ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LƢƠNG THỊ YẾN NGỌCVIỆC LỰA CHỌN GIỚI
TÍNH THAI NHICỦA NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG SINH
CON THEO Ý MUỐN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN HỌC
Giảng viên hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu
Hƣơng
Hà Nội-2016
MỤC LỤC
2DANH MỤC TỪVIẾT TẮT...................................................................................3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ...............................................................................4
PHẦN MỞĐẦU.......................................................................................................5
1. Lý do chọn đềtài...........................................................................................5
2. Tổng quan vềđềtài nghiên cứu..............................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................11
5. Mụcđíchnghiên cứuvà câu hỏi nghiên cứu....................................18
6. Cấu trúc luận văn.......................................................................................19
CHƯƠNG 1. CƠ SỞLÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
ĐỀTÀI......................201.1Các khái niệm và thuật ngữkhoa
học...........................................20
1.1.1Gia đình đình và sinh đẻ..........................................................................20
1.1.2Tỷsốgiới tính khi sinh, lựa chọn giới tính trước sinh.........21
1.1.3Các thực hành lựa chọn giới tính thai nhi phổbiến ởViệt Nam hiện
nay.................................................................................................................23
1.2Khung lý thuyết áp dụng...................................................................25
1.2.1Lý thuyết chức năng...................................................................................25
1.2.2Lý thuyết Nhân học biểu tượng/ diễn giải...................................26
1.3Thực trạng mất cân bằng giới tính ởViệt Nam và trên thếgiới
27Tiểu kết chương 1........................................Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 2. BỐI CẢNH VĂN HÓA DẪN TỚI HÀNH VI LỰA CHỌN GIỚI
TÍNH TRƯỚC SINH...........................................Error! Bookmark not
defined.2.1.Ý niệm vềgiá trịcủacon cái trong gia đìnhError! Bookmark not defined.
32.1.1.Giá trịmang tính kinh tếcủa con cái.....Error! Bookmark not defined.
2.1.2.Vai trò duy trì nòi giống.............Error! Bookmark not defined.
2.1.3.Nhân tốgắn kết cuộc hôn nhân của cha mẹ.......................Error! Bookmark not
defined.
2.2.Ý niệm vềgiá trịcủa con trai trong gia đình....Error! Bookmark not defined.
2.2.1.Giá trịmang tính kinh tế............Error! Bookmark not defined.
2.2.2.Bổn phận nối dõi tông đường.Error! Bookmark not defined.
2.2.3.Vai trò xã hội, nhân tốgắn kết và đảm bảo hôn nhân bền vững của cha
mẹ.............................................Error! Bookmark not defined.Tiểu kết chương
2........................................Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3. HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM CON TRAI.....Error! Bookmark not
defined.CỦA CÁC CẶP VỢCHỒNG................................Error! Bookmark not
defined.
3.1Sinh và có con trai là ước muốn và “trọng trách” không thểchối
bỏ.............................................................................................................................Er
ror! Bookmark not defined.
3.1.1.Có con trai: định kiến và kỳvọng xã hội.......Error! Bookmark not defined.
3.1.2.Hành trình tìm kiếm con trai và điều phải đánh đổi.....Error! Bookmark not
defined.
3.2.Chúng ta có thểvượt lên định kiến..............Error! Bookmark not defined.
3.2.1.Định kiến không trừmột ai......Error! Bookmark not defined.
3.2.2.Vai trò của nam giới trong cương vịngười chồng........Error! Bookmark not
defined.
4Tiểu kết chương 3........................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ........................Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................33
PHỤLỤC ẢNH.....................................................Error! Bookmark not defined.
3
4DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu trường hợp....................9
Bảng 1.1: SRB ởmột sốquốc gia và khu vựctrên thếgiới.............................27
Bảng 1.2: Tỷsốgiới tính khi sinh thời kỳ1999 –2011...................................29
Bảng 1.3: SRB phân theo vùng thời kỳ2011 –2015.........................................29
Bảng 1.4: SRB phân theo thành thị, nông thôn thời kỳ2000 –2014..........31
Biểu đồ1.1: SRB theo vùng và nông thôn/thành thịnăm 2009...................32
Bảng 2.1: Mục đích khách hàng đến khám tại phòng khám thầy
Phong ..........................................................................................Error! Bookmark
not defined.
Bảng 2.2: Thống kê LCGTTS phân theo độtuổiError! Bookmark not defined
5PHẦN MỞĐẦU
1. Lý do chọn đề tài“Chủ trương đẻ hai con của nhà nước là tuyệt vời nhưng hạn
chế đẻ ít thì người dân phải tìm, phải chọn, có nhiều người đi nạo thai bảy lần. Bà
hàng xóm ở cạnh nhà tôi nạo thai chục lần, gần chết. Bà ấy bảo cao tuổi vẫn phải
hoạt động, vẫn nạo thai, nếu không chồng đánh, nó bóp cổ, chạy sang nhà tôi kêu:
“chị ơi, cứu em”. Già 52 tuổi rồi mà vẫn bị bóp cổ phải đẻ”. Câu chuyện về người
hàng xóm được một nữ lãnh đạo xã tại Hưng Yên kể lại trong cuộc nghiên cứu
định tính về “Sự ưa thích con trai ở Việt Nam” (UNFPA, 2011) đã gợi mở tính chất
phức tạp trong hành vi sinh đẻ của gia đình Việt. Đó không chỉ là bài toán giảm
mức sinh mà còn chứa đựng yếu tố tâm lý, văn hóa truyền thống trong bối cảnh y
học, khoa học công nghệ phát triển như hiện nay. Hệ quả trực tiếp của những điều
này chính là sự mất cân bằng giới tính khi sinh (sau đây viết tắt
làCBGTKS).Những ca mất CBGTKS đầu tiên ở Việt Nam được ghi nhận vào năm
1999 với 107,0 bé trai trên 100 bé gái (gso.gov.vn).Chỉ trong hơn một thập niên, tỷ
số giới tính khi sinh (SRB)ở nước ta đã tăng lên 112,3 (2012) (gso.gov.vn)và được
dự báo sẽ lên đến đỉnh điểm là 115 vào năm 2020 (TCTKVN, 2009).Hiện tượng
nam hóa một cách bất thường về mặt nhân khẩu học đã gây ra những tác động
nghiêm trọng về kinh tế -xã hội (UNFPA, 2011) mà bằng chứng rõ ràng nhất là sự
thiếu hụt nghiêm trọng nữ giới trong độ tuổi kết hôn ở Trung Quốc và Hàn Quốc
trong hơn mộtthập niên trở lại đây. Đó là kết quả của tâm lý ưa thích con trai, chính
sách giảm sinh cùng sự làm dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật (Gulmoto, 2009), dẫn
đến việc LCGTTS. LCGTTS dù là bé trai hay bé gái cũng là biểu hiện của sự bất
bình đẳng giới. Ngược lại, chínhtình trạngbất bình đẳngvềgiới đã làm nảy sinh tâm
lý ưa chuộng con trai và LCGTTS.Cũng như một số quốc gia châu Á khác, những
quan điểm của hệ tư tưởng Nho giáo đã ăn sâu bén rễ vào đời sống văn hóa, tinh
thần người Việt, trở thành bệ đỡ vững chắc cho hệ thống thân tộc cùng hình thức
cư trú bên nội(UNFPA, 2011).
