VĂN HỌC TRUNG ĐẠI 1
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Chương 1
Một số vấn đề chung về văn học trung đại Việt Nam
Chương 2
Khái quát văn học Lý - Trần
Chương 3
Về tác phẩm "Hịch Tướng Sĩ" của Trần Quốc Tuấn
Chương 4
Khái quát văn học thế kỷ XV
Chương 5
Nguyễn Trãi - Cuộc đời và sự nghiệp
Chương 6
Phân tích tác phẩm "Bình Ngô Đại Cáo"
Chương 7
Thơ Nguyễn Trãi
Chương 8
Khái quát văn học từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII
Chương 9
Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cuộc đời và thơ văn
Chương 10
Nguyễn Dữ và tác phẩm "Truyền Kỳ Mạn Lục"
http://tieulun.hopto.org
Chương I:
MỘT SỐ VẤN ÐỀ CHUNG VỀ
VĂN HỌC TRUNG ÐẠI VIỆT NAM
I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
II. NHỮNG YÊU CẦU CÓ TÍNH PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHI NGHIÊN CỨU VHTĐ
III. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
IV. CƠ SỞ HỆ Ý THỨC VÀ QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC
1. Cơ sở hệ ý thức:
2. Về quan niệm sáng tác
V. PHÂN KỲ LỊCH SỬ VHTĐ
VI. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
1. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo- hai dòng chủ lưu của VHTÐVN.
2. Văn học viết phát triển dựa trên những thành tựu của văn học dân gian
3. Văn học viết phát triển dựa trên cơ sở tiếp thu, tinh lọc những yếu tố tích cực của hệ ý thức
nước ngoài
4. Văn học chữ Hán phát triển song song với văn học chữ Nôm
5. Thơ phát triển sớm và mạnh hơn văn xuôi.
6. Việc sử dụng điển tích và các hình ảnh tượng trưng ước lệ- những thủ pháp nghệ thuật được
sử dụng phổ biến trong văn chương trung đại
VII. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TIẾN TRÌNH VHTĐ
Chương I:
MỘT SỐ VẤN ÐỀ CHUNG VỀ
VĂN HỌC TRUNG ÐẠI VIỆT NAM
I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi, suốt
hàng nghìn năm phát triển, văn học trung đại đã phản ánh được đất nước Việt, con người Việt, đồng thời là ý thức
của người Việt về tổ quốc, dân tộc. Nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước vĩ
đại của dân tộc, đồng thời lại là sức mạnh tham gia vào quá trình đấu tranh này. Chính từ văn học trung đại, những
truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động của văn học
hiện đại. Vì lẽ đó, nghiên cứu văn học trung đại nhằm mục đích:
- Tìm về với quá khứ hào hùng của dân tộc trong một nghìn năm dựng nước và giữ nước
- Nâng cao lòng tự hào về truyền thống văn hóa của dân tộc
http://tieulun.hopto.org
- Tìm hiểu những nét đặc sắc trong đời sống vật chất và tinh thần của người Ðại Việt xa xưa
- Góp phần lý giải các quy luật phát triển của văn học dân tộc.
II. NHỮNG YÊU CÂUD CÓ TÍNH PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHI NGHIÊN CỨU VHTĐ
- Phải đảm bảo yêu cầu trung thực, khách quan, không võ đoán, phiến diện.
- Phải có lượng kiến thức phong phú về ngôn ngữ, triết học, sử học.. đặc biệt là những hiểu biết về lịch sử và
văn chương Trung Quốc.
- Phải đặt văn học trung đại trong mối quan hệ với văn học dân gian và văn học hiện đại để tìm ra sự kế thừa,
phát triển.
III. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
- Kho tàng VHTÐ đã mất mát khá nhiều theo thời gian do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan:
+ Do chiến tranh, loạn lạc, sách vở bị thiêu hủy.
+ Do các vụ án chính trị có dính dáng đến các nho sĩ quan liêu, lực lượng sáng tác chủ yếu của văn học trung
đại.
+ Do công tác bảo tồn, sưu tầm tư liệu chưa được quan tâm đúng mức.
- Một số tác phẩm chưa xác định được thời điểm ra đời, tác giả, tính chính xác của văn bản..
- Việc tiếp cận, đánh giá tác phẩm khó tránh khỏi suy diễn, áp đặt do thiếu tư liệu để kiểm chứng.
