vụ ám sát Ngô Đình Diệm và Kennedy
Bradley S. O'Leary & Edward Lee
Vụ Ám Sát Ngô Đình
Diệm Và J.F.Kennedy
WWW.VNTHUQUAN.NET, 2006.
Bradley S. O'Leary & Edward Lee
Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy
LỜI TÁC GIẢ
Bạn có biết rằng John F. Kennedy (JFK) đã chuẩn bị việc
lật đổ chính phủ công giáo ở Nam Việt Nam?
Nếu bạn có kiến thức trực tiếp về các nguồn cội của chiến
tranh Việt Nam, có lẽ bạn không tin vào tuyên bố trên, và
có lẽ bạn không tin vào nó cho dù bạn hầu như chẳng biết
gì về cuộc chiến tranh này. Quốc gia Việt Nam, sau cùng,
là đồng minh của chúng ta. Vì lý do gì mà Kennedy lại phải
ủng hộ việc lật đổ một lãnh tụ đồng minh?
Chúng ta đang nói về một người có tên là Ngô Đình Diệm.
Ông ta đã là tổng thống của Nam Việt Nam được chín
năm. Hầu hết các sách lịch sử đều nói với chúng ta rằng
JFK ủng hộ Diệm, và đã ủng hộ suốt nhiều năm. Chính vì
Diệm và JFK cam kết sử dụng quân đội Mỹ, quân cụ Mỹ,
và hàng triệu đô la từ tiền thuế của dân Mỹ trong một nỗ
lực nhằm giúp Nam Việt Nam thoát khỏi mối đe doạ của
2
cộng sản. Diệm là đồng minh của chúng tôi, nên thật sự vô
lý khi tin rằng Kennedy muốn lật đổ ông ta. Thế nhưng
Diệm đã bị lật đổ và lập tức bị giết chết.
Ba tuần sau cái chết của Diệm, chính Kennedy cũng bị ám
sát. Bây giờ có một chủ đề mà tất cả chúng ta đều nghe
nói tới: cái chết của JFK, một sự cố có lẽ là ám sát bí ẩn
nhất của mọi thời đại. Hàng chục giả thiết đã phát triển
quanh vụ ám sát Kennedy trong gần bốn mươi năm qua,
tuy rằng chỉ có hai cuộc điều tra chính thức đã được tiến
hành.
Những uỷ ban điều tra này của Chính phủ Mỹ đã nói với
bạn nhiều chuyện. Bạn được nghe nói rằng chỉ một tay
súng đơn lẻ có tên Lee Harvey Oswald là kẻ ám sát. Bạn
cũng nghe nói là chỉ có hai phát súng trúng đích vào ngày
22.11.1963 đó, và có một phát bắn hụt. Bạn đã nghe nói
rằng những phát đạn bắn ra ngày hôm đó đều xuất phát từ
tầng sáu của Kho sách Giáo Khoa Texas. Bạn đã nghe nói
rằng JFK bị giết bởi vì ông đang chuẩn bị rút toàn bộ quân
đội Mỹ ra khỏi Việt Nam
Tất cả những điều mà bạn được nghe nói đó đều sai sự
thật, nhưng cuốn sách này sẽ tiết lộ sự thật đích thực.
Sách này sẽ giải thích rằng Robert Kennedy không muốn
cho điều tra về cái chết của ông anh mình vì việc đó có thể
3
phơi bày chuyện ông ta, JFK, và toàn bộ Nhà Trắng dưới
thời Kennedy, đã vạch ra các kế hoạch hành động nhằm
ám sát Fidel Castro sau vụ xâm nhập Vịnh Con Heo,
nhưng chỉ vài ngày trước khi bị ám sát, tổng thống đã bí
mật lập kế hoạch tiến hành việc lật đổ và sau cùng hạ sát
các lãnh tụ theo đạo Thiên chúa giáo của Nam Việt Nam
và trao chính quyền cho một tập đoàn tướng lĩnh theo đạo
Phật. Bạn sẽ thấy rằng bộ não của JFK – một vật chứng
quan trọng có giá trị pháp lý – đã bị một Đô đốc Hải quân
Mỹ đánh cắp, theo lệnh của Robert Kennedy.
Chúng tôi hy vọng bạn biết ra nhiều điều do đọc cuốn sách
này.