6Những giá trị mà con trai mang đến, khi đó trở thành kỳ vọng, mong mỏi của cả
ông bà, cha mẹ, quy định tập quán sinh đẻ trong gia đình Việt Nam truyền thống
(Hồ Ngọc Châm, 2011).Thành công của chiến dịch dân số-kế hoạch hóa gia
đình(KHHGĐ) do Đảng và Nhà nước Việt Nam vận động từ cuối thập niên 80 với
khẩu hiệu mỗi gia đình chỉ nên sinh từ một đến hai con (theo điều 2, Quy định về
một số chính sách dân số và KHHGĐ, 1988) (thuvienphapluat.vn)đã làm giảm số
con của mỗi gia đình, điều này đồng nghĩa với nguy cơ không có con trai tăng lên
(Trần Thị Thanh Loan, 2012). Trong bối cảnh khoa học –kỹ thuật phát triển như
hiện nay, người ta có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế hỗtrợ
LCGTTS để vừa có thể sinh ít con mà vẫn đảm bảo có con trai. Mặc dù những hậu
quả mà mất CBGTKS gây ra đã được nhà nước đẩy mạnh tuyên truyền trong thời
gian gần đây nhưng “từ nhận thức đến thay đổi hành vi là cả một quá trình, không
thể thay đổi trong một sớm một chiều” [19, tr.41].Trước thực trạng này, nhiều
nghiên cứu đã được thực hiện (UNFPA, 2009, 2011, 2012; Vũ Thị Cúc, 2012;
Trần Minh Hẳng, 2012; Trần Thị Thanh Loan, 2012) để đưa ra bức tranh toàn cảnh
về tình hình mất CBGTKS ở Việt Nam, chỉ rakhía cạnh văn hóa của tâm lý chuộng
con trai, hậu quả của việc dư thừa nam giới và xây dựng giải pháp nhằm đứa SRB
trở lại mức cân bằng. Những nghiên cứu này chủ yếu xét đến việc nạo phá thai
nhằm loại bỏ các bé gái mà ít quan tâm đến việc lựa chọn giới tính thai nhi trước
khi mang thai.Hiện nay, có rất nhiều phương pháp lựa chọn giới tính thai nhi và
các cặp vợ chồng có thể dễ dàng tìm hiểu qua các phương tiện thông tin đại chúng,
phổ biến nhất là internet. Áp dụng Đông y là một trong số các phương pháp ấy.Đây
là một quan niệm toàn diện, thống nhất, chỉnh thể trong công tác phòng bệnh, chẩn
đoán bệnh và chữa bệnh, dựa trên nền tảng kết hợp lý luận các học thuyết âm
dương, ngũ hành và thiên nhân hợp nhất[45; tr. 27].Tuy nhiên, phần lớn các cặp vợ
chồng đều có sự kết hợp giữa uống thuốc Bắc với một số cách khác.
72. Tổng quan về đề tài nghiên cứuMất CBGTKS là một vấn đề nhân khẩu học,
nảy sinh từ những hệ quả của văn hóa truyền thống trong bối cảnh đời sống kinh tế
-xã hội hiện đại. Các nghiên cứu về tình trạngnàyvì thế mà thường đi từ cách tiếp
cận cấu trúc xã hội, ràng buộc xã hội để thấy được rõ sự chi phối của các khuôn
mẫu, chuẩn mực về gia đình trong xã hội đến tập quán, khuynh hướng sinh con
trong gia đình Việt (Nguyễn Văn Chính, 1999; UNFPA, 2011; Vũ Thị Cúc, 2012).
Nguyễn Văn Chính là một nhà Nhân họcđã dành nhiều quan tâm đến vai trò chi
phối của các khuôn mẫu, chuẩn mực trong xã hội về gia đình đến việc sinh đẻ từ
cuối thập kỷ 90.Kếtquả nghiên cứu trường hợp tại làng Giaocủa ôngđăng trên tạp
chí Xã hội học (1999)bàn về mối quan hệ giữa tỉ lệ sinh cao và vấn đề sử dụng lao
động trẻ em trong xã hội nông thôn. Trong đó, yếu tố cấu trúc gia đình, các ràng
buộc văn hóa và các giá trị xã hội của trẻ em là nguyên nhân cơ bản của tình trạng
mức sinh cao.Trước tình trạng gia tăng đáng kể của SRB từ đầu thế kỷ 21 đến nay
ở Việt Nam, Quỹ dân số Liên hợp quốcđã thực hiện một số nghiên cứu định tính về
thực trạng này ở nước ta. Các kết quả nghiên cứuđã làm nổi bật những yếu tố xã
hội, văn hóa và sức khỏe tác động đến tỷsố giới tính khi sinh ở Việt Nam để thấy
được tâm lý ưa thích con trai trong mối liên hệ với tình trạng mất
CBGTKS(UNFPA, 2011). Những người tham gia vào lựa chọn giới tính và công
nghệ họ sử dụng để lựa chọn và kiểm soát giới tính thai nhi là bằng chứng xác thực
mà báo cáo đưa ra để thảo luận về chính sách, xây dựng và điều chỉnh tâm lý, hành
vi yêu thích con trai dẫn đến sự mất cân bằng giới tính ở Việt Nam hiện nay.Một
nghiên cứu kháccủa Vũ ThịCúc(tạp chí nghiên cứu Giới và Gia đình,
2012)làtổng quan một số kết quả nghiên cứu đã có về vấn đề lựa chọn giới tính thai
nhi ở Việt Nam dưới góc độ nhân tố tác động. Đó là quan niệm gia trưởng, chính
sách KHHGĐ, sự phát triển của y học hiện đại. Tác giả chỉ ra rằng mặc dù nhà
nước đã quan tâm, ban hành nhiều chính sách cụ thể để kiểm soát việc lựa chọn
giới tính thai nhi nhưng hiệu quả của pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.