IV. CƠ SỞ HỆ Ý THỨC VÀ QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC
1.Cơ sở hệ ý thức:
TOP
VHTÐ được sáng tác dựa trên cơ sở hệ ý thức Nho- Phật- Lão, chủ yếu là đạo Nho. Ảnh hưởng của các học
thuyết triết học này đã dẫn đến việc hình thành những nét đặc thù trong quan niệm của con người trung đại về:
+ Bản chất của vũ trụ
+ Không gian và thời gian
+ Thiên nhiên
+ Con người
Những quan niệm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trưng về nội dung và hình thức nghệ thuật của
văn chương trung đại. Vì vậy, muốn lý giải những vấn đề thuộc về bản chất của văn chương trung đại, cái hay, cái
đẹp của các tác phẩm thời trung đại, tất yếu, phải dựa trên cơ sở những quan niệm nghệ thuật đặc thù về thế giới và
đời sống con người ở thời kỳ trung đại.
2. Về quan niệm sáng tác
TOP
Văn học viết là sản phẩm của trí thức dân tộc. Ngày xưa, các tầng lớp trí thức luôn chịu ảnh hưởng rõ rệt của
Nho học. Từ lâu, Nho gia đã gắn văn với đạo: Văn sở dĩ tải đạo dã. Chu Ðôn Di đời Tống, qua nhận định của mình,
thừa nhận một quan niệm rất quan trọng của rất nhiều thế hệ Nho gia trước đó về tính chất và ý nghĩa của văn học.
Quan niệm này coi văn là cái hình thức, cái để chứa, để chuyên chở đạo lý. Vì vậy, đạo mới chính là nội dung. Mệnh
đề văn dĩ tải đạo và thi ngôn chí có thể khái quát được một cách căn bản quan niệm sáng tác của các nhà văn thời
http://tieulun.hopto.org
trung đại.
Người xưa đời hỏi tác phẩm phải thực sự chân thành, văn học phải là tiếng nói phát ra từ đáy lòng nhưng nội
dung đó phải được thống nhất trong một hình thức đẹp để phục vụ, làm cho nội dung thêm hay.
Do nhận thức rằng văn là dùng để biểu hiện các chân lý phổ biến, là hình thức đẹp để chuyển tải nội dung đi xa
(Ngôn nhi vô văn, hành chi bất viễn- Khổng Tử) nên ở thời kỳ trung đại, phạm vi của văn học được quan niệm rất
rộng. Từ công việc chép sử, luận triết học, viết chiếu, chế, biểu, cáo, hịch,.. đều trau chuốt hình thức câu văn sao cho
ý đẹp lời hay.
Văn dùng để chuyên chở đạo lý nên người xưa rất xem trọng văn chương. Nó có chức năng giáo hóa (giáo dục,
làm thay đổi nhân cách của con người theo hướng tốt đẹp hơn) và di dưỡng tính tình (giúp bản thân nhà văn thanh lọc
tâm hồn, bày tỏ tâm sự trung quân ái quốc, nuôi dưỡng nhân cách người quân tử).
Nhìn chung, quan niệm Văn chở đạo ảnh hưởng rất rõ đến mục đích viết văn, phạm vi đề tài, hình thức thể
hiện. Tuy nhiên, càng tách rời khỏi giáo điều Nho gia, càng gần với thực tế cuộc sống dân tộc, các tác giả trung đại
càng phát huy được mặt tích cực của quan niệm đó. Xu hướng này thể hiện rất rõ trong suốt chiều dài phát triển của
VHTÐ.
V. PHÂN KỲ LỊCH SỬ VHTĐ
Lịch sử văn học luôn quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc, đến cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Mỗi khi dân tộc bước vào một thử thách mới, lập tức, nội dung văn học cũng phải có sự chuyển biến và dần
dần diễn ra những thay đổi về nội dung, hình thức thể hiện.
Lịch sử văn học có những quy luật nội tại và tính độc lập tương đối của nó. Trong từng giai đoạn, có thể không
có sự trùng hợp hoàn toàn giữa lịch sử văn học và lịch sử dân tộc nhưng vẫn có thể căn cứ vào lịch sử dân tộc để
phân kỳ lịch sử văn học, bởi, xét đến cùng, văn học bao giờ cũng là tấm gương phản ánh trung thành thời đại. Căn cứ
vào các yếu tố lịch sử, đặc trưng nội dung và hình thức nghệ thuật, có thể phân kỳ lịch sử VHTÐ VN như sau:
+ Giai đoạn văn học Lý- Trần (Từ TK XI đến TK XIV)
+ Giai đoạn văn học đời Lê (TK XV)
+ Giai đoạn văn học từ TK XVI đến nửa đầu TK XVIII
+ Giai đoạn văn học từ nửa sau TK XVIII đến nửa đầu TK XIX
+ Giai đoạn văn học nửa cuối TK XIX (Văn học yêu nước chống Pháp)
VI. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
1. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo- hai dòng chủ lưu của VHTÐVN.