Những tài liệu được giải mật gần đây liên quan đến chiến
tranh Việt Nam, KGB, Mafia Mỹ, Mật vụ Pháp, và tập đoàn
ma tuý quốc tế đã rọi một luồng sáng mới đáng quan tâm
vào những sự kiện chung quanh vụ ám sát JFK ngày
22.11.1963. Những tài liệu này đưa ra vô số những mảnh
rời mới khớp với câu đố có từ gần bốn mươi năm qua đã
kết thúc cuộc đời của vị tổng thống được yêu thích nhất
của nước Mỹ.
Sau đây là một số điều mà bạn sẽ biết được từ cuốn sách
này:
Đích thân trùm Mafia Carlos Maecello đã gặp Jack Ruby
4
và Lee Harvey Oswald, và y ta, Marcello, đã nói lộ ra một
cách có thể xác minh với các quan chức Liên bang rằng y
đã trực tiếp dính líu vào vụ ám sát Kennedy.
Mỹ và Liên Xô đều báo động quân sự khẩn cấp ngay sau
cái chết của JFK, tránh cho nhân loại một cuộc huỷ diệt
hạt nhân trong đường tơ kẽ tóc.
JFK đã đích thân yêu cầu một sĩ quan cao cấp trong Quân
đội Mỹ tiến hành ám sát Tổng thống Diệm.
Nhưng quan trọng hơn tất cả nhiều điều đó, cuốn sách này
sẽ cho bạn thấy một tài liệu của CIA mà nó có thể là bằng
chứng gây chấn động nhất từng nảy sinh từ mớ bòng bong
quanh cái chết của JFK.
Tài liệu này xác định rằng một tay ám sát quốc tế đã bị
chính quyền Dallas, bang Texas bắt giữ trong vòng chưa
tới hai ngày sau khi Kennedy bị bắn, và thay vì tống giam
người này, các cơ quan công quyền đó đã bí mật đưa tay
ám sát đó ra khỏi lãnh thổ Mỹ và trả tự do cho y.
Chúng tôi sẽ trình cho các bạn thâý tài liệu đó cùng nhiều
thứ khác nữa, và rồi chúng tôi sẽ trình bày giả thiết của
mình cùng tất cả những mối liên hệ đáng tin đã nối kết
chặt chẽ những thông tin trên để kết luận rằng hợp đồng
giết tổng thống Kennedy không xuất phát từ CIA hay liên
minh quân sự – công nghiệp mà từ một sự hợp tác giữa
5
Mafia Mỹ, tập đoàn bạch phiến Pháp, và chính quyền Nam
Việt Nam.
Tháng 7.2000
BRADLEY S.O’LEARY & EDWARD LEE
MỘT CHÀNG TRAI HỐI HẢ
“Đừng đòi hỏi tổ quốc làm được gì cho bạn…”
- JOHN F.KENNEDY
Những năm đầu thập niên 60 là những năm đầy biến động
đối với nước Mỹ. Chỉ cách bờ biển Florida chín mươi dặm,
Cuba nằm trong tay một nhà cộng sản lập dị. Một cuộc
chiến tranh “lạnh” mới lạ giữa Mỹ và Liên Xô đang xảy ra,
Thế chiến thứ 3 có vẻ như chực bùng nổ. Kinh tế biến
động, và những bất ổn chủng tộc đang sục sôi. Nước Mỹ
không ổn
Vào năm 1960, một Thượng nigh sĩ trẻ trực tính của bang
6
Massachusetts tên là John Fitzgerald Kennedy trở thành
tổng thống thứ 35 của nước Mỹ. Ơû tuổi 43 ông là người
trẻ tuổi nhất, người Thiên chúa giáo đầu tiên và duy nhất
từ trước đến nay được bầu vào cương vị này. Kenned hứa
hẹn với dân chúng Mỹ một Biên cương mới, và trong một
nghĩa nào đó ông đã cho họ đúng điều đó. Ông cho nước
Mỹ cái mà nó cần nhất lúc đó : hy vọng.
