản chất của người học, mà theo K.Mark đó là: trí tuệ, tâm hồn và ý chí. Đặc biệt là sức mạnh tâm hồn (hứng thú, xúc cảm...) là điều lâu nay chưa được chú ý đúng mức. - Phối hợp chặt chẽ và khoa học hơn nữa giữa các thầy giáo, các nhà quản lí, các nhà văn hóa và phụ huynh học sinh. - Trong quá trình dạy học nên vận dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực như: 14 - Phương pháp nêu vấn đề; - Phương pháp dạy học theo tình huống; - Phương pháp dạy học theo nhóm; - Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề; - Phương pháp dạy học thông qua thực hành dạy. 1.8 Những nguyên tắc sư phạm cần đảm bảo để nâng cao tính tích cực nhận thức cho học sinh Qua những cơ sở lý luận trên ta nhận thấy muốn nâng cao tính tích cực nhận thức của học sinh cần dảm bảo những nguyên tắc sau: - Việc dạy học phải được tiến hành ở mức độ gắng sức đối với học sinh. Cần phải lôi cuốn học sinh vào hoạt động nhận thức tích cực, kích thích sự ham hiểu biết của học sinh, có chú trọng đến năng lực và khả năng của học sinh sao cho mỗi học sinh phải huy động hết mức trí lực của mình. Giáo viên không nên làm cho hoạt động học tập trở nên khó khăn với học sinh bằng bài tập tình huống khó mà phải tạo cho học sinh một chướng ngại nhận thức bằng những bài tập sáng tạo và rèn luyện ý chí nhận thức. - Việc nắm vững kiến thức lý thuyết phải chiếm ưu thế. Cần giúp học sinh nắm vững một cách sâu sắc nội dung lý thuyết, đi sâu vào bản chất của các hiện tượng và các chất nghiên cứu nhằm lĩnh hội những quan điểm và khái niệm quan trọng nhất. Nội dung lý thuyết, khái niệm là cơ sở cho tư duy hoạt động trí tuệ. - Trong quá trình dạy học phải duy trì nhịp độ khẩn trương của việc nghiên cứu tài liệu, còn những kiến thức đã lĩnh hội sẽ được củng cố khi nghiên cứu kiến thức mới. Qua thực tế đã chứng minh việc dừng lại lâu để nghiên cứu một nội dung học tập sẽ chóng làm học sinh mệt mỏi vì tính chất đơn điệu của nó, nên khi học sinh đã hiểu một số vấn đề rồi thì phải chuyển sang nghiên cứu vấn đề khác. Như vậy hoạt động của học sinh sẽ được liên tục, không bị nhàm chán. - Trong dạy học phải tích cực chăm lo sự phát triển trí tuệ của tất cả 15 các đối tượng học sinh (khá giỏi, trung bình, yếu kém). Giáo viên điều khiển, chỉ đạo hoạt động trí tuệ của học sinh theo năng lực của họ làm cho học sinh tư duy tích cực để vượt qua chướng ngại nhận thức bằng hoạt động tự lực, độc lập. Như vậy những nguyên tắc trên đều hướng tới các hoạt động điều khiển của giáo viên nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong đó có chú trọng đến việc dạy học sinh phương pháp học tập, phương pháp hoạt động trí tuệ, hình thành năng lực giải quyết vấn đề và khả năng tự đánh giá kết quả học tập của mình. 1.9 Phương pháp dạy học và vấn đề phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học môn toán 1.9.1. Phương pháp dạy học Theo Nguyễn Bá Kim  11 : “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động và giao lưu của thầy gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạt được các mục đích dạy học”. Vậy phương pháp dạy học được coi như những phương thức làm việc của giáo viên nhằm vào tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh, phương thức tương tác giữa người dạy và người học nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nhấn mạnh vai trò người thầy, mà ở đây thầy giữ vai trò chủ đạo còn trò là chủ thể của quá trình học tập với các hoạt động tự giác, tích cực. 1.9.2. Tổng thể các phương pháp dạy học Hiện nay có nhiều hệ thống phân loại các phương pháp dạy học nhưng chưa hoàn chỉnh và chưa nhận được sự thống nhất trên phạm vi quốc tế. Có điều đó là do tính nhiều chiều của phương pháp dạy học. Tùy theo xét về phương diện này hay phương diện khác mà có thể liệt kê các phương pháp dạy học theo cách này hay cách khác. Một hệ thống chặt chẽ về phương pháp