TOP
a. Chủ nghĩa yêu nước:
Văn hóa Ðại Việt, văn chương Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ
những thành tựu văn hóa và từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc.
Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại
xâm như dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống
giặc Minh. Quang Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại được tiến hành trong trường kỳ
lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự
hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam:
Chủ nghĩa yêu nước.
Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hướng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý
http://tieulun.hopto.org
chí quật cường, khát vọng chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những
tấm gương yêu nước, những người anh hùng dân tộc quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh
rõ nét nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc.
Quá trình đấu tranh giữ nước tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào
dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hưng thịnh hay suy vong nhưng ý thức dân tộc,
nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát triển không ngừng.
Các tác phẩm văn học yêu nước thời kỳ này thường tập trung thể hiện một số khía cạnh tiêu biểu như:
- Tình yêu quê hương
- Lòng căm thù giặc
- Yï thức trách nhiệm
- Tinh thần vượt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng
- Ðề cao chính nghĩa của người Việt Nam trong những cuộc kháng chiến.
b. Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì vậy, tinh thần nhân
đạo là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu
hướng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa
nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân
chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.
2. Văn học viết phát triển dựa trên những thành tựu của văn học dân gian
TOP
- Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều phải phát triển trên cơ sở kế thừa
những tinh hoa của văn học dân gian. Trong tình hình cụ thể của VHTÐVN, mối quan hệ giữa văn học viết và văn
học dân gian chủ yếu là do các nguyên nhân sau:
+ Sau khi nước nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nước phong kiến Việt Nam cần phải chú ý là việc
xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu bành trướng, đồng hóa của kẻ thù phương
Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc.
+ Những tác phẩm bằng chữ Hán trong thời kỳ này thường dễ xa lại với quần chúng bình dân, tác phẩm
ít được truyền tụng rộng rãi. Vì vậy, càng về sau, nhu cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ.
Trong quá trình giải quyết vấn đề này, chỉ có văn học dân gian là nhân tố tích cực nhất.
Quá trình kế thừa, khai thác VHDG là một quá trình hoàn thiện dần các yếu tố tinh lọc từ VHDG bắt đầu từ
thơ ca Nguyễn Trãi về sau (Thời Lý- Trần, việc tiếp thu nguồn VHDG chưa được đặt ra đúng mức).
http://tieulun.hopto.org
+ Văn học viết tiếp thu từ văn học dân gian chủ yếu là về đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mỹ,
chủ yếu là khía cạnh ngôn ngữ và thể loại.
+ Trong quá trình phát triển, hai bộ phận luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau
để cùng phát triển (Những tác động trở lại của văn học viết đối với văn học dân gian.
3. Văn học viết phát triển dựa trên cơ sở tiếp thu, tinh lọc những yếu tố tích cực của hệ
TOP
ý thức nước ngoài
- Sự du nhập của các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một vấn đề mang tính quy luật. Từ xưa, nước ta và các
vùng phụ cận đã có sự giao lưu văn hóa nhưng chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu là từ Trung Quốc sang.
+ Hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi sự bành trướng văn hóa và
nhất là âm mưu đồng hóa của kẻ thù. Những tên quan lại phương Bắc sang đô hộ Việt Nam không chỉ bóc lột, vơ vét
tài nguyên mà còn truyền bá rộng rãi các học thuyết triết học có nguồn gốc từ Trung Quốc vào Việt Nam một cách
khéo léo và thâm hiểm.
+ Khi nhà nước phong kiến VN bắt đầu hình thành, giai cấp thống trị không có mẫu mực nào khác hơn
là nhà nước PK TQ đã tồn tại trước đó hàng nghìn năm và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc lợi dụng các học
thuyết triết học như một công cụ đắc lực trong việc củng cố ngai vàng, thống trị nhân dân.
- Các học thuyết Nho- Phật- Lão đều có những điểm tích cực nhất định nên các nhà tư tưởng lớn của Việt
Nam thời Trung đại đã chú ý khai thác, tinh lọc, vận dụng sao cho nét tích cực đó phát huy tác dụng trong hoàn cảnh
cụ thể của từng giai đoạn lịch sử.
4. Văn học chữ Hán phát triển song song với văn học chữ Nôm
TOP
Ngay từ khi được các nhà văn mạnh dạn đưa vào sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng khẳng định vị trí của
mình bên cạnh chữ Hán vốn đã có ảnh hưởng sâu sắc trong văn học thời Lý Trần.
Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao, biểu hiện lòng tự
hào, ý thức bảo vệ ngôn ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ thù.
Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học chưa được phổ biến.