Vụ ám sát ông ở Dallas, ngày 22.11.1963 sẽ trở thành cái
mà hầu hết mọi người đều coi là tội ác của thế kỷ, nếu
không muốn nói đó là vụ ám sát gây biến động lớn nhất
trong lịch sử. Nhưng cũng chính vụ ám sát đó đã gieo quá
nhiều bóng tối lên cuộc đời thực của con người này. Khi
một người bình thường nghĩ tới Kennedy, trong đầu họ lập
tức hiện lên vụ ám sát. Nhưng chúng ta hãy để cho họ có
cái quyền đó trước đã. JFK đạt được nhiều thành công
trước và trong suốt 1.037 ngày làm tổng thống, nhưng đa
số những thành công này đã bị che khuất bởi cái chết
chấn động của ông .
Ngay cả trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, Kennedy đã
chứng tỏ tài năng quyết đoán và lãnh đạo của mình trong
Thế chiến thứ 2. Khi chiếc tàu ngư lôi tuần thám của
Kennedy bị một tàu khu trục của Nhật đánh chìm gần đảo
Solomon, JFK đã dũng cảm đưa thuỷ thủ đoàn sống sót về
7
đến bến an toàn. Do hành động anh hùng này, vị tổng
thống tương lai được tặng các huy chương của Hải quân
và Thuỷ quân lục chiến.
Trên phương diện chính trị, Kennedy là người chống cộng
kiên định, mặc dù ông công khai chỉ trích – rất ngược lại
với những ý muốn của cha ông – chủ trương “Tìm và Diệt
bọn Đỏ” của Thượng nigh sĩ bang Wisconsin Joseph
McCarthy, người đã trở nên nổi danh với những chiến dịch
khai trừ đầu những năm 50. JFK là tác giả có sách bán
chạy nhất; cuốn sách triển khai luận văn đại học của ông,
Why England Slept (“Tại sao nước Anh ngủ”), xuất bản
năm 1940, đưa ra tài liệu cho thấy Vương quốc Anh không
có khả năng thích hợp trong việc chuẩn bị tham gia Thế
chiến 2. Cuốn sách bán rất chạy và đưa chàng trai John
Kenendy vào danh sách best-seller. Một thành công không
nhỏ cho một cậu thanh niên hăm ba tuổi.
Cuốn sách tiếp theo của JFK, Profile in Courage (“Những
chân dung của lòng dũng cảm”), thậm chí còn thành công
hơn vào năm 1957 khi nó được trao giải thưởng cao quý
Pulizer. Cuốn sách miêu tả các lãnh tụ chính trị đương
thời, và phần lớn cuốn sách được JFK viết trong thời gian
tập luyện hồi phục sau lần mổ lưng nguy kịch.
Kennedy đắc cử vào Hạ nigh viện Mỹ ba nhiệm kỳ liên tiếp
8
(1947-53), và rồi tiếp tục giành được ghế thượng viện ở
Massachussetts, hoàn toàn đánh bại ứng cử viên Đảng
Cộng hoà Henry Cabot Lodge, một người chống đạo Công
giáo và rất cứng rắn. JFK có vẻ là một mẫu người chinh
phục mới , quật ngã tất cả các đối thủ ngay tại chỗ bằng
tài nói chuyện hùng biện sắc gọn, và sự thành thạo các
vấn đề được cử tri quan tâm nhất. Một nhà báo thậm chí
đã mô tả ông là “Một chàng trai hối hả”(1) [(Encyclopedia
Britannica, Kennedy, John F(itzgerald)] một cách nói
không thể nào thích hợp hơn : Jack Kennedy dấn thân vào
sự nghiệp chính trị như một người chạy nước rút vượt qua
mọi chướng ngại, không bao giờ giảm tốc độ để quay nhìn
lại. Tiếng tăm càng ngày càng lên cao, và năm 1958, ông
đắc cử Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ hai tại
Massachussets với số phiếu chênh lệch lớn nhất so với
bất kỳ cuộc chạy đua nào vào Thượng viện năm đó.
Quả thật Kennedy chưa bao giờ thất cử.
Trong vai trò tổng thống, ông luôn đối đầu với những vấn
đề gai góc, ông tán thành việc cải cách quyết liệt các
quyền dân sự, ủng hộ Mỹ chạy đua vào không gian, gây
sức ép buộc Pháp trao trả độc lập cho Algeria. Ông tuyên
chiến với những kẻ thù chung của con người: “…độc tài,
đói nghèo, bệnh tật, và bản thân chiến tranh”(2) [(sđd)] và
9
không một người Mỹ nào quên được bài diễn văn “Đừng
đòi hỏi” lừng danh của ông.