Mất CBGTKS là hệ quả của ba yếu tố: tâm lý ưathích con trai, dịch vụ y tế hỗ trợ
và việc giảm mức sinh. Trong đó, yếu tố tâm lý, nhận thức của người dân được
xem như vấn đề cốt lõi (Guilmoto, 2009). Một số nghiên cứu(Trần Thị Thanh
Loan, 2012; UNFPA, 2012) đã cung cấp quan điểm, thái độ cũng như nhận thức
của người dân về vấn đề mất CBGTKS ở Việt Nam. Nghiên cứu trường hợptại
Hưng YêncủaTrần Thị Thanh Loan đã đưa ra nhận thức của những người tham gia
trả lời nghiên cứu về nguyên nhân và hậu quả của tình trạng mất cân bằng giới tính
đang diễn ra hiện nay(Tạp chí nghiên cứu Giới và Gia đình, 2012). Người dân
nhận thức rất rõ việc dư thừa nam giới làm gia tăng thêm nhiều vấn đề xã hội,
không những không cải thiện được vị thế của phụ nữ mà còn đẩy phụ nữ đến chỗ
yếu thế hơn.Báo cáo “Nghiên cứu về giới, nam tính và sự ưa thích con trai ở Nepal
và Việt Nam” (UNFPA, 2012) đã cung cấp cái nhìn tổng thể từ góc độ của nam
giới ở Việt Nam và Nepal về vấn đề bình đẳng giới, thái độ với trải nghiệm về bạo
lực, thái độ với pháp luật và chính sách về quyền và sứckhỏe sinh sản (SKSS), tâm
lý ưa thích con trai. Trong báo cáo này, nhận thức về tầm quan trọng của con trai –
con gái của nam giới được đặt trong tương quan các yếu tố dẫn đến tâm lý ưa thích
con trai ở Việt Nam và Nepal.Đi từ Nhân học y tế là một hướng tiếp cận mới về
mất CBGTKS ở Việt Nam(Trần Minh Hằng, 2012).Luận án Tiến sĩ “Nạo phá thai
lựa chọn giới tính thai nhi ở Việt Nam:nghiên cứu trường hợp tại một bệnh viện ở
Hà Nội” của Trần Minh Hằngđã chỉ ra những yếu tố tạo áp lực khiến các cặp vợ
chồng mong muốn và lựa chọn giới tính cho con. Cụ thể, họ đã lựa chọn giới tính
thai nhi trước khi thụ thai, xác định giới tính trong thời gian mang thai và nạo phá
thai khi không đạt được kết quả như mong muốn. Tác giả cũng đãnhấn mạnh đến
vấn đềnạo phá thai để lựa chọn giới tính thai nhi, nêu bật mâu thuẫn giữa thực tế và
chính sách, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị, đề xuất cụ thể nhằm khắc phục
và hạn chế tình trạng này.Các tài liệu nói về gia đình, cấu trúc gia đình cũng như
những chuẩn mực trong giađình Việt khá nhiều. Trong đó, việc sinh con trai được
bàn đến như một lối suy
9nghĩ đã trở thành khuôn mẫu, quy định vị thế cũng như hành vi của các thành
viên trong gia đình và xã hội. Khi mang thai, việc dễ dàng sử dụng dịch vụ siêu âm
chẩn đoán giới tính và nạo phá thai sàng lọc giới tính trước sinh trở nên dễ dàng
hơn đã dẫn đến mất CBGTKShiện nay. Tuy vậy, vấn đề lựa chọn giới tính trước
khi mang thai bằng can thiệp y học để cá nhân khẳng định vị thế của mình vẫn
chưa được bàn đến nhiều.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứuĐối tượng nghiên
cứuLCGGTS là việc can thiệp có chủ đích để con sinh ra mang giới tính như mong
muốn. Hiện nay, ở Việt Nam có khá nhiều phương pháp LCGTTS được các cặp vợ
chồng áp dụng, bao gồm cả trước khi thụ thai (sẽ được trình bày cụ thể hơn trong
chương 1) và trong quá trình mang thai. Do những hạn chế về mặt thời gian, nguồn
lực tài chính cũng như chuyên môn nên trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ
đi vào nghiên cứu những cặp vợ chồng sử dụng Đông y (uống thuốc Bắc, có kết
hợp với một số biện pháp khác) để LCGTTS mà chưa tiến hành nghiên cứu ở
nhóm đối tượng sử dụng Tây y, cầu tự hay các biện pháp khác.Tên đối tượng
nghiên cứu đã được thay đổi đểđảm bảo nguyên tắc ẩn danh.Ngoài hai trường hợp
là cặp vợ chồng LCGTTS được lựa chọn để thực hiện nghiên cứu trường hợp, các
kết quả nghiên cứu còn được thu thập từ gia đình, họ hàng, hàng xóm của hai
trường hợp này. Phỏng vấn sâu cũng được tiến hành trên những cặp vợ chồng có
thực hành LCGTTS khác mà tác giả tiếp cận được.Bảng 1: Thông tin chung về đối
tượng nghiên cứu trường hợpTrường hợp 1Trường hợp 2Trường hợp 3Thông
tinChồngVợChồngVợChồngVợTênPhúcLanTuấnHạnhDũngThanh
10Tuổi504845433327Nghề nghiệpNông dânNông dânKinh doanhLao động tự
doCông nhânCông nhânQuê quánBắc GiangHưng YênSơn LaYên BáiNơi cư
trúBắc GiangHà NộiBắc NinhSố con3 con gái, 1 con trai2 con gáiChưa có conMục
đíchĐã LCGTTS thành côngLCGTTSChữa vô sinh, hiếm muộnLCGTTS đồng
nghĩa với việc các cặp vợ chồng có thể mong muốn và sử dụng biện pháp để sinh
con trai hoặc con gái như ý muốn. Thực tế tại địa bàn nghiên cứu cũng như các
thống kê, dự báo về SRB ở Việt Nam (TCTKVN) ở Việt Nam hiện nay là bằng
chứng cho thấy các bé trai được ưa thích và lựa chọn nhiều hơn hẳn so với các bé
gái. Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu việc lựa chọn sinh con trai
của các cặp vợ chồng.Phạm vi nghiên cứuKhông gian: phòng khám Đông ycủa
thầy Phong, 61 tuổi (tên người cấp tin đã được thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn
danh)tại Quế Võ, Bắc Ninh. Đây là một phòng khám cá nhân, có thời gian hoạt
động từ 7h30 đến 18h tất cả các ngày trong tuần, do thầy Phong trực tiếp đảm nhận
từ việc bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc. Khách hàngđến khám thuộc nhiều đối tượng
khác nhau nhưng đại đa số đều ở Đồng bằng sông Hồng –khu vực có SRB cao nhất
cả nước(xem bảng 1.3).Thời gianđiền dã: Do đề tài đi vào nghiên cứu trường hợp
nên tác giả cần có thời gian tìm kiếm, tiếp cận và tạo dựng lòngtin với đối tượng
nghiên cứu. Để làm được điều đó, tác giả đã đến các phòng khám Đông y để tìm
kiếm các cặp vợ chồng có thực hiện LCGTTS, sau đóviệc thực hiệnnghiên cứu
sâumới có thể tiến hành. Vì vậy, thời gian nghiên cứu được chia thành hai giai
đoạn:
11-Từ 5-9/2015: Khảo sát tại phòng khám Đông ynhằm thu thập những thông tin
định lượng, tìm kiếm và tạo dựng mối quan hệ đối với chủ thể nghiên cứu.-Từ
7/2015 –12/2015: Khảo sát, nghiên cứu theo cặp đối với những cặp vợ chồngđược
lựa chọn để nghiên cứu sâu.4. Phương pháp nghiên cứu4.1.Phương pháp nghiên
cứuPhương pháp điền dã.Tác giả trực tiếp tới địa bàn nghiên cứu, quan sát thực
trạng LCGTTS tại một phòng khám Đông y, tìm kiếm và tiếp cận các cặp vợ chồng
có LCGTTS để từ đó thực hiện nghiên cứu trường hợp.Phương pháp câu
chuyệncuộc đời.Mục tiêu của phương pháp này là tìm hiểu các cặp vợ chồng được
nghiên cứu trong bối cảnh thời gian dài, từ khi họ kết hôn cho đến khi họ quyết
định can thiệp LCGTTS(đối với những cặp vợ chồng LCGTTS) hoặc quá trình
chữa trị vô sinh, hiếm muộn (nghiên cứu trường hợp vô sinh, hiếm muộn)để thấy
suy nghĩ của bản thân họ về việc này diễn ra như thế nào trong suốt thời gian đó và
có sự thay đổi gì trong nhận thức đó hay không? Phương pháp chọn mẫu: chọn
mẫu thuận tiện. Do đặc thù của đề tài nghiên cứu, việc tiếp cận địa bàn và đối
tượng nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, mẫu nghiên cứu được lựa chọn dựa trênsự
thuận lợi, tính dễ tiếp cận và đồng thuận của đối tượng nghiên cứu. Việc nghiên
cứu trường hợp, trong điều kiện nhân lực và tài chính hạn chế chỉ có thể thực hiện
được ở một số ít đối tượng có sự đồngthuận cao và nhiệt tình giúp đỡ tác giả.Số
lượng mẫu: 3. Trong đó: 2 trường hợp LCGTTS và 1 trường hợp vô sinh, hiếm
muộn. Thông tin về đối tượng nghiên cứu:đã trình bày trong phần đối tượng và
phạm vi nghiên cứu.Phươngpháp phân tích mạng lưới xã hội, vốn xã hội:Mục đích:
Nghiên cứu sâu đến mức tối đa có thể những cặp đôi này để thu được kết quả sâu
sắc hơn, hiểu được sâu sa động cơ, tâm lí, nhận thức của họ xoay quanh
12việc sinh con theo ý muốn. Tìm hiểu các nguồn lực kinh tế, vốn tri thức, mối
quan hệ xã hội có tác động như thế nào đến việc suy nghĩ và quyết định can thiệp
LCGTTS.Số lượng mẫu: 3, trong đó, 2 mẫu sinh con theo ý muốn và 1 mẫu chữa
vô sinh, hiếm muộn.Phương pháp phân tích dữ liệu diễn ngôn:Phân tích suy nghĩ,
tâm lí của các cặp được nghiên cứu thông cách thái độ, giao tiếp hàng ngày của họ
về vấn đề con cái, gia đình, rộng hơn là yếu tố văn hóa, xã hội để thấy được mức
độ quan tâm đến giới tính cho của con họ. Họ muốn có con trai hay con gái hay đủ
cả trai lẫn gái do ý thích cá nhân hay giới tính của con còn chứa đựng những mong
muốn, kỳ vọng nào khác của cha mẹ. Phương pháp quan sát:Quan sát những cặp
đôi tìm đến hai phòng khám được lựa chọn làm địa bàn nghiên cứu để thấy được
thái độ, tâm trạng của họ khi đến đây.4.2.Khó khăn và thách thức trong tiếp cận
nghiên cứuSRB hay nạo phá thai lựa chọn giới tính là những vấn đề nổi cộm, được
UNFPA và một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam quan tâm. Việc LCGTTS cũng đã
được bàn đến rất nhiều trong các báo cáo của UNFPA, tuy nhiên, vẫn chưa có
nhiều nghiên cứu trường hợp về những cặp vợ chồng LCGTTS. Đây không phải
vấn đề quá nhạy cảm, song việc tiếp cận địa bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên
cứu cũng có một số khó khăn, hạn chế nhất định.4.2.1.Khó khăn khi tiếp cận địa
bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên cứuPhòng khámĐông yđầu tiên mà tác giả tìm
đến là của thầy Đông, ở Yên Phong –Bắc Ninh(tên người cấp tin đã được thay đổi
để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh). Đây là một phòng khám theo mô hình gia đình,
có quy mô khá lớn và chuyên môn hóa với nhà xe, nơi lấy số thứ tự và chờ khám,
người khám, người bốc thuốc riêng. Bệnh nhân đến khám sau khi gửi xe ở nhà con
trai thầy Đông sẽ được phát số thứ tự khám do số lượng khách khá đông. Sau đó,
khách ngồi đợi trong sân nhà thầy, chờ đến lượt vào khám. Thầy sẽ trực tiếp bắt
mạch,kê đơn cho từng người. Sau khi khám xong, khách ra ngoài tiếp tục ngồi đợi
con trai thầy (cũng là thầy thuốc) bốc thuốc. Tùy vào
13tình trạng sức khỏe từng người và nhu cầu, khoảng cách địa lí xa hay gần, mỗi
người thường được kê chín hoặc 18 thang thuốc. Tác giả biết đến phòng khám của
thầy Đông nhờ sự giới thiệu của một người quen và được cảnh báo rằng: “cẩn thận
không người ta tưởng là nhà báo người ta đuổi đấy”. Lần đầu đến đây, tác giả chưa
giới thiệu về đề tài nghiên của mình mà đến với tư cách khách hàng, lấy số và xếp
hàng vào khám như những cặp vợ chồng khác (cùng với một người nam, đóng giả
làm vợ chồng). Để có thể thực hiện nghiên cứu, tác giả cần phải khảo sát tại địa
bàn trong thời gian dài và tìm kiếm đối tượng nghiên cứu. Việc đóng giả làm khách
hàng không thể thực hiện được bởi tác giả sẽ bị thầy hoặc người trông xe nhớ mặt.
Và điều quan trọng là cách làm này vi phạm đạo đức trong nghiên cứu. Vì vậy, sau
hai lần đóng vai khách hàng, tác giả đã trình bày rõ mục đích nghiên cứu với thầy
Đông nhưng thầy từ chối giúp đỡ. Bởi lẽ, lượng người đến khám mỗi ngày ở đây
khá đông, đặc biệt là vào hai ngày cuối tuần. Phòng mạch của thầy hoạt động có
giấy phép và được hiệp hội Đông y Bắc Ninh thông qua nhưng trên các phương
tiện thông tin đại chúng vẫn có khá nhiều luồng ý kiến trái chiều về chất lượng. Vì
vậy, dù đã giới thiệu mình là nhà nghiên cứu và đảm bảo tính bảo mật của thông tin
thu thập được nhưng thầy Đông vẫn nghi ngờ và từ chối giúp đỡ.Không nhận được
sự hợp tác từ phía chủ phòng khám, tác giả đã vận dụng các mối quan hệ xã hội
của bản thân và tìm được ba cặp vợ chồng có can thiệp để sinh con theo ý muốn.