Từ thế kỷ XV về sau, Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đưa chữ Nôm vào sáng tác văn học. Thơ ông tuy chưa được
trau chuốt nhưng đậm đà bản sắc dân tộc.Thành công của Nguyễn Trãi chính là tiền đề cho con đường phát triển của
văn học chữ Nôm đến đỉnh cao Truyện Kiều.
5. Thơ phát triển sớm và mạnh hơn văn xuôi.
TOP
Ở thời trung đại, văn chính luận mang tính quan phương chủ yếu là công cụ của nhà nước phong kiến. Mặt
khác, những đặc thù trong tư duy nghệ thuật, truyền thống sáng tác dẫn đến một thực tế là các tác phẩm văn xuôi hình
tượng chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn so với các tác phẩm thơ ca.
Thể thơ thường sử dụng nhất trong VHTÐ là thơ Ðường luật. Ðây là hệ quả của quá trình giao lưu văn hóa lâu
dài và nằm trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ cổ điển. Trong thời kỳ này, thơ Ðường luật đã được chính quy
hóa trong văn chương trường ốc và văn chương cử tử. Cho nên, sự thống trị văn đàn của thơ Ðuờng luật trong bất kỳ
một tập thơ nào thời trung đại là một điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Ðường luật với tư cách là một thể thơ chính thống trong các kỳ thi và trong sáng
tác đã gây không ít trở ngại trong nội dung thể hiện do bị chi phối bởi sự ngặt nghèo của luật thơ chặt chẽ.
Ở thời Nguyễn Trãi, thơ luật Ðường biến thể thành thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo, độc đáo, phóng
http://tieulun.hopto.org
khoáng, rất phù hợp với cách nghĩ, cách nói, tâm lý của dân tộc nên được một số nhà thơ đời sau tiếp tục sử
dụng (Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm).
6. Việc sử dụng điển tích và các hình ảnh tượng trưng ước lệ- những thủ pháp nghệ
TOP
thuật được sử dụng phổ biến trong văn chương trung đại
Ðể miêu tả, người ta cho rằng cần phải có những mẫu mực mà qua nhiều thời kỳ đã được mặc nhiên chấp
nhận sử dụng. Quan điểm ước lệ không chú ý đến logic đòi sống, đến mối quan hệ thực tế của các hình ảnh mang tính
chất mẫu mực, công thức. Vì thế, khi phân tích các hình ảnh ước lệ, chúng ta không cần đặt vần đề có lý hay không
có lý, đúng hay không đúng thực tế mà chỉ xem xét sức mạnh khơi gợi của hình tượng có sâu sắc hay không, hình
tượng có được dùng đúng tình đúng cảnh và thể hiện được tư tưởng tình cảm của nhà thơ hay không.
VII. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TIẾN TRÌNH VHTĐ
http://tieulun.hopto.org
Chương 2:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC LÝ- TRẦN
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Về chính trị:
2. Về kinh tế:
3. Về xã hội
4. Về giáo dục và nghệ thuật:
II. VĂN HỌC ĐỜI LÝ
1. Văn học đời Lý mang nặng hệ ý thức Phật giáo
2. Thơ văn đời Lý phản ánh tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc
3. Nhận xét chung về thơ văn đời Trần
III. VĂN HỌC ĐỜI TRẦN
1. Bối cảnh lịch sử và những đổi thay trong tầng lớp nho sỉ đời Trần.
2. Nội dung văn học
3. Nhận xét chung về thơ văn đời Trần
Chương 2:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC LÝ- TRẦN
Chọn thời đại Lý- Trần làm giai đoạn mở đầu cho VHTÐ Việt Nam, các nhà nghiên cứu nhằm khẳng định
rằng đây chính là thời đại phục hưng của văn hóa dân tộc, thời đại mở đầu cho nền văn minh Thăng Long, đánh dấu
bước trưởng thành của một dân tộc vừa giành lại độc lập tự chủ sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Về chính trị:
TOP
- Thời đại Lý- Trần đảm đương hai sứ mệnh lịch sử to lớn: Hưng văn trị và định vũ công, bảo vệ tổ quốc,
chống họa xâm lăng và xây dựng nền móng vững chắc cho chế độ phong kiến vừa hình thành.
- Ðời Lý, Lý Thường Kiệt chống Tống; đời Trần, Trần Hưng Ðạo chống Nguyên Mông (3 lần). Thời kỳ này,
triều đại Lý- Trần còn phải tiến hành những cuộc chiến tranh chống họa xâm lăng phương Nam (Chiêm Thành).