Những công trạng nào nữa? Đa số những độc giả am hiểu
đều biết rằng JFK là người lập ra Đội Hoà Bình, nhưng
mấy ai biết ông cũng chính là người lập ra Liên Minh Vì Sự
Tiến Bộ, một tổ chức lôi cuốn công chúng giành sự giúp
đỡ và khích lệ cho Châu Mỹ La Tinh? Bạn có biết Kennedy
cũng đã ký hiệp ước đầu tiên cấm thử vũ khí hạt nhân? Và
bạn có biết, dù là người của Đảng Dân Chủ phóng
khoáng, Kennedy vẫn coi một trong những việc mạo hiểm
lớn nhất của mình là chương trình cắt giảm thuế một cách
sâu rộng? Thậm chí người ta còn cho rằng chiến dịch cắt
giảm thuế trên quy mô rộng lớn của Kennedy, dẫn đến sự
tăng trưởng kinh tế kỳ lạ, cuối cùng đã tỏ ra là một kiểu
mẫu cho trước những luận thuyết cắt-giảm-thuế bảo thủ
của những năm đầu thập niên 80 vốn đã giảm hẳn lạm
phát và thất nghiệp, và trên thực tế, nó đã tạo thêm nguồn
thu cho chính phủ bằng cách tăng thêm nhiều việc làm.
(Rất tiếc, mặc dù cố vận động cho biện pháp này tại Quốc
hội, Kennedy đã chết trước khi nó trở thành luật, và hầu
hết những công trạng lịch sử của bước đi táo bạo này –
cũng như cải cách về các quyền dân sự của Kennedy – sẽ
rơi vào tay người thừa nhiệm không thích hợp của ông,
10
Lydon Baines Johnson).
JFK thực sự là “một chàng trai luôn hối hả.” Nhưng điều
duy nhất mà ông thực sự hối hả hướng đến lại là cái chết
của ông ta, vì với tư cách tổng thống, ông sẽ phải thừa kế
một gánh nặng gay go hơn bất cứ điều gì khác....Việt
Nam
11
Bradley S. O'Leary & Edward Lee
Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy
NGUỒN GỐC CỦA HỖN LOẠN
“Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Tạo hoá ban cho họ một số quyền bất khả nhượng”
- HỒ CHÍ MINH, 1945
Thực sự là có nhiều cuộc chiến tranh Việt Nam, và nếu
từng có một nền văn minh nào đã sớm nếm trải xung đột
bạo lực, thì đó là văn minh Việt Nam. Chiến tranh là một
phần của cuộc sống cứ như việc sinh ra và chết đi vậy.
Xuất xứ của người Việt có lẽ là ở gần Đồng bằng Sông
Hồng, ngày nay gọi là miền bắc của quốc gia này, cách
đây khoảng ba ngàn năm. Sự cố kết của nền văn hoá
nguyên thuỷ của họ, theo nhiều nhà nhân chủng học, có
thể nhận dạng được qua nghệ thuật sơ khai, tục xâm
mình, và thói quen ăn trầu (một chất kích thích như cà
12
phê), đến nay vẫn còn và để lại những vết ố trên răng. Tự
điển Encyclopedia Britanica nêu rõ:
“Mặc dù văn minh Trung Quốc về sau trở thành một ảnh
hưởng chính, nhưng việc người Trung Quốc đã không
đồng hoá được người Việt Nam đã cho thấy những yếu tố
mạnh mẽ của văn hoá bản địa xác thực đã xuất hiện ở
thung lũng Sông Hồng từ rất lâu trước khi Trung Quốc
thiết lập nền đô hộ một ngàn năm của họ ở Việt Nam”.