dạy học chưa chắc đã có giá trị trong thực tiễn. Vấn đề quan trọng là người giáo viên phải biết xem xét các phương diện khác nhau, biết lựa chọn, sử dụng những phương pháp cho đúng lúc, 16 đúng chỗ và biết vận dụng phối hợp một số trong các phương pháp đó khi cần thiết. Có thể trình bày các phương pháp dạy học thành một tổng thể theo các phương diện sau: Những chức năng điều hành quá trình dạy học: Đảm bảo trình độ xuất phát; Hướng đích và gợi động cơ; Làm việc với nội dung mới; Củng cố (được thực hiện qua các hình thức: nhắc lại, đào sâu, luyện tập, hệ thống hóa và thực hành); Kiểm tra và đánh giá; Hướng dẫn công việc về nhà. Những con đường nhận thức: Suy diễn; Quy nạp. Những hình thức hoạt động bên ngoài của giáo viên và học sinh: Giáo viên thuyết trình; Giáo viên, học sinh vấn đáp; Học sinh hoạt động độc lập. Những mức độ tìm tòi khám phá: Truyền thụ những tri thức dưới dạng có sẵn; Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. Những hình thức tổ chức dạy học: Căn cứ vào số lượng học sinh trong đơn vị học tập, có thể có các hình thức: dạy học theo lớp, dạy học theo nhóm, dạy học theo từng cặp. Những phương tiện dạy học: Sử dụng phương tiện nghe nhìn; Sử dụng phương tiện chương trình hóa; Làm việc với Sách giáo khoa; Làm việc với bảng treo tường; Sử dụng máy tính điện tử như công cụ dạy học. Những tình huống dạy học điển hình trong môn Toán có thể kể: Dạy học những khái niệm Toán học; Dạy học những định lý Toán học; Dạy học những quy tắc, phương pháp; Dạy học giải bài tập Toán học. 1.9.3 Phương pháp dạy học và vấn đề phat huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học môn toán Có thể nói hứng thú là một trong các con đường chủ yếu để làm cho việc học tập trong nhà trường trở thành nguồn vui. Hứng thú chính là một cơ chế bên trong đảm bảo học tập có hiệu quả. Do vậy việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú, muốn vậy phải để cho học sinh độc lập tìm tòi, giáo viên chỉ là người tổ chức, thiết kế, cố vấn. Hứng thú là yếu tố dẫn đến sự tự giác. Hứng thú và tự giác là những yếu tố tâm lý đảm bảo tính tích cực và độc lập sáng tạo trong học tập. 17 Ngược lại nếu học tập mà tích cực và độc lập sáng tạo thì sẽ có ảnh hưởng tới sự phát triển hứng thú và tự giác. Từ đó thì rõ ràng là phương pháp dạy học nào tạo được hứng thú học tập phù hợp với năng lực và nhu cầu của học sinh là phương pháp phát huy được tính tích cực của học sinh. Tính tích cực nhận thức cũng là kết quả và là sự biểu hiện của sự nảy sinh và phát triển tính tự lực nhận thức. Tính tích cực học tập trước hết liên quan đến động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú, hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực, tính tích cực sản sinh tư duy độc lập. Qua đó thì phương pháp dạy học nào kích thích được tính tích cực nhận thức, kích thích được các hoạt động tư duy, hướng dẫn tạo điều kiện phát triển các hoạt động tự nhận thức của học sinh là các phương pháp phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh. Điều kiện tiên quyết để phát triển tính độc lập tư duy là việc nắm tri thức mới bằng con đường giải quyết các vấn đề. Một mức độ thấp hơn của tính độc lập là tự giải quyết vấn đề do một người khác đặt ra và tùy theo khả năng tìm cách kiểm tra kết quả. Tính độc lập trong tư duy và trong hành động của học sinh là biểu hiện quan trọng của tính tích cực. Tính độc lập cũng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các trí tuệ khác của học sinh như tư duy sáng tạo, lòng dũng cảm... Vậy phương pháp dạy học mà theo đó phát triển, rèn luyện được tính độc lập của tư duy cũng chính là phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh. Việc giải quyết độc lập những bài toán có tính vấn đề sẽ thúc đẩy sự phát triển năng lực sáng tạo. Tính sáng tạo của tư duy chỉ có thể được nảy nở trên cơ sở của tư duy độc