Việc nghiên cứu sâu có thể tiến hành với hai trên ba cặp vợ chồng này nhưngngoài
nghiên cứu trường hợp,điều tác giả muốn là làm một thống kêđịnh lượng về những
đối tượng lựa chọn giới tính thai nhi lại không thể thực hiện được.Dưới sự gợi ý
của một người bạn, tác giả đã sử dụng mạng xã hội để tìm kiếm đối tượng nghiên
cứu. Một điều thú vị là tất cả các bài đăng tin giới thiệu cụ thể về mục đích, mong
muốn của tác giả trên một số trang mạng như Facebook, diễn đàn webtretho,
lamchame đều không nhận được bất cứ phản hồi nào. Nhưng khi bài đăng chuyển
sang dạng: “Có ai đang có nhu cầu sinh con trai cho em xin địa chỉ lấy
huốc và kinh nghiệm?”hoặc “Có mẹ nào biết chỗ bốc thuốc đẻ con trai hay chữa vô
sinh hiếm muốn không?”thì nhận được rất nhiều phản hồi, chia sẻ kinh nghiệm của
thành viên diễn đàn. Bốn bài đăng trên fan pagewebtretho có tổng số 57 bình luận
của năm thành viên, tác giả nhận được một tin nhắn và một cuộc điện thoại; hai bài
đăng trên fan pagelamchame cũng nhận được 12 bình luận của hai thành viên. Điều
này cho thấy rằng tâm lý chung của các thành viên trên mạng xã hội chỉ quan tâm
đến những người có cùng mục đích sinh con theo ýmuốn giống như họ và sẵn sàng
tư vấn, chia sẻ kinh nghiệm rất nhiệt tình, nhưng lại e dè công việc của các nhà
nghiên cứu và báo giới. Nếu không ngại ngùng, người ta cũng sẽ bàng quan, không
quan tâm. Về sau, khi trực tiếp đến một phòng khám Đông ykhác ởQuế Võ, Bắc
Ninh, tác giả cũng gặp phản ứng tương tự như vậy của các cặp vợ chồng đến
khám.Việc tìm kiếm đối tượng nghiên cứu trên mạng cho hội cho thấy những khả
quan bước đầu, có thể tìm kiếm được một số lượng người lựa chọn giới tính thai
nhi. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu định lượng có thể không mang tính bao quát do
mẫu không mang tính đại diện. Trong số chín phản hồi tác giả nhận được trong
vòng một tuần, có năm trường hợp LCGTTS và bốntrường hợp hiếm muộn và
cảchín trường hợp đều ở độ tuổi dưới 35, trình độ học vấn Đại học. Các đối tượng
nghiên cứu tìm kiếm được trên mạng xã hội chỉ tập trung vào một số nhóm như
dân công sở, người có trình độ học vấn cao, trẻ tuổi và sống tập trung ở khu vực
thành phố, thị xã, thị trấn. Những người cũng lựa chọn giới tính thai nhi nhưng
sống ở vùng nông thôn, làm các công việc lao động chân tay và ở độ tuổi trung
niên bị bỏ qua bởi nhóm đối tượng này phần lớn đều không sử dụng internet. Nếu
có, việc tham gia các diễn đàn, mạng xã hội của họ cũng rất hạn chế. Mặc dù có
một vài người khá nhiệt tình khi biết được mục đích nghiên cứu của tác giả nhưng
việc sử dụng mạng xã hội để thực hiện nghiên cứu không khả quan. Một thành viên
trên fan pagewebtretho đã giới thiệu tác giả đến phòng khám của thầy P ở Đình
Trám –Bắc Giang. Tuy nhiên, do bốc thuốc Bắc chỉ là nghề phụ của thầy nên
khách hàng nếu muốn đến khám thường phải
15hẹn lịch trước với thầy. Vì vậy, phòng khám của thầy rất vắng khách, việc tiến
hành nghiên cứu ở đây cũng không thuận lợi.Trong lúc đang gặp khó khăn khi tìm
kiếm và tiếp cận địa bàn nghiên cứu, thông qua một người quen, tác giả được giới
thiệu đến phòng khám của thầy Phong ở Quế Võ, Bắc Ninh. May mắn rằng thầy
Phong trước khi quay trở về nhà học nghề bốc thuốc gia truyền vốn là một nhà văn,
nhà báo nên ngay khi tác giả trình bày về đề tài nghiên cứu, thầy đã hiểu và đồng ý
để tác giả hàng ngày đến quan sát,làm các công việc phục vụ cho đề tài.Khác với
phòng khám của thầy Đông, phòng khám của thầy Phong chỉ có một mình thầy
làm việc, từ bắt mạch, kê đơn đến bốc thuốc. Thầy cũng là người khá khó tính. Nếu
lượng khách đến khám đông, công việc nhiều, khách hàng thắc mắc quá nhiều thì
có thể bị thầy đuổi về. Vì vậy, trong gần một tháng đầu tiên, dù được thầy tạo điều
kiện,song công việc chính của tác giả khi đến đây là phụ giúp thầy bốc thuốc. Vào
những ngày vắng khách và xen kẽ trong lúc thầy Phong bắt mạch, tác giả tranh thủ
làm quen, giới thiệu với các cặp vợ chồng đến khám. Việc trao đổi cụ thể với các
đối tượng nghiêncứu chỉ thực hiện được khi tác giả trực tiếp đến nhà của họ.Khó
khăn khi tiếp cậnđối tượng nghiên cứuMặc dù được thầy Phong tạo điều kiện giúp
đỡ, giới thiệu với khách hàng: “Đây là sinh viên đang làm luận văn về vấn này,
không phải nhà báo nên có hỏi gì các cháu cứ trả lời” nhưng lại một lần nữa, tác
giả vấp phải sự e dè, thờ ơ từ phía các cặp đôi. Họ đùn đẩy cho nhau và từ chối
giúp đỡ tác giả. Nếu có, sự giúp đỡ ấy thường không đủ để tiến hành nghiên cứu
sâu. Hầu hết các cặp vợ chồng sinh con theo ý muốn đều mang tâm lý bàng quan
khi có ai đó hỏi về vấn đề này với mục đích tìm hiểu, “hỏi để biết”, để nghiên cứu.
Tuy nhiên, họ lại rất sẵn sàng tâm sự, chia sẻ với những người cùng hoàn cảnh.
Đây là phản ứng thường gặp, không chỉ đối với những người ở độ tuổi trung niên
mà ngay cả với những người trẻ tuổi, hiện đại và không gặp mặt trực tiếp như khi
tác giả đặt vấn đề nghiên cứu trên mạng xã hội. Điều này xuất phát từ tâm lý
mongmuốn tìm kiếm một sự đồng cảm của mỗi cá nhân. Người ta cho rằng
16chỉ những người cũng giống như mình mới cần biết, có thể biết và hiểu được câu
chuyện của mình. Việc có ai đó nghiên cứu về lựa chọn giới tính thai nhi hay sinh
con theo ý muốn có vẻ như không liên quan đến họ, mà liên quan đến ai đó, rằng
nhà nghiên cứu sẽ tìm hỏi những người khác chứ không phải là mình. Việc “bị” tìm
hiểu, nghiên cứu dường như phiền phức và vô bổ đối với họ. Bởi lẽ, họ sẽ không
tìm được sự đồng cảm hoặc những chia sẻ của họcũng không giúp thêm ai thỏa
mong ước có con trai.“Em hỏi thì chị nói thế thôi chứ chắc em cũng chẳng hiểu
được đâu”(Phỏng vấn sâu, nữ, 29 tuổi, lao động tự do, Chương Mỹ -Hà Nội, 2015,
thầy Phong)Một bất lợi nữa của tác giả khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu đó là tuổi
tác. Câu hỏi đầu tiên mà tác giả nhận được khi đến với các cặp vợ chồng là “Cháu
đã có chồng chưa” hoặc “em có gia đình chưa”.Ngay khi biết tác giả chưa có gia
đình, họ tỏ rõ sự thất vọng mặc dù tác giả đã cố gắng giải thích cho họ hiểuvề công
việc của mình.“Thế thì khó đấy. Cháu chưa chồng con gì thì không hiểu được
đâu”Hay“Cháu cũng tầm tuổi con gái chú, ăn chưa no, lo chưa tới thì làm sao mà
hiểu được”.(Phỏng vấn sâu, nam, 47 tuổi, nông dân, Vĩnh Phúc, 4/2015, thầy
Đông)4.2.2.Thái độvà phản ứng xã hội trước đềtài nghiên cứuPhản ứng đầu tiên
mà tác giả gặp phải đó là của bạn bè, đồng nghiệp và những người xung
quanh.Một số người bạn ủng hộ nhưng vẫn cảnh báo những khó khăn mà tác giả có
thể gặp phải khi triển khai đề tài này.“Đề tài này cũng mới nhưng chị sợ khó làm
đấy. Không phải ai người ta cũng nói đâu”.(Đồng nghiệp, nữ, 38 tuổi, công chức,
Hà Nội, 3/2016)“Cậu làm ra ngô ra khoai cái này thì cũng được đấy. Nhưng nhìn
cậu như phóng viên thế này cẩn thận đến bị ăn đòn thì khổ”.