Thật vậy, chính Trung Quốc đã tiến hành những cuộc
chiến tranh đầu tiên xâm lăng Việt Nam; Trung Quốc rất
quan tâm đến đất đai màu mỡ của đồng bằng Sông Hồng
và việc sử dụng nó như một thương cảng. Lúc ấy người
Trung Quốc đã dại dột tìm cách nô lệ hoá người Việt Nam
vì những mụch đích riêng của họ đồng thời tìm cách thay
thế văn hoá và tín ngưỡng Việt Nam bằng văn hoá và tín
ngưỡng riêng của họ. Nỗ lực này không thành, và vào
năm 40 sau công nguyên, hai chị em người Việt – Trưng
Trắc và Trưng Nhị – đã khởi binh đánh tan các đạo quân
Trung Quốc chiếm đóng và giành độc lập trọn vẹn cho Việt
Nam trong ba năm. Đó không phải là một thành tích tồi đối
với một nền văn hoá nhỏ bé đương đầu với con rồng vĩ đại
Trung Quốc.
Cuộc nổi dậy đầu tiên chống lại nền chuyên chế của một
13
nước lớn đó chỉ là khởi đầu cho nhiều cuộc nổi dậy khác.
Qua nhiều thế kỷ. Trên thực tế, sau này nhân dân Việt
Nam sẽ bị Trung Quốc đô hộ…nhưng họ không bao giờ
ngừng tranh đấu giữ gìn bản sắc riêng của mình, cũng
không bao giờ chịu thống trị hoàn toàn trước nền thống trị
của Trung Quốc. Sự yêu chuộng tinh thần Việt Nam đích
thực đã bắt đầu như thế. Dù bị đàn áp nặng nề tới đâu, họ
không bao giờ thôi chiến đấu chống lại những kẻ áp bức,
họ không bao giờ đầu hàng. Gia đình và văn hoá của họ là
những ưu tiên hàng đầu, và ngay cả khi bị người Trung
Quốc cai trị hà khắc, họ vẫn trui rèn kỹ năng đề kháng của
mình. Chính những kỹ năng này sẽ được mài sắc thêm
mãi cho đến khi họ giành được độc lập hoàn toàn hai ngàn
năm sau đó.
Họ không bao giờ đầu hàng.
Vào cuối những năm 1850, một thế lực đàn áp mới xuất
hiện. Nước Pháp, với vũ khí tối tân và chiến lược quân sự
tốt hơn, đã tuyên bố quyền cai trị của mình trên quốc gia
này, họ dùng tới danh Chúa Trời để tìm kiếm thương
trường cực kỳ cần thiết ở nước ngoài. Nước Pháp đã mất
mười sáu năm để áp đặt thành công quyền lực đế quốc
lên những vùng đất mà họ gọi là thuộc địa Đông Dương,
ngày nay là Việt Nam, Campuchia và Lào. Tuy nhiên, Việt
14
Nam là nơi người Pháp cai trị cứng rắn nhất, và họ đã cố
tình chia cắt quốc gia này thành những vùng thuộc địa
tách rời nhằm làm tiêu tan tính bản sắc văn hoá của dân
chúng. Những toàn quyền người Pháp tàn bạo đến đây để
Aâu hoá nền văn hoá “man rợ” và khai thác những tài
nguyên của vùng đất này – tất cả vì “Nước Pháp Toàn
Cầu”. Nơi đây là món nợ của người da trắng : nạn cưỡng
dâm, cướp bóc, nô dịch, làm việc tới chết để tìm cao su và
ngà voi. Bất cứ nơi nào có sự phản kháng, quân Pháp liền
được phái tới để “bình định”, để lại những mặt đường đẫm
máu. Người dân địa phương nào không chết vì súng đạn
sẽ bị đối xử như những kẻ phản bội và bị xử trảm nơi công
cộng. Không có gì là thành kiến khi nói rằng người Pháp
rất đáng chê trách trong việc đối xử với người “Đông
Dương”. Người Pháp đã tự cho thấy họ là những kẻ tra
tấn ghê tởm đối với một dân tộc chỉ muốn sống và được tự
do như những dân tộc khác, nhưng rồi dân tộc đó chỉ
được nhồi nhét giáo lý Công giáo và chết đói vì không đạt
được những chỉ tiêu xuất khẩu qua Pháp. Từ những năm
1860 đến những năm 1940, hàng ngàn người chết trong
khi làm đường bộ, đường xe lửa, xưởng tàu, và kênh đào.