Chiến tranh tất yếu phải có hủy hoại, hao người tốn của nhưng tính chất chính nghĩa và thắng lợi vẻ vang của những
cuộc kháng chiến vệ quốc đã tạo thêm khí thế hào hùng, bản lĩnh, sự tự tin cho một dân tộc nhỏ bé ở phương Nam.
- Mặt khác, thời đại Lý- Trần còn phải đảm đương sứ mệnh xây dựng chế độ phong kiến, chế định kỷ cương,
điển lễ, văn hiến cho một quốc gia phong kiến có chủ quyền, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển của chế độ
phong kiến Việt Nam trong các thế kỷ sau.
2. Về kinh tế:
TOP
a. Chế độ đại điền trang là một đặc điểm kinh tế cơ bản thời Lý- Trần. Nó dựa trên cơ sở xâm lấn đất đai của
http://tieulun.hopto.org
các làng xã, biến người nông dân thành người nông nô. Ruộng đất trong thời kỳ này thuộc về công điền. Về
thực tế, ruộng đất do các làng xã quản lý và sử dụng bằng cách chia cho nông dân lĩnh canh rồi nộp tô thuế cho triều
đình. Ðó là nguồn thu nhập chủ yếu của chính quyền trung ương vì ruộng đất công chiếm đại bộ phận trong thời đó.
Vua có quyền lấy ruộng đất công bất kỳ lúc nào để dùng vào những mục đích riêng của mình. Theo Thiền uyển tập
anh, sau kkhi chữa được bệnh cho Lý Thần Tông, nhà sư Nguyễn Minh Không bèn được phong mấy trăm hộ. Ruộng
thực hộ là do nông dân tự do cày cấy và nộp tô.
(Xét đến cùng, nến kinh tế độc lập- điền trang cho phép bọn quý tộc vừa có nông nô, địa vị, thế lực chính trị
và đôi khi còn có cả lực lượng quân đội riêng trong điền trang. Ðây là một trở ngại lớn cho xu hướng trung ương tập
quyền khi chế độ phong kiến Việt Nam dần đi vào con đường ổn định, phát triển)
- Ở thời Lý, chế độ đại điền trang vẫn còn mang một số yếu tố tích cực nên vẫn có khả năng thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế xã hội.
- Ðến đời Trần, kinh tế đại điền trang đi vào con đường lạc hậu. Vua chúa, quý tộc lợi dụng chính sách này để
cướp giật ruộng đất của nông dân ngày càng nhiều. Sự khủng hoảng của nền kinh tế đại điền trang đã dẫn đến sự
bùng nổ của rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông nô, nô tỳ và một số ý kiến cải cách của các sĩ phu. Tính chất công
điền dần lỗi thời nhường chỗ cho chế độ sở hữu cá nhân về mặt ruộng đất sẽ được thực hiện vào thời kỳ nhà Hậu Lê.
- Những năm Hồ Quý Ly ở ngôi, ông đã có một số cải cách quan trọng về kinh tế đặc biệt là thực hiện nghiêm
khắc chính sách hạn điền hạn nô nhưng những cải cách đó đều thất bại do các nho sĩ và quần chúng không ủng hộ chế
độ ngụy triều.
b. Các triều vua đầu thời kỳ Lý- Trần đều rất quan tâm phát triển sản xuất nông nghiệp. Từ đời Lê Hoàn đã tổ
chức lễ cày ruộng để thể hiện tinh thần coi trọng nghề nông (Cứ đến đầu tháng giêng, nhà vua đích thân cày một thửa
ruộng mở đầu năm sản xuất). Hệ thống đê ở các con sông lớn được quan tâm triệt để nhằm bảo vệ mùa màng, chống
lụt lội. Các chức quan Hà đê (chánh sứ và phó sứ) đưọc đặt ra để chuyên coi việc đào kênh ngòi, đắp đê phục vụ giao
thông, thủy lợi. Việc mở rộng diện tích canh tác, tổ chức khuyến khích khai hoang cũng được quan tâm.
c. Thủ công nghiệp, nhờ được quan tâm, cũng ngày càng phồn thịnh. Nghề dệt gấm, sản xuất nông cụ, vải lụa,
đồ gốm, đồ sứ, đồ đồng, vũ khí, xe thuyền, khắc bản in, nung vôi, dệt the,.. đã phát triển mạnh ở các làng nghề,
phường hội truyền thống
3. Về xã hội
TOP
Sự phát triển của các học thuyết Nho- Phật- Lão trong giai đoạn đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam đã
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phân chia đẳng cấp trong xã hội Lý- Trần. Cụ thể:
a. Ở thời Lý, đạo Phật lan truyền khắp nước ta, có xu hướng phát triển thành quốc giáo, chủ yếu do các
nguyên nhân sau:
+ Chiến tranh ly loạn, lòng người chán nản muốn tìm đến con đường siêu thoát của đạo Phật.
+ Ðạo Phật đã du nhập vào Việt Nam khá sớm, trong thời kỳ Bắc thuộc và đã có ảnh hưởng rất sâu sắc
ở thời kỳ Ðinh, Tiền Lê.
+ Vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) là người xuất thân từ đạo Phật. (Ðời Lê Ngọa Triều, ông giữ chức Tả
thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Về sau, vua Lê Ngọa Triều hoang dâm, hung ác, triều thần nổi dậy lật đổ ngôi vua Tiền
Lê, đưa Lý Công Uẩn lên ngôi báu, sáng lập ra nhà Lý). Do xuất thân từ đạo Phật, Lý Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến
sự phát triển của Phật giáo ở Việt Nam.
+ Nhân dân ta vốn có truyền thống nhân đạo nên rất dễ tiếp thu các lý thuyết từ bi, bác ái của đạo Phật
- Vai trò độc tôn của Phật giáo đã dẫn đến việc phân chia các giai cấp trong xã hội thời Lý như sau:
+ Giai cấp được trọng vọng nhất thời Lý là giai cấp quý tộc và tăng lữ. Các nhà sư thường có vị trí cao
trong triều đình và thậm chí còn có mối quan hệ huyết thống với hoàng tộc. (Sư Viên Chiếu là người trong hoàng tộc,
http://tieulun.hopto.org
sư Mãn Giác là con quan đại thần,..)
+ Giai cấp quần chúng bị trị thời Lý gồm nông dân ở các làng xã, nông nô, nô tỳ ở các điền trang, thợ
thủ công, lái buôn.
b. Ở thời Trần, đạo Phật vẫn còn ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc nhưng vị trí độc tôn
của nó đã dần phải nhường chỗ cho Nho giáo do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Từ triều Trần trở đi, tính chất trung ương tập quyền cao hơn dẫn đến nhu cầu gạt bỏ vị trí cố vấn tối cao của
các vị quốc sư trong triều đình.
- Chính sách đề cử và thế tập bị bãi bỏ. Nhà Trần tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài vào làm việc cho
triều đình. Nội dung thi cử là kinh sách của đạo Nho. Thực tế này đã dẫn đến việc hình thành một tầng lớp Nho sĩ
tham gia ngày càng nhiều vào công việc triều chính, lấn át dần vị trí của các nhà sư tham gia triều chính trong giai
đoạn trước đó. Nhân sinh quan của các Nho sĩ có phần đối lập với nhân sinh qua Phật giáo vì thế, ngay từ rất sớm, đã
diễn ra hàng loạt các cuộc đấu tranh trên phương diện tư tưởng của các Nho sĩ nhằm chống lại Phật giáo mà những
người tiêu biểu là Ðàm Sĩ Mông, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu,..
- Do đạo Nho phát triển, nho sĩ trở thành giai cấp được trọng vọng bên cạnh giai cấp quý tộc và trở thành lực
lượng chính trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, góp phần nắm giữ, thiết chế kỷ cương, ca ngợi, bảo vệ uy
quyền phong kiến và đấu tranh chống nạn ngoại xâm.
Các giai cấp bị trị thời Trần vẫn là nông dân, nông nô, nô tỳ, thợ thủ công, lái buôn,..
4. Về giáo dục và nghệ thuật:
TOP
a. Việc giáo dục đã được quan tâm từ rất sớm. Năm 1070, Lý Thánh Tông lập Văn Miếu ở quốc đô Thăng
Long. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi tam trường và năm 1076 mở Quốc Tử giám chuyên lo việc giảng thuật
Nho giáo. Các năm 1086, 1152, 1165, 1193 đều có mở kỳ thi. Ðến đời Trần, các kỳ thi Nho giáo được tổ chức thường
lệ và có quy mô rộng rãi hơn thời Lý.
b. Tiếp thu những thành tựu rực rỡ của văn nghệ dân gian, các ông vua thời Ðinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã nối
tiếp xây dựng một nền văn nghệ cung đình giàu bản sắc dân tộc. Ca múa nhạc cung đình ở các triều Lý- Trần đều bắt
nguồn từ ca múa nhạc dân gian (Múa rối, hát chèo, hát tuồng thường được các ông vua thời Lý- Trần đặc biệt yêu
thích)
Phần lớn các công trình kiến trúc điêu khắc ở thời Lý- Trần đã bị hủy hoại trong 20 năm đô hộ của giặc Minh
nhưng theo các tài liệu sử học, khảo cổ học và một số di chỉ còn lại, có thể khẳng định rằng vương triều Lý- Trần đã
cho xây dựng nhiều công trình lớn (Năm 1031, có 950 ngôi chùa được xây. Tháp Báo Thiên cao 12 tầng. Tháp Sùng
Thiên ở Sơn Nam, Hà Nam Ninh ngày nay, cao đến 13 tầng. Các di tích chùa Một cột, chùa Keo, chùa Thầy, tháp
Bình Sơn, chuông Quy Ðiền,.. đều cho thấy sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lý Trần)
II VĂN HỌC ĐỜI LÝ
1. Văn học đời Lý mang nặng hệ ý thức Phật giáo
TOP
a. Ðặc điểm của văn học đời Lý là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Theo sách Thiền
uyển tập anh, đời Lý có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên tuổi tiêu biểu như: Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên
Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm,..Trong số đó, nhiều nhà sư chiếm địa vị cao trong xã hội và triều đình nhà Lý. Sự
thống lĩnh văn đàn chủa các nhà sư đời Lý có thể giải thiïch bằng những nguyên nhân sau:
- Ở thời kỳ này, Phật giáo chiếm địa vị độc tôn trong đời sống tinh thần của dân tộc. Sự bành trướng của Phật
giáo dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân là tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. Ðể đáp ứng nhu
cầu đó, bên cạnh việc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các nội dung triết
lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo
được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên cứu, học tập.
http://tieulun.hopto.org
- Văn học thời kỳ này viết bằng chữ Hán nên chủ yếu, chỉ có các nhà sư mới có đủ trình độ uyên bác để sáng
tác thơ văn
b. Thiền Tông là chi phái thể hiện khà rõ quan niệm triết học trong tác phẩm của các nhà sư đời Lý. Nó thiên
về sự tu dưỡng tự thân, lấy tâm định làm phép tu dưỡng. Ðiều này được Thượng sĩ Trần Quốc Tảng tóm tắt trong một
câu ngắn gọn nhưng có giá trị khái quát toàn bộ những vấn đề cơ bản của triết học Thiền tông: Phật tức tâm, tâm tức
Phật (Phật tâm ca)
c. Quan niệm Thiền tông rất gần với đạo Phật nguyên thủy ở thuyết phiếm thần luận, cho rằng:
+ Thiên địa vạn vật cùng một bản thể và chính vì thế, trước đức Phật, mọi người đều bình đẳng. Dựa
trên quan niệm đó, văn học Phật giáo đời Lý thường thể hiện sự tương đồng, sự vĩnh cửu của bản ngã
Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai Phật
Pháp tính bản tương đồng (Lý Thái Tông)
Bản ngã của mọi người đều giống nhau, đều quy về chữ Không vốn là bản thể vũ trụ, là cái hằng thường, bất diệt, là
điểm tận cùng của mọi quá trình biến đổi. Cho nên, Ðoàn Văn Khâm trong bài Vãn Quảng Trí thiền sư đã viết:
Các đạo hữu không nên đau thương về sự vĩnh biệt
Nùi sông trước chùa trông ra ấy là chân hình của nhà sư
Nhà sư đã mất nhưng chân thể, bản thể vẫn còn tồn tại trong thế giới, trong vạn vật. Ðó chính là sự tương
đồng và vĩnh cửu của bản ngã.
+ Quan niệm Sắc không cho rằng thế giới biến hóa vô cùng. Kiều Bản Tịnh trong Kính trung xuất hình
tượng đã so sánh cái có trong thế giới hiện hữu của con người thực chất chỉ là huyễn, cái không mới chính là thực, là
sự tồn tại vĩnh cửu của con người. Ðiều này giống như sự tồn tại của cái bóng trong gương:
Huyễn thân bản tự không tịch mịch
Do như kính trung xuất hình tượng
Hình tượng giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thực tướng
Nguyên phi Ỷ Lan kêu gọi hãy gạt bỏ mọi phán đoán về cái sắc và cái không trong thế giới vật chất và chỉ có
như vậy, người học đạo mới tiến đến chỗ khế hợp với chân tông:
Sắc tức không, không thị sắc
Không thị sắc sắc tức không
Sắc không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông
Bài kệ nổi tiếng Cáo tật thị chúng của nhà sư Mãn Giác là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm sắc không thâm
thúy của nhà Phật qua sự đối sánh giữa thời gian tuần hoàn, vô cùng vô tận của vũ trụ với thời gian tuyến tính ngắn
ngủi trong cuộc đời con người. Bài thơ tuy thể hiện quan niệm triết học của Phật giáo nhưng cũng mang lại niềm hy
http://tieulun.hopto.org
vọng cho con người trong cuộc sống:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai
d. Tuy nhiên, là nhà thơ, các vị tăng lữ vẫn trải cảm xúc chân thành của mình trong những bài thơ tả cảnh thiên nhiên
tươi đẹp. Khung cảnh thiên nhiên trong thơ của các nhà sư vẫn chịu sự chi phối của cái nhìn sắc không. Chẳng hạn:
Vạn lý thanh giang vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền (Ngư nhàn- Không Lộ)
e. Mặt khác, trong thơ văn của các nhà sư đời Lý, ta còn có thể bắt gặp những tư tưởng tích cực, tiến bộ, xa lạ
với quan niệm của phật giáo chính thống:
- Những ý kiến chống quan điểm giáo điều của trường phái cực đoan cho rằng phải tuyệt đối thoát ly trần tục.
- Thái độ nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của các nhà sư, khát vọng hòa nhập vào cuộc đời, tham gia gánh vác
những khó khăn của đất nước trong thời kỳ đầu xây dựng.
2. Thơ văn đời Lý phản ánh tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc
TOP
Có thể nói, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển mãi mãi trong
các giai đoạn sau. Hai tác giả tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong văn học đời Lý là Lý Công Uẩn và Lý Thường
Kiệt. Chủ đề yêu nước trong thơ văn họ thường thể hiện ở những cung bậc trầm hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung
nhất vẫn là tiếngnói lạc quan, chiến đấu của thời đại, tiếng nói tự hào của một dân tộc đang vượt qua những thử thách
để khẳng định mình
a. Tác giả Lý Công Uẩn: Trong lịch sử văn học, tên tuổi của ông gắn liền với bài Chiếu dời đô có giá trị lịch
sử to lớn bởi lẽ việc đổi quốc hiệu, quốc đô đánh dấu bước chuyển mình trong công cuộc xây dựng cơ đồ độc lập tự
chủ của dân tộc Ðại Việt, đáp ứng nhu cầu củng cố vương quyền phong kiến và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân.
Giá trị văn học của tác phẩm là ở chỗ nó đánh dấu những thành công bước đầu về nghệ thuật viết văn chính
luận trong VHTÐ.
Bài chiếu đã nâng Lý Thái Tổ lên một tầm cao khác thường. Nó khẳng định một cái nhìn đúng đắn về xu
hướng phát triển tất yếu của lịch sử của vị vua khai sáng nhà Lý cách đây gần nghìn năm.
b. Tác giả Lý Thường Kiệt: Tên tuổi của ông gắn liền với chiến công chống Tống và hai tác phẩm có giá trị là
Văn lộ bố và bài thơ Thần.
- Văn lộ bố:
http://tieulun.hopto.org
Ðặc điểm của bài văn là ngắn gọn, trang trọng, nêu cao chính nghĩa, vạch trần phi nghĩa, lời lẽ hòa nhã nhưng
không kém phần đanh thép và thuyết phục
- Bài thơ Thần:
Chiến thắng quân Tống vẻ vang gắn liền tên tuổi của Lý Thường Kiệt với bài thơ Nam quốc sơn hà nổi tiếng.
Ra đời trong khoảnh khắc nhưng bài thơ lại có giá trị vĩnh viễn bởi nó biểu hiện bản lĩnh, khí phách dân tộc, khẳng
định chân lý ngàn đời: chính nghĩa bao giờ cũng thắng phi nghĩa. Bài thơ còn là viên ngọc quý trong kho tàng văn
học cổ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
3. Nhận định chung về văn học đời Lý:
TOP
- Với một lực lượng sáng tác đông đảo, các nhà sư đời Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ.
Hướng sáng tác của các nhà sư tuy tập trung thuyết lý cho đạo phật nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố tích cực.
- Giá trị chủ yếu của văn học đời Lý vẫn là những tác phẩm thể hiện chủ nghĩa yêu nước mà trong đó, Chiếu
dời đô và bài thơ Thần là hai viên ngọc ngời sáng, một bản tuyên ngôn dựng nước, một bản tuyên ngôn giữ nước. Số
lượng sáng tác không nhiều nhưng chủ nghĩa yêu nước vẫn được nêu cao và hình thành như một truyền thống phát
triển mãi mãi trong các giai đoạn sau.
III. VĂN HỌC ĐỜI TRẦN
1. Bối cảnh lịch sử và những đồi thay trong tầng lớp nho sĩ đời Trần
TOP
- 1226- Nhà Trần cướp ngôi nhà Lý
- 1257, 1285, 1287- ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông
- Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc gắn liền với xây dựng đất nước.
- Thuật trị nước khoan sức dân tiến bộ đời