17(Bạn học, nữ, 25 tuổi, Hà Nội, 3/2015) Cũng có nhiều người e dè, ngăn cản tác
giả bởi đề tài này khá nhạy cảm và khó tiếp cận.“Sao không chọn cái khác mà làm,
làm cái này làm gì cho khó ra?”(Bạn học, nữ, 27 tuổi, Hà Nội, 3/2015)“Thế này
khác gì tự nhiên đi lấy cái dây xong trói mình lại. Em làm cái mà người ta làm
trước rồi cho nó đỡ vất vả”(Đồng nghiệp, nam, 28 tuổi, Hà Nội, 3/2016)Những khó
khăn mà người thân quen cảnh báo, tác giả cũng đã có thể lường được trước nên
không bất ngờ khi gặp những phản ứng này. Tuy nhiên, vẫn có khá nhiều tỏ ra dè
chừng, lảng tránh khi biết đề tài mà tác giả đang theo đuổi. Mặc dù sinh con đẻ cái
vốn được coi là điều hết sức bình thường, như một lẽ tự nhiên nhưng tìm hiểu về
vấn đề sinh đẻ lại dễ bị người xung quanh đánh giá bởi tác giả là nữ giới, trẻ tuổi
và chưa lập gia đình. Nhiều người cho rằng con gái chưa có gia đình mà tìm hiểu
về vấn đề sinh đẻ đồng nghĩa với việc hiểu hết những chuyện nam nữ. Những
người con gái như vậy dễ bị cho là không đứng đắn, đặc biệt là đối với cái nhìn của
nam giới.“Thế em đã biết hết (về chuyện nam nữ -chú thích của tác giả) chưa mà
đòi làm?”(Bạn học, nam, 27 tuổi, Hà Nội, 4/2015)“Giỏi nhỉ, chị biết hết rồi à? Em
thấy bảo còn phải nghiên cứu cả các tư thếnữađấy.”(Bạn học, nam, 24 tuổi, Hà
Nội, 3/2015)Phản ứng của bạn bè, đồng nghiệp trước đề tài nghiên cứu của tác giả
là bằng chứng cho thấy dư luậnxã hội dễ quy chụp cho những người con gái tìm
hiểu về các vấn đề nhạy cảm như sinh đẻ, SKSShay mại dâm...là người không
đứng đắn. Những phản ứng của bạn bè, người thân xung quanh về đề tài nghiên
cứu đã được tác giả dự đoán trước. Việc giới thiệu về đề tài của mình với những
người xung quanh, một
18mặt giúp tác giả liên hệ, tạo kênh thông tin để tìm kiếm đối tượng, địa bàn
nghiên cứu cũng như những hỗ trợ, giúp đỡ về chuyên môn. Thực tế, một số thông
tín viên tác giả có được chính là nhờ vào sự gợi ý, giới thiệu của bạn bè. Mặt khác,
phản ứng của mọi người về đề tài nghiên cứu có phần nhạy cảm này cũng cho thấy
những định kiến, chuẩn mực, giá trị mà một bộ phận lớn các cá nhân trong xã hội
quy cho người con gái “ngoan”, “đứng đắn”. Điều này cũng tương tự như cái
chuẩn mà người ta quy cho hành vi sinh con đẻ cái, rằng có nếp có tẻ mới là đẹp.
Nó cũng thể hiện được phần nào những khó khăn, hạn chế khi một người con gái
chưa có gia đình nghiên cứu về vấn đề được không ít người mặc định là chỉ thích
hợp với phụ nữ đã có gia đình.5. Mục đíchnghiên cứuvà câu hỏi nghiên cứuMục
đích nghiên cứu: Thông qua khảo sát tại một phòng khám Đông y, đề tài
nghiên cứu của luận văn nhằm chỉ ra thực trạng LCGTTS hiện nay, phân tích yếu
tố tâm lý của người trong cuộc để chỉ ra nguyên nhân, động lực khiến họ làm như
vậy: đó là sự ràng buộc của yếu tố văn hóa truyền thống, hệ tư tưởng phong kiến
tới hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng.Câu hỏi nghiên cứu: Thực trạng mất
CBGTKS ởViệt Nam hiện nay như thếnào?Bối cảnh văn hóa dẫn tới hành vi
LCGTTS ởViệt Nam là gì?Hành trình tìm kiếm con trai của các cặp vợchồng
diễn ra như thếnào?Hạn chế nghiên cứuDo những hạn chế vềmặt phương pháp
cũng như nguồn tài chính, nhân lực, nghiên cứu này không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Trước hết, địa bàn nghiên cứu được lựa chọn là phòng khám
Đông y nên đối tượng nghiên cứu được lựa chọn không bao gồmnhững người
LCGTTS bằng các biện pháp y học hiện đại, cầutự hay các phương pháp
khác.Nghiên cứu của tác giả chỉ thực hiện trên những cặp vợ chồng lựa chọn sinh
con trai mà bỏ qua những cặp vợ chồng lựa chọn sinh con gái.Vì vậy, mẫu nghiên
cứu chưa thực sự mang tính đại diện, khái quát cao.
19Đề tài đi vào nghiên cứu trường hợp, các kết quả định lượngthu thập được còn
hạn chế, chủ yếu sử dụng số liệu có sẵn nên kết quả nghiên cứu phần nào còn
phiến diện, chưa bao quát.6. Cấu trúc luận vănBốcục của luận văn được chia
thành ba phần chính: Phần mởđầu, phần nội dung và phần kết luận. Cụthể, phần
nội dungbao gồm 3 chươngChương 1. Cơ sởlý luận và thực tiễn của đềtàiChương
2. Bối cảnh văn hóa dẫn tới hành vi LCGTTSChương 3. Hành trình tìm kiếm con
trai của các cặp vợchồng
20CHƯƠNG 1. CƠ SỞLÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀTÀI1.1Các khái
niệm và thuật ngữkhoa học1.1.1Gia đìnhđìnhvàsinh đẻGiađìnhGiốngnhưkhái
niệmvăn hóa, khái niệm gia đình cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau, mỗi nền
văn hóa lại có những quan niệm, nhận thức và quy chuẩn khác nhau về gia đình.