Hàng ngàn người khác chết trong các hầm mỏ, những
cánh đồng và kênh mương thuỷ lợi. Những người Việt
15
Nam chết vì đói khát hay kiệt sức trên những đồn điền cao
su thường được chôn gần các gốc cao su – một thứ phân
bón không tốn tiền – và khi những người nông dân van xin
giảm thuế trong lúc đói kém, người Pháp đã từ chối. Đau
ốm trong các nhà máy xi măng và xưởng dệt, người công
nhân thường bị bỏ mặc cho chết không thuốc men chữa
trị, người ta sẽ thay họ bằng người làm công mới, và đó
được coi là hiệu quả cao.
Những người Pháp bóc lột không ngừng quất ngọn roi của
chủ nghĩa thực dân một cách tàn nhẫn lên lưng người dân
Việt Nam… cho đến khi một kẻ mạnh hơn chen chân vào.
Quân đội Nhật.
Tháng 9. 1940, sau khi Pháp đầu hàng Phát xít Đức, vị
toàn quyền Pháp ở Việt Nam cho phép Nhật đưa 30.000
quân vào tiếp quản các sân bay để sử dụng vào mục đích
quân sự chống lại các nước Đồng minh (3)
[(Encyclogpedia Britannica, Vietnam, History)]. Khi người
nông dân van xin giảm thuế vì hạn hán, người Pháp đã từ
chối, còn người Nhật thì nhún vai bởi vì hợp đồng cộng tác
giữa họ với người Pháp không dính dáng đến bất cứ
chuyện cai trị nào đối với dân bản xứ. “Hãy mang đơn kiện
tới chỗ người Pháp,” họ nói vậy với nông dân. Cuối cùng
thì hạn hán đã dẫn tới nạn đói làm chết gần hai triệu người
16
Việt Nam trong lúc người Pháp và người Nhật vẫn ăn
uống ngon lành. Lượng gạo dư thừa có thể cứu sống
những người đang hấp hối đã được đem xuất khẩu sang
Nhật, và người Pháp không phản đối. Chừng nào người
Nhật còn được sung sướng, quyền cai trị của Pháp vẫn
không bị sứt mẻ. Nói cách khác, bằng cách nhân nhượng
người Nhật ở Việt Nam, người Pháp đã trực tiếp ủng hộ
một cường quốc phe Trục có liên minh với Phát xít Đức,
cũng chính là guồng máy quân sự đã diễu hành đắc thắng
trên các đường phố Paris.
Nói rằng người Pháp khom mình liếm gót thì quả cũng
không ngoa chút nào. Và họ sẽ tiếp tục liếm gót cho tới khi
cuộc chiến tranh sắp sửa kết thúc, lúc ấy người Nhật,
nhận ra tình thế khó khăn cuả mình, sẽ tống tất cả lính
tráng Pháp vào tù để đề phòng một cuộc nổi dậy. Nhưng
vào lúc này có nhiều người khởi nghĩa hơn – những người
khởi nghĩa bản xứ – chống lại sự áp bức của cả Pháp lẫn
Nhật. Việt Minh là tên gọi của một nhóm dân quân du kích
được tổ chức tốt và lập tức được cả nước đứng sau lưng.
Đứng đầu nhóm là người sau này trở thành vị lãnh tụ duy
nhất từng giành thắng lợi trong một cuộc chiến tranh
chống lại người Mỹ: Hồ Chí Minh.
Thế nhưng có một sự thật ít người biết rằng, vào cuối Thế
17
chiến 2, Hồ Chí Minh là bạn đồng minh của nước Mỹ, hoặc
ít nhất ông ta đã đi đến chỗ tin rằng như thế. Đầu tiên,
Tổng thống Roosevelt tuyên bố mạnh mẽ chống lại chủ
nghĩa đế quốc và sự áp bức ở Châu Á, và Hồ Chí Minh tin
ông ta. Hãy nhớ rằng, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ chưa phải
là một người cộng sản thực sự, nhiệt tình của ông là tinh
thần ái quốc thuần tuý, là tìm cách lật đổ hoàn toàn nền
thống trị đế quốc trên đất nước, giành lại Việt Nam cho
người Việt Nam. Ngay cả khi chiến thắng của phe Đồng
minh trong thế chiến 2 đã trở nên chắc chắn, thì sự hiện
diện của quân Nhật tại Việt Nam cũng gây ra nhiều vấn đề,
và các gián điệp Mỹ, Anh được gởi đến để giải quyết. Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh chủ động đánh
cắp các kho lương thực của người Nhật đồng thời giải
thoát các tù nhân và những phi công Đồng minh bị rớt máy
bay. Ngày nước Nhật chính thức đầu hàng sau khi hai
thành phố Hiroshima và Nagasaki bị thả bom nguyên tử,
vẫn còn 100.000 quân Nhật tại Việt Nam, và chính Hồ Chí
Minh là người đã hết lòng giúp đỡ người Mỹ bằng cách chỉ
rõ những vị trí trú đóng của quân Nhật cho nhóm OSS của
Mỹ, lập tức người Mỹ thông báo điều này cho người Anh
là nước chịu trách nhiệm giải giới quân đội Nhật.
Tin tưởng là có sự giúp đỡ của chúng ta, Hồ Chí Minh
18
chính thức tuyên bố đất nước độc lập – nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà – và thậm chí ông đã viết bản tuyên
ngôn độc lập dựa trên tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ.
Franklin Delano Roosevelt lúc ấy đã chết, Harry S. Truman
thay ông làm tổng thống, nhưng khi Hồ Chí Minh yêu cầu
Truman đưa ra sự ủng hộ chính thức của Mỹ, ông nhanh
chóng nhận ra rằng những phát biểu ủng hộ Việt Nam của
Franklin Delano Roosevelt mới đây bây giờ đã không còn
được chính quyền mới ở Washington tôn trọng nữa.
Truman phớt lờ những yêu cầu khẩn thiết của Hồ Chí
Minh, và đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ phải làm mọi
cách trong quyền hạn của mình để giúp phục hồi nước
Pháp hậu chiến càng hiệu quả càng tốt, kể cả việc cho
phép nước Pháp giành lại quyền coi ba nước Lào,
Campuchia và Việt Nam là bộ phận của Đế Quốc Thuộc
Địa Pháp.
Miệng chửi tay đấm, người Anh đã rất xảo trá tái vũ trang
cho quân Nhật và sử dụng họ để lật đổ chính quyền dân
chủ mới tuyên bố ở một nưả phía nam của quốc gia này.
Đối với Hồ Chí Minh – cũng như đa số dân chúng ủng hộ
ông – đây là kịch bản cuối cùng trong trò lật lọng của
phương tây. Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta rất nhiều trước
khi Thế chiến 2 kết thúc – ông đã cứu sống nhiều quân
19
Đồng minh – vậy mà chúng ta đền đáp ông như thế.
Chúng ta tái vũ trang chính những kẻ xâm lược mà ông đã
giúp chúng ta tước vũ khí, và rồi chúng ta sử dụng vũ lực
đó để tìm cách xoábỏ chính quyền hợp pháp của ông ta.
Campuchia và Lào nhượng bộ; họ chấp nhận độc lập “cục
bộ” trong “Liên Hiệp Pháp”. Nhưng Hồ Chí Minh không
nhượng bộ. Ông chống lại nước Pháp mới hồi phục, và
người Pháp cười nhạo. Người Pháp khoác lác nói rằng đội
quân của ông Hồ sẽ bị quét sạch trong tám ngày.
Nhưng sau thời gian tám năm, đến năm 1954, người Pháp
đã không quét sạch được cái gì khác ngoài sự ngạo mạn
của họ. Cho dù có hai tỉ rưỡi đô la do Mỹ viện trợ để tái lập
“thuộc địa” ở Việt Nam, người Pháp cũng đành thu xếp đồ
đạc trở về nước sau thất bại thảm khốc tại cứ điểm quân
sự Điện Biên Phủ. Quân Việt Minh nhanh trí hơn, giỏi
chiến lược hơn, và thiện chiến hơn quân đội Pháp trên
từng giai đoạn của cuộc chiến. Ông Hồ xẻo quân Pháp ra
như xẻo một súc thịt. Đây là một tin chấn động, vì một
trong những quốc gia chiến thắng trong Thế chiến 2 đã
thất bại trước một đội quân được coi là nhỏ yếu lúc bấy
giờ. Nhưng rõ ràng họ đã thất bại. Hồ Chí Minh đã phá huỷ
hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc của Pháp tại Việt Nam, thực
vậy, sự kiện đó nghiêm trọng đến mức một hội nigh đa
20
- Xem thêm -