lập. Tính độc lập của tư duy và tính sáng tạo không khác nhau về bản chất. Tư duy sáng tạo là một dạng tư duy độc lập tạo ra ý tưởng mới, độc đáo và có hiệu quả cao. Dạy học phát triển, rèn luyện được tư duy sáng tạo chính là đã phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu ở trình độ cao nhất. Khi đã có tư duy sáng tạo thì học sinh luôn luôn tự mình đặt ra các vấn đề, giải quyết chúng theo những hướng, cách thức rất độc đáo. Do vậy, các phương pháp rèn luyện, phát 18 triển được tư duy sáng tạo cho học sinh cũng chính là các phương pháp phát huy tính tích cực nhận thức cho học sinh, hơn nữa còn ở mức độ cao nhất. Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống, hay phải "nhập nội" một số phương pháp xa lạ vào quá trình dạy học. Vấn đề là ở chỗ cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của phương pháp dạy học hiện có, đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới một cách linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện dạy và học cụ thể. 1.10 Thực trạng của vấn đề dạy học Toán theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh ở trường Trung học phổ thông Yên Phong số 1 Qua việc tổng kết kinh nghiệm dạy học của bản thân, của các đồng nghiệp, qua trao đổi trực tiếp với các em học sinh, dự giờ thăm lớp qua các năm học, có thế nhận thấy: Đa số cho rằng việc học là để đối phó với các kì thi, kiểm tra của thầy, chưa thấy được tính tích cực trong các giờ học. Việc học Toán chủ yếu là dành cho việc học bài cũ và làm bài về nhà, cố gắng hoàn thành hết bài tập giáo viên giao về (bằng mọi cách có thể) và học thuộc trong vở ghi mà chưa chú trọng vào việc tự học kiến thức mới. Việc học trên lớp diễn ra hạn chế, nhiều học sinh đến lớp chỉ nghe, ghi chép thụ động mà không tự mình suy nghĩ để tiếp nhận kiến thức mới. Đặc biệt là học sinh không “quen” và không biết tự nghiên cứu tài liệu. Hầu hết giáo viên chỉ chú trọng giao bài tập về nhà để học sinh học nhưng ít chú ý đến việc tổ chức cho học sinh những tiết dạy nhằm phát huy tính tích cực nhận thức ngay bài trên lớp để tạo thói quen tự nghiên cứu. Khi ở trên lớp thì giáo viên chỉ quen thuộc với cách kiểm tra bài cũ đầu giờ sao cho đủ điểm miệng, việc kiểm tra định kỳ chỉ là thực hiện theo phân phối chương trình, trước khi kiểm tra sẽ giới hạn cho học sinh một phần kiến thức. Đặc biệt là giáo viên thường tập trung truyền thụ cho hết kiến thức bài học, mà chưa thực sự chú ý đến hình thành và rèn luyện năng lực tự học trong suốt quá trình học. Còn với mỗi giờ luyện tập, 19 việc dạy Toán hiện nay mang nặng tính luyện thi, nhằm mục đích đạt được khối lượng kiến thức mà chưa chú ý đến việc dạy học sinh cách học, cách tư duy, cách phát hiện và giải quyết vấn đề. Học sinh được cung cấp nhiều dạng bài tập, sau đó được luyện tập do đó mà kỹ năng phân tích, kỹ năng tổng hợp cũng không được chú ý và rèn luyện, học sinh chỉ có cách học thuộc lời giải đó. Khi gặp những bài tập không nằm trong dạng đã học thì học sinh loay hoay không biết hướng giải quyết như thế nào. Học sinh bị lệ thuộc vào giáo viên, chỉ biết giải quyết các dạng bài mà giáo viên giao cho, không biết hệ thống kiến thức đã học theo quan điểm của riêng mình. Với cách dạy như vậy đã hạn chế tư duy độc lập và khả năng làm việc nhóm của học sinh, làm cho học sinh máy móc, không sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kỹ năng. Vậy có thể thấy rằng,giáo viên chưa thực sự chú ý đến việc tạo cơ hội cho học sinh nắm vững được kiến thức ngay trên lớp, học sinh chưa thực sự phát huy được tính tích cực của bản thân trong quá trình học. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần nhận thức rõ hơn và có các biện pháp định hướng, điều khiển, kiểm tra thường xuyên việc học của học sinh; đồng thời phải tác động tích cực đến những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan