GS. NGUYỄN ĐỨC BÌNH
VỮNG BƯỚC
TRÊN CON ĐƯỜNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
■
K Í\ H B Ỉ Ề l
NHA XUẨT BÁN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HÀ N Ô I-2010
LỞI NHÀ XUẤT BẢN
Đảng ta đang tiến hành đại hội đảng bộ các cấp
tiên tỏi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Việc
triển khai nghiên cứu tổng kết, bổ sung, phát triển
cương lĩnh của Đảng, tổng kết chiến lược phát triển
kinh té - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và chuẩn bị cho
kế hoạch 5 năm (2010 - 2015) đang đưỢc xúc tiến.
Nhà xuất bản Chính trị quổc gia xuất bản lần thứ
hai, có sửa chữa và bổ sung cuốn sách Vũtng bước
trê n con đường xă h ộ i c h ủ n g h ĩa của GS. Nguyễn
Đức Bình, nguyên ủ y viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban
Chấp hành Trung ưdng Đảng, nguyên Giám đốc Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
nguyên Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, nhàm
g iú p b ạn đọc, đặc biệt giói n g h iê n cứu, các n h à hoạch
đ ịn h đưòng lối, c h ín h sá c h th a m k h ả o và đi vào suy
nghĩ, trao đổi, thảo luận sâu các vấn đề đưỢc tác giả
nêu lên.
Nhà xuất bản mong nhận được nhiều hơn nữa
những tác phẩm trên các vấn đề rộng lốn và quan
trọng này nhằm làm phong phú nhận thửc chung về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 3 năm2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
TIẾP TỤC MỘT CÁCH KIÊN ĐỊNH VÀ SANG tạo
•
•
•
CON đu Ong Xã Hộ i chù
•
n g h ĩa
(Từgóc độ lịch sửvà lý luận góp phần khẳng định,
bổsung, phát triển Cươnglĩnh của Đảng năm 1991)
Sau những biến động chính trị ở Đông Âu và
Liên Xô cuô"i thập niên 80 đầu 90 t h ế kỷ XX, một
chiến dịch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lênin dấy lên
từ nhiều phía. Kẻ th ù chủ nghĩa Mác từng vu cáo,
xuyên tạc, bác bỏ học th u y ế t cách m ạng của giai
cấp công nhân và n h â n dân lao động suốt một thê
kỷ rưỡi nay, giò đây n h ư có được cơ hội vàng,
chúng càng ra sức xuyên tạc, bác bỏ, hòng chôn vùi
nó vĩnh viễn.
Trước tình hình đó, n hiều người hoang mang,
dao động vê lý tưởng, có ngưòi k h u yên Đ ảng ta từ
bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đưòng xã hội
chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đ ảng t a và n h â n dân ta đã
lựa chọn, bởi theo họ, thời thê (thòi đại) đã thay
đổi. Cá biệt có người cho rằng sự lựa chọn ấy đả
sai từ đầu; giá như lúc đó (cuôl những năm 20 thê
kỷ XX) đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn
giành được độc lập, kinh tế, văn hoá vẫn phát
triển, lại trá n h được mấy cuộc kh án g chiến trường
kỳ, gian khổ, tôVi bao xương máu.
Vậy, phải chăng lịch sử đang lặp lại: đầu thê
kỷ XXI dân tộc ta phải làm lại cái việc "tìm
đưòng", "chọn đưòng" như đầu th ế kỷ XX? Phải
chăng Cương lĩnh 1991 của Đ ảng đã lỗi thời?
I. S ự LỰA CHỌN CỦA CHÍNH LỊCH sử
DÂN TỘC
Không thể chấp n h ậ n cái thuyết "chọn sai
đưòng" và "giá như...". Vấn đề ở đây th ậ t ra không
phụ thuộc ý tưởng chủ quan một ai mà suy cho
cùng là quyết định khách quan của chính lịch sử.
Trước khi có Đ ảng Cộng sản Việt Nam , các
phong trào yêu nước chống P h á p diễn ra sôi nổi,
không ngừng khắp Bắc, T rung, Nam. Đó là các
phong trà o cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân
Yên Thế, cuộc vận động chông th u ê T ru n g Kỳ, là
cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục,
các phong trào Đông du, Tây du do các sĩ p hu yêu
8
nước chủ xướng, là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do
Việt N am quốc d â n Đ ảng tiế n h àn h , V.V.. Các
phong trào kể tr ê n đểu sá n g ngòi tinh th ầ n yêu
nưốc, b ấ t k h u ấ t, song t ấ t cả đều lâm vào bê tắc
và cuôi cùng t h ấ t bại. Đó là sự bê tắc và t h ấ t bại
về đưòng lối cứu nưỏc. Và n h ư vậy, tấ t cả các
phương án chính trị của các giai cấp đều đã đưa
ra và đưỢc lịch sử kh ảo n g h iệm - từ đường lôi cứu
nưóc theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những
đường lối theo lập trư ò ng nông dân, lập trường
tiểu tư sản, lập trư ờng tư sả n . Với đường lôl của
Việt N am quốc d â n Đ ảng theo hệ tư tưởng tư sản
tưởng chừng có cái mới, tích cực n h ấ t lúc bấy giò,
n h ư n g qua khởi n ghĩa Yên Bái vừa bùng lên đã
t ắ t ngâ^m vĩnh viễn chỉ còn để lại dư âm câu nói
vô vọng của lãnh tụ N guyễn T h ái Học "sát th â n
t h à n h nhân". Rõ r à n g "tình hìn h đen tối như
không có đường ra"'.
Trong khi đó, cuộc đòi và sự nghiệp của Cụ
P h a n Bội Châu nổi lên như một điển hình tiêu
biểu, một tấm gương phản chiếu tập trung và cô
đúc con đường cứu nước mà dân tộc ta đã trải qua
ở đầu thế kỷ. P h a n Bội C hâu đi vào lịch sử như
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, t. 10, tr. 3.
một tiêu điểm giao thòi, một nhịp cầu nôl giữa hai
thời đại lịch sử của dân tộc, ở chỗ Cụ là người phát
ngôn cho nhu cầu lịch sửdán tộc phải chuyển sang
thòi đại mới của cuộc đấu tran h giải phóng. Phan
Bội Châu còn xa mới hiểu th ậ t rõ bản chất chủ
nghĩa xã hội và Cách mạng Tháng Mưòi Nga. Dù
sao, khi nghe tiếng sấm Cách mạng Tháng Mười,
Cụ đã có những cảm nghĩ th ật xúc động trong cuốn
sách "Xã hội chủ nghĩa" do Cụ viết: "May thay!
Đương giữa lúc khói đục, máy mù, thình lình mà
có một luồng gió xuân thổi tới; đương giữa lúc trời
khuya đất ngủ, thình lình mà có một tia thái
dương mọc ra, luồng gió xuân âV, tia thái dương ấy
là chủ nghĩa xã hội vậy"'.
Nhưng con đường mới mà Cụ P h a n chỉ dự cảm
được ở
đòi sau khi trải qua "một tră m th ấ t bại
không một th à n h công", khi "thân đã tàn, sức đã
kiệt", (lời Cụ th a n thở), thì chính Nguyễn Ái Quốc
cùng thời không chỉ cảm thấy mà đâ nhận chân
một cách vững chắc, khoa học. Và, chính Nguyễn
Ái Quốc đã đáp ứng trún g nhu cầu lịch sử dán tộc,
đưa đất nước đi đúng vào quỹ đạo thời đại mới
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Muôln cứu nưỏc và
C
U
Ô
I
1. Trích cuôVi "Xă hội chủ nghĩa"- Phan Bội Châu toàn
tập, Nxb. Thuận Hóa, 1990, t. 4, tr.l32.
10
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
con đưòng cách m ạng vô sản", "chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thê
giới khỏi ách nô lệ"'. Ngưòi lập ra Đảng Cộng sản
Việt Nam với cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội - đưòng lối đả đưa sự nghiệp
cách mạng Việt Nam không ngừng ph át triển đi
lên, không thê lực nào ngăn cản nổi.
Dưói sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân cả nưóc ta đã tiến h à n h thắng lợi
cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau
Cách mạng T háng Tám, Đảng ta và n h â n dân ta
thiết tha mong muốn hoà bình để xây dựng đất
nước, song bọn thực dân, đê quốc đã đem quân
xâm lược nước ta lần nữa. Vì độc lập tự do của Tổ
quốc, nhán dân ta đã phải tiến hành 9 năm kháng
chiến chống thực dân Pháp, 30 năm chông đê quốc
Mỹ. Chưa hết, 4 năm sau đó quân dán ta còn mất
nhiều tháng đáp trả "bài học" dữ dội từ phương Bắc
và từ biên giới phía Tây Nam. Với chiến thắng oanh
liệt mùa Xuân 1975, cả nưốc độc lập, thống nhất,
bước vào thòi kỳ xây dựng đất nước, từng bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1975 đến 1985, sự
1. Hồ C hí M inh; Toàn tập, Sđd, t.9, tr.3 1 4 và t . i o , tr .l2 8 .
11
nghiệp xây dựng đạt những th àn h tựu n h ấ t định.
Song cũng trong thòi gian này, Đảng ta đã p h ạ m
những sai lầm lớn vê chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện, nguyên nhân do thiếu kinh nghiệm và
nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy
luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng
về kinh tê - xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI n ăm
1986 đã tự phê bình nghiêm túc, rú t ra những bài
học sâu sắc, từ đó đề ra đường lối đổi mới. Đại hội
VI là cột mốc lịch sử quan trọng trên con đường
xây dựng và phát triển Đảng ta và đất nước ta.
Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần th ứ X
năm 2006 đánh giá công cuộc đổi mỏi đã giành
được "những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử".
Trên đây là tóm lược cả quá trình gần 100 năm
dân tộc ta đã đi qua kể từ những bước tìm đưòng
khó khăn, gian khổ ban đầu, đến những thử
nghiệm trẩy trật, đắt giá, cho đến khi Nguyễn Ái
Quốc và Đảng ta mở ra con đưòng mỏi vói đường
lôi xuyên suốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xả hội - con đưòng mà như đã phân tích, xét
cho cùng và ngay từ đầu, phản ánh sự lựa chọn
khách quan của chính thực tiễn - lịch sử.
Vậy, chỉ cần thực sự cầu thị, nhìn đúng sự th ậ t
lịch sử, thì chác không ai đặt lại vấn để về con
đường xã hội chủ nghĩa dân tộc ta đang đi.
12
II. THẾ GIÒI ĐỔI THAY.
THỜI ĐẠI KHÔNG THAY Đ ổ l
'Thê giới đổi thay" nói ở đây chủ yếu liên quan
đến sự sụp đổ chê độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đòng Âu vào cuối thê kỷ XX đưa đến sự đảo
lộn cả t r ậ t tự thê giỏi. Còn "Thời đại không thay
đổi" là nói: mặc cho thê giới đã đổi thay, nhưng
thòi đại với tính chất là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở đầu từ Cách
mạng T háng Mười Nga (năm 1917) thì không
thav đổi. N hận thức cặn kẽ những đặc điểm lón
này của "thòi thế" là tiền đê x u ấ t p h á t r ấ t quan
trọr.g để hiểu con đường Đảng ta, đ ấ t nước ta tiếp
tục đi tới và cũng để bác bỏ quan điểm "phủ định"
thòi đại. Điểu q uan trọng nữa là từ đó r ú t ra
nhũng bài học quá khứ cần thiết, những bài học
đầy giá trị hào hùng, cả không ít bài học cay
đắng. Phải coi đây là một cuộc đại tổng kết lịch
sử, dại tổng kết thực tiễn.
1. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đông Àu, sự kiện bi th ảm n h ấ t ở thê
kỷ XX là một tổn t h ấ t lớn chưa từng có đối với sự
nghiệp cách m ạng của giai cấp công nhân, nh ân
dân lao động, các dân tộc đang đâu tra n h cho độc
lập tự do trên toàn thê giới. Nó làm th ay đổi hẳn
13
so sánh lực lượng giữa cách m ạng và phản cách
mạng trên toàn cầu, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc,
bất lợi cho các lực lượng cách mạng. Các thê lực
đế quốic phưđng Tây hí hửng tuyên bô' chủ nghĩa
xã hội đã cáo chung, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
chết. Họ không giâ'u giếm ý đồ th iế t lập "trật tự
thê giới mới" do Mỹ đứng đầu và không còn ai làm
đôl trọng.
Song, lịch sử tr ả lòi thẳng: hoàn toàn không có
chuyện "cáo chung". Bước tiến của cách m ạng
chậm lại, song không th ê lực nào có thể quay
ngược bánh xe lịch sử.
Khi Liên Xô mới sụp đổ, Đảng ta đã sỏm rú t ra
hai loại nguyên nhân: nguyên n h â n sâu xa và
nguyên nhân trực tiếp.
Nguyên nhàn sâu xa là trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu
vĩ đại, đã có nhủng nhược điểm và khuyết điểm to
lớn về mô hình xây dựng và phát triển chậm được
phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ
kinh tê - xã hội, dẫn tỏi khủng hoảng. Nguyên
nhân chủ yếu và trực tiếp là, trong cải tổ, Đảng
Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm râ't nghiêm trọng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lốỉ
xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin ở một sô
người lãnh đạo cao nhất. Chủ nghĩa đê quỗc và các
14
lực lượng phản động quốc tê vốh không lúc nào
ngừng chiến lược chông cộng, chông chủ nghĩa xã
hội, lợi dụng những khó khăn và đưòng lối sai lầm
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, họ đẩy
mạnh chiến lược "diễn biến hoà bình" cực kỳ thâm
độc, can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng
trỢn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Cuối
cùng chủ nghĩa đê quốc đã không đánh mà thắng.
Dĩ nhiên, chúng không thê làm được điều này, nếu
cải tổ có đường lổì đúng đắn, nếu 20 triệu đảng
viên cộng sản có tinh thần cảnh giác cách mạng và
sức chiến đấu cao, không để cho bọn xét lại và
phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Đảng;
nếu có sự cô kết chặt giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân.
VâVi đê xác định mô hình của chủ nghĩa xã hội
là một trong những vấn đê khó n h ấ t và phức tạp
n h ấ t của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều này các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã từng báo trưóc. Ngay trước Cách mạng
T háng Mưòi, Lênin đã viết: "Chúng ta không kỳ
vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa
Mác đều hiểu biết mọi m ặt cụ thể của con đưòng
tiến lên chủ nghĩa xả hội. Như t h ế sẽ là phi lý.
Chúng ta chỉ biết phương hưởng của con đường đó
và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đưòng
15
đó, còn như vê cụ thể và trên thực tê con đường đó
ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người
sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động"'. Như vậy,
xác định đúng phương hướng cách mạng là rấ t cơ
bản, nhưng vẫn chưa đủ để xây dựng được chủ
nghĩa xã hội. Còn phải cụ thể hoá thàn h "mô hình"
(bao gồm cơ cấu, cơ chế, hình thức, bước đi...) và
biết điều chỉnh, thay đổi mô hình khi’ điểu kiện
thực tê thay đôi và đòi hỏi.
Đánh giá mô hình đẩu tiên của chủ nghĩa xã
hội được áp dụng ở Liên Xô là vấn đề rấ t không
đơn giản, đòi hỏi có quan điểm lịch sử cụ thể th ậ t
sáng suốt. Một sô' người thông qua phê phán "mô
hình" cốt đê xóa toẹt mọi thành tựu của chủ nghĩa
xã hội và phủ nhận bản th ân chủ nghĩa xã hội, cà
hiện thực, cả lý luận.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời ỏ
Liên Xô trong bốỉ cảnh đặc biệt. Từ sau Cách mạng
Tháng Mười đến kết thúc Chiến tra n h t h ế giói thứ
hai, Liên Xô là nưóc xã hội chủ nghĩa duy nhất.
Điều kiện xây dựng chê độ mới cực kỳ khó khăn,
phức tạp: nền kinh tẽ lạc hậu bị tàn phá nặng nê
trong Chiến tra n h th ế giới thứ nhất, tiếp đến là nội
1. V.I. Lênin: T o à n tập, Nxb. C h ín h trị quốc gia, H à Nội,
2005, t. 34, tr. 152-153.
16
chiến, rồi chiến tra n h can thiệp của 14 nước đế
quốc, bị bao vây về kinh tê và vê mọi mặt, V.V..
Mặc dù, vào đầu những năm 1920 Lênin đã sáng
suôt đề ra Chinh sách kinh tê mới, nhưng đưòng
lôì đúng đắn này sau khi Lênin m ất không được
quán triệt thực hiện. Hơn nữa, chưa được bao lâu
thì từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930,
triệu chứng cuộc chiến tranh thê giới mới ngày
càng lộ rõ. Trong bôl cảnh ấy, phải nhanh chóng
biến nước Nga lạc hậu th àn h cường quốc công
nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ th u ậ t
cho chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ tình trạn g lạc hậu,
vừa để chuẩn bị đối phó vởi nguy cơ chiến tranh
đang đến gần. Giải quyết vấn đê này và giải quyết
cho được trong một thòi gian ngắn n h ấ t - đó là
mệnh lệnh sống còn đặt ra trưóc vận mệnh Tổ quốc
Xôviết và chê độ xã hội chủ nghĩa.
Trong những điểu kiện nghiệt ngã như vậy,
nhà nưóc Xôviết không thể không áp dụng cơ chê
kê hoạch hoá tập trun g cao, một cơ chê cho phép
huy động tôl đa các lực lượng xây dựng, sáng tạo.
Ai cũng biết, Liên Xô đã hoàn th àn h sự nghiệp
công nghiệp hoá với thòi gian chưa đầy 20 năm,
trong đó quá nửa thời gian là nội chiến, chống
chiến tra n h can thiệp và khôi phục kinh tê sau
chiến tranh. Chỉ có chủ nghĩa xã hội p h á t huy cao
17
độ tinh thần anh dũng, hy sinh của hàng tră m
triệu quần chúng nhân dân mới thực hiện được kỳ
tích như vậy. Không thể phủ nhận vai trò lỏn lao
có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của
chủ nghĩa xã hội.
Sai lầm chủ yếu dẫn đến sự trì trệ là chậm
phát hiện và chậm sửa chữa những khuyết tậ t của
mô hình, duy trì quá láu mô hình đó n h ấ t là khi
nền kinh tê đã cạn khả năng phát triển theo chiểu
rộng, đòi hỏi phải chuyển sang thòi kỳ p hát triển
theo chiếu sâu. Khi mà cuộc cách mạng khoa học
kỹ th u ật mới được chủ nghĩa tư bản n han h chân
hơn đi trước.
Khuyết tậ t lớn của mô hình là đã tu y ệt đôi
hoá cơ chê kẽ hoạch hoá tập tru n g cao, tu yệt đối
hoá nguyên tắc tập thể, coi nhẹ vai trò chủ động
và sáng kiến cá nhân, chôi từ một cách chủ quan
duy ý chí nền sản xuất hàn g hoá, cđ chê thị
trường, thực hiện chê độ bao cấp trà n lan, triệt
tiêu động lực lợi ích trực tiếp, do đó triệt tiêu tín h
chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tê và cá
nhân ngưòi lao động. Hậu quả của sự kéo dài cơ
chê tập trung quan liêu, bao cấp là nền kinh tê
Liên Xô từ chỗ là một nền kinh tê p h á t triển
nhanh n h ấ t thê giới vói sự tiến bộ khoa học và kỹ
th u ậ t đạt nhiều đỉnh cao, đã lâm vào tình trạ n g
18
trì trệ. tốc độ p h á t triển chậm dần, sức sản xuất
ngày càng tụ t hậu, hiệu quả kinh tế ngày càng
thu a kém các nưóc tư bản, đòi sông n h â n dân
ngày càng khó khăn, nền kinh tê rơi vào khủng
hoảng trầm trọng. Trong khi gặp khó k h ă n vê
kinh tế, nhà nưốc xã hội chủ nghĩa hùn g m ạnh
n h ấ t này vẫn phải dành một tỷ lệ ngân sách quá
lớn cho quốc phòng trước sự thách thức chạy đua
vũ trang của Mỹ.
Sai lầm, khuyết tậ t gắn với mô hình cũ không
chỉ trên lĩnh vực kinh tế. Nó còn thể hiện ở hệ
thôVig chính trị, ở phương thức lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nưốc, ỏ quan hệ giữa Đảng
và Nhà nưóc vỏi nh ân dân. Một trong những
khuyết điểm lớn của mô hình cũ là không ph át huy
được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, quyển làm chủ của nhân dân bị vi phạm
nghiêm trọng. Chủ nghĩa quan liêu hoàn toàn trái
ngược với bản chất chủ nghĩa xã hội, nhưng với cơ
chê cũ thì không có cách gì ngăn chặn sự phát
triển của nó.
Do chậm đổi mới cơ chê kinh tế, cơ chê quản lý,
hệ thông chính trị và mối quan hệ gắn bó vói n hân
dân, nên hậu quả là Liên Xô đang trên đà rú t ngắn
khoảng cách về trình độ ph át triển kinh tê so vói
các nước tư bản p h á t triển thì từ giữa những năm
19
1970, tình hình diễn ra theo chiêu hưóng ngược lại.
Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh
vực công nghệ và năng su ấ t lao động. Mà đây lại là
vếu tô như Lênin nói, xét đến cùng quyết định
thắng lợi hoàn toàn của chê độ mới.
Chủ nghĩa giáo điều, sự xơ cứng trong tư duy
lãnh đạo dẫn tới chậm ph át hiện các sai lầm.
Người ta cũng đã thi hàn h một vài cải cách, nhưng
những cải cách đó không cơ bản, không giải quyết
trúng các vấn đề, lại phạm những sai lầm mói vê
chính trị và kinh tế, trượt từ tả sang hữu.
Những sai lầm chủ quan nói trên là nguyên
nhân sâu xa làm chê độ xã hội chủ nghĩa suy yếu,
cuối cùng rơi vào khủng hoảng. Đó không phải
những sai lầm, khuyết tật do bản chất của chê độ
xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác ■Lênin sinh
ra, trái lại do quan niệmgiáo điều, chủ quan duy
ý chí đi ngược lại tinh thần duy vật biện chứng,
"linh hồn sống" của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chúng ta cho rằng trong tình hình chủ nghĩa
xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm,
khuyết tậ t của mô hình cũ thì "cải tổ" n h ằ m thay
đổi mô hình của chủ nghĩa xã hội là tấ t yếu. Cải tổ
là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tát yếu. Vấn
đề ở chỗ cải tổ thê nào, nhằm mục đích gi, theo
đường lôi nào. Lịch sử không có chữ "nếu", nhưng
20
lịch sử cung cấp những bài học hào hùng hoặc cay
đáng không thể bỏ qua. Nếu cải tổ được thực hiện
theo một đưòng lôi đúng đắn, th ậ t sự mácxít
lêninnít vê chính trị, tư tưởng và tổ chức, không
phạm những sai lầm cực kỳ nghiêm trọng như đã
diễn ra thì làm sao Liên bang Xôviết có thể sụp đổ,
đến nỗi chính phương Tây họ cũng không ngò! Vì
vậy, việc coi sự sụp đổ ấy là "sự cáo chung" của chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, là kết thúc
thòi đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nRhĩa xã hội trên phạm vi thê giới, là võ đoán,
hoàn toàn vô càn cứ.
2. Thảm họa sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu cho
thấy sự ra đòi của một chê độ mới không bao giò là
một quá trình suôn sẻ, êm thấm , trơn tru. Nó ra
đòi trong sự liên tục tìm tòi và thể nghiệm bản
thân, trong cuộc đấu tra n h phức tạp, quyết liệt và
dai dẩng giữa mới và cũ và vối nhửng thê lực thù
địch bên ngoài, bên trong luôn tìm cách xóa bỏ nó.
Trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và đâu tra n h
âV, có khi do sai lầm chủ quan, có khi do tương
quan lực lượng, có khi do bối cảnh chung không
th u ậ n lợi, có khi do tác động kết hỢp cả mây nhân
tô ấy mà chẻ độ mới tạm thòi phải lùi bưóc hoặc
th ấ t bại. Cách mạng tư sản mà điển hình là cách
m ạng Pháp đã diễn ra như vậy. Kể từ năm 1789,
21
trải qua bao biến cố thăng trầm, phục hồi và chống
phục hồi, khi nghiêng tả khi ngả sang hữu (theo
chuẩn tư sản lúc đó) cuôi cùng phải đến th án g 2
năm 1848, nghĩa là m ất gần 60 năm, nền chuyên
chính tư sản mới được xác lập tuyệt đối và hoàn
toàn. Lịch sử ra đòi chê độ tư bản đã như vậy. Đốì
với chê độ xã hội chủ nghĩa càng như vậy bởi chủ
nghĩa xã hội là một chê độ hoàn toàn mới vê chất
so với mọi chê độ bóc lột.
V.I.Lênin chỉ rõ: "Sự xuất hiện của một giai cấp
mới trên vũ đài lịch sử, với tư cách là người lãnh tụ
và ngưòi lãnh đạo xã hội, không bao giò diễn ra mà
lại không có một thời kỳ "tròng trành" hết sức dữ
dội, một thời kỳ chân động, đâu tra n h và bão táp,
đó là một mặt; m ặt khác không bao giò diễn ra mà
không có một thòi kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự,
ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương
pháp mới đáp ứng đúng vối tình thê khách quan
mới"'. Đốì với phong trào cách m ạng thê giới kể từ
Cách mạng Tháng Mười, nhất là từ sau Chiên
tra n h thế giới thứ hai, chúng ta đã quen nhìn thấy
một mạch đi lên, cao trào nối tiếp cao trào, ba dòng
thác cách mạng không ngừng tiến công. Một thòi
gian dài chúng ta chỉ thấy tình hình thuận buồm
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr. 235.
22
- Xem thêm -