Có quan điểm cho rằng “gia đình là một thiết chế xã hội liên kết con người lại với
nhau nhằm thực hiệnviệc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái” [18, tr. 54], hay
bởi những vai trò, chức năng riêng của mình, gia đình là một giá trị(Lê Thị Quý,
2007). Cácthành viên trong gia đình không chỉ liên hệ với nhau bằng mối quan hệ
huyết thống, sinh học bình thường mà còn có tình yêu thương, sự chăm sóc, sự
ràng buộc bởi các giá trị văn hóa về đạo lý, tập tục, lễ giáo...Theo Luật Hôn nhân
và gia đình được sửa đổi, hoàn thiện mới nhất vào năm 2014, gia đình là “tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của
luật này”(khoản 2, điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).Trong đề tài này,
tác giả sử dụng khái niệm “gia đình” theo quy định trong Luật Hôn nhân và gia
đình, gắn gia đình với chức năng tâm lí, tình cảm, chức năng sinh sản và tái sản
xuất con người, xã hội. “Hôn nhân”, “mối quan hệ huyết thống”, “quyền và nghĩa
vụ của các thành viên trong gia đình” là những yếu tố nội hàm cơ bản của khái
niệm gia đình, có ảnh hưởng trực tiếptớiviệc sinh con của các cặp vợ chồng.Sinh
đẻSinh đẻ hay sinh sản là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, có ý
nghĩa duy trì nòi giống, tái sản xuất xã hội (Đặng Cảnh Khanh, 2007).
21Về mặt xã hội, văn hóa Việt Nam truyền thống thường mặc định rằng “trai khôn
dựng vợ, gái lớn gả chồng”, yên bề gia thất rồi thì sinh con, “trời sinh voi, trời
sinh cỏ” như một lẽ tự nhiên, tất yếu. Những ai đi chệch ra khỏi quy luật tự nhiên
ấy, không lập gia đình hay đặc biệt là không có con cái, vô sinh, hiếm muộn sẽ bị
người đời dè bỉu, cho là vô phúc, gán cho những lời lẽ cay nghiệt “cây khô không
lộc, người độc không con”. Chính việc coi trọng sinh con đẻ cái như một lẽ tự
nhiên ấy lại thể hiện rõ những chuẩn mực, kỳ vọng của mỗi cá nhân cũng như cộng
đồng vào hành vi sinh đẻ.Trong gia đình Việt Nam,đứa trẻ sinh ra không chỉ gắn
kết, củng cố thêm tình cảm của cha mẹ mà còn mang theo tình yêu, niềm hyvọng
của gia đình, dòng họ, đặc biệt là đối với con trai, cháu đích tôn(MaiHuy Bích,
19913). Người ta gắn cho con cái, con trai những mong mỏi, kỳ vọng nhất định.
Nếu chưa có con trai, nhiều cặp vợ chồng sẽ sinh cho đến khi có được coi trai mới
dừng(Hồ Ngọc Châm, 2011). Trong một vài thập niên gần đây, các dịch vụ chăm
sóc SKSSphát triển, cha mẹ có thể lựa chọn thời điểm thụ thai, khoảng cách giữa
các lần sinh, giới hạn số con, thậm chí là lựa chọn giới tính thái nhi(UNFPA,
2009). Lúc này, rõ ràng gia đình là một thiết chế xã hội giúp cho con người thực
hiện việc duy trì nòi giống một cách chủ động và có tổ chức(Đặng Cảnh Khanh, Lê
Thị Quý, 2007). Sinh đẻ không đơn thuần là một hành độngtự nhiên, chỉ với mục
đích duy trì nòi giống nữa mà đã trở thành một hành động có mục đích, chứa đựng
những kỳ vọng mà cha mẹ gửi gắm.1.1.2Tỷsốgiới tính khi sinh, lựa chọn giới tính
trước sinhTỷsố giới tính khi sinhTỷ số giới tính khi sinh (SRB)được xác định bằng
số bé trai trên bé gái được sinh ra của một thời kỳ, thường là một năm lịch. Tỷ số
này thông thường là 104-106/100 và nhìn chung ổn định qua thời gian và không
gian giữa các châu lục, quốc gia, khu vực và chủng tộc người (WHO). Bât kỳ sự
thay đổi đáng kể nào của tỷsố này chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản
ánh những can thiệp có chủ ý ở một
22mức độ nào đó và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn
định dân số toàn cầu [33; tr. 53]. Theo thống kê của UNFPA năm 2011, trên thế
giới hiện có 11 nước đã hoặc đang phải đối phó với tình trạng mất CBGTKS.
Trong đó, ngoại trừ Hàn Quốc hiện đã trở về mức ổn định (106,7), các quốc
gia còn lại bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Nepan, Bangladesh,
Armenia, Azerbaijan, Georgia, Albani và Việt Nam đều có SRB hiện đang dao
động từ 109,9 (Pakistan) đến 118 (Trung Quốc) (gopfp.gov.vn).Lựa chọn giới
tính trước sinhLCGTTS là hành vi can thiệp có chủ đíchtrước và trong thai kỳđể
con sinh ra mang giới tính như mong muốn, bao gồm lựa chọn giới tính thai nhi
trước khi mang thai(trước thai kỳ);siêu âm xác định giới tính, nạo phá thai khi giới
tính của thai nhi không như kỳ vọng(trong thai kỳ)(Trần Minh Hằng, 2012).Có ba
điều kiện cần dẫn đến việc LCGTTS (Guilmoto, 2009). Điều kiện thứ nhất và là
điều kiện tiên quyết là tâm lý ưa thích con trai, điều kiện thứ hai là sự sẵn có của
các dịch vụ y tế hiện đại và điều kiện thứ ba là mức sinh thấp [34, tr. 12]. Tâm lý
ưa thích con trai trong xã hội là một vấn đề phức tạp, là hệ quả tổng hợp của các
quan niệm truyền thống kế thừa từ quá khứ và các giá trị xã hội hiện đại phát sinh
từ những chuyển đổi gần đây trong xã hội (TCTKVN, 2011). Hiện nay, các dịch vụ
y tế hỗ trợ việc can thiệp lựa chọn giới tính trước khi mang thai hay siêu âm chẩn
đoán giới tính thai nhi có thể được tìm thấy dễ dàng tại các khu vực trung tâm,
thành phố lớn hay thậm chí là vùng nông thôn (điển hìnhnhư tại địa bàn tác giả tiến
hànhnghiên cứuthực địa). Thêm vàođó, sinh ít con đồng nghĩa với việc không có
con trai tăng lên, khiến nhiều cặp vợ chồng tìm đến các dịch vụ y tế hỗ trợ cho việc
sinh con theo ý muốn. Thống kê về thực trạng mất CBGTKS theo vùng, tỉnh/ thành
có thể giúp xác định các đặc điểm vùng, kinh tế -xã hội của các nhóm dân cư có xu
hướng thực hành LCGTTS(xem bảng 1.3).
23Trên thực tế, thực trạng mất CBGTKS còn có thể là hệ quả của việc loại bỏ trẻ
sơ sinh có giới tính không như mong muốn (sau thai kỳ) bằng cách vứt bỏ đến chết
hoặc giết chết sau khi sinh (Trần Minh Hằng, 2012). Tuy nhiên, trong khuôn khổ
luận văn này, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu việc lựa chọn giới tính trước khi sinh
nên hành vi lựa chọn giới tinh sau thai kỳ không được nhắc đến.1.1.3Các thực
hành lựa chọn giới tính thai nhi phổbiến ởViệt Nam hiện nayGiai đoạn trước thai
kỳPhương pháp dân gianXuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, du mục, cần
người đàn ông có sức khỏe tốt và hệ tư tưởng phong kiến cùng hình thức cư trú bên
nội, từ hàng nghìn năm trước, người Trung Quốc đã biết đến cách sinh con theo ý
muốn dựa vào việc tính tuổi và quẻ Bát quái.Trung Quốc là một nền văn hóa lớn
trên thế giới, là quốc gia láng giềng và có ảnh hưởng sâu rộng đến Việt Nam trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, ngay từ buổi đầu lịch sử của dân tộc
ta.Do đó, người Việt Nam cũng đã học theo cách này với mong muốn sinh được
con trai, con gái như ý muốn, mà chủ yếu là để sinh con trai.Chếđộdinh
dưỡngHiện nay, có rất nhiều tài liệu cũng như kinh nghiệm vềchếđộdinh
dưỡngđểsinh con theo ý muốn. Theo thời gian, phương pháp này đang dần được
bổsung, hoàn thiện dựa trên cảkinh nghiệm dân gian cũng như thành tựu khoa
học(Ngọc Lan, 2001; ĐỗKính Tùng, 2002).Điều này dựa trên cơ sởkhoa học
chếđộdinh dưỡng có ảnh hưởng nhất định đến đặc tính, sốlượng tinh trùng của cha
cũng như môi trường âm đạo bên trong cơ thểngười mẹ.Thời điểm thích hợp
đểthực hiện chếđộdinh dưỡng được xác định khoảng ba tháng trước khi
thụthai.Uống thuốc BắcỞ miền Bắc Việt Nam, không quá khó để có thể tìm kiếm
một phòng khám Đông y cung cấp các dịch vụ hỗ trợ SKSS như chữa vô sinh,
hiếm muộn, chữa các bệnh phụ
24nữ, bệnh nam giới. Các phòng khám này đều kèm theo dịch vụ bắt mạch chẩn
đoán sớm giới tính thai nhi (từ 6 –7 tuần trở lên) và sinh con theo ý muốn. Bốc
thốc vốn được mệnh danh là nghề gia truyền nên tại mỗi phòng mạch, thầy thuốc
lại có các bài thuốc với bí kíp riêng để giúp các cặp vợ chồng sinh được con trai/
gái theo nguyện vọng. Phương pháp lọc tinh trùng và thụtinh nhân tạoLọc tinh
trùng cũng tương tự như thụ tinh nhân tạo, là một phương pháp mới, áp dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật vào y học. Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, tác giả đã
tìm hiểu trường hợp một cặp đôi đã sử dụng phương pháp lọc tinh trùng và sinh
được con trai theo ý muốn. Có thể thấy đây là phương pháp hiện đại, tỷ lệ thành
công caonhưng chi phí thực hiện lớn nên không được nhiều người biết đến và áp
dụng.Lựa chọn thời điểm và tư thếgiao hợpTheo khoa học cũng như kinh nghiệm
dân gian, việc sinh con trai hay con gái còn phụ thuộc vào thời điểm, tư thế giao
hợp cũng như môi trường âm đạo bên trong cơ thể người phụ nữ(Sam Sơn Tứ
Lang, 2003).Trên đây là tổng hợp những phương pháp sinh con theo ý muốn phổ
biến. Thực tế hiện nay cho thấy một số phương pháp đã có sự kết hợp giữa kinh
ngiệm dân gian thuở xưa với những tiến bộ trong y học, điển hình như phương
pháp ăn theo chế độ dinh dưỡng. Nghiên cứu sâu đối với các cặp vợ chồng cũng
cho thấy đa số các cặp đôi đều có sự kết hợp giữa các phương pháp trên để việc lựa
chọn giới tính thai nhi đạt được hiệu quả cao nhất. Giai đoạn trong thai kỳSiêu
âm xác định giới tính và nạo phá thaiTrong thời gian thai kỳ, sản phụ có thể siêu
âm xác định giới tính thai nhi. Khi biết được giới tính của đứa trẻ, người ta có thể
quyết định loại bỏ thai nếu giới tính không như mong muốn bằng cách nạo, hút,
uống thuốc sinh non (Trần Minh Hằng, 2012).
251.2Khung lý thuyết áp dụng1.2.1Lý thuyết chức năngLý thuyết này ra đời đầu
thế kỷ 20, cho rằng tất cả thực hành văn hoá và thể chế văn hoá đều có một chức
năng nào đó trong tổng thể nền văn hoá mà nó sinh ra và tồn tại. Hai đại diện chính
làAlfred R.Radcliffi –Brown (1881-1955) với trường phái cấu trúc chức năngvà
Bronislas Malinowski (1884-1942) với trường phái chức năng tâm lí. Theo
Malinowski, các thực hành và thể chế văn hoá dù ở dạng nào đều đóng vai trò như
là công cụ cho việc thoả mãn các nhu cầu sinh học và tâm lí cơ bản mang tính phổ
quát của cá nhân trong xã hội [3, tr.261]. Văn hóa “phải được hiểu như là một
phương tiện có mục đích mang tính chức năng hay công cụ”. Trong gia đình Việt
Nam truyền thống, việc sinh con, đặc biệt là có con trai không chỉ giúp nối dõi
tông đường, có người thừa kế tài sản và chăm sóc cha mẹ lúc về già mà còn như
một nấc thang mới khẳng định vị thế xã hội của cha mẹ. Người đàn ông được gia
đình, dòng họ đề cao, nể trọng hơn; người phụ nữ cũng được chồng và gia đình nhà
chồng thừa nhận. Đặc biệt, đối với người đàn ông, khi mang trong mình tư tưởng
gia trưởng, việc không có con trai khiến họ tủi hổ, lo lắng vì bị tuyệt tự, thậm chí là
coi thường chính bản thân mình(Nguyễn Văn Chính, 1999). Khi có con trai, những
nhu cầu tâm lý trên của cha mẹ được thỏa mãn, họ sẽ không phải trăn trở về việc
không có con nối dõi và dồn thời gian, tâm sức cũng như tiền bạc cho việc cố gắng
sinh con trai nên ở góc độ nào đó, họ sẽ phát huy được hết năng lực cá nhân. Điều
này có thể coi như một động lực phát triển xã hội.Khi ấy, việc sinh con, đặc biệt là
có con trai với nhiều cặp vợ chồng có thể được coi là cách để họ thỏa mãn cả nhu
cầu duy trì nòi giống về mặt sinh học và nhu cầu tâm lý, khẳng định vị thế cá nhân
của các cặp vợ chồng với gia đình, cộng đồng.Trong lý thuyết của mình,
- Xem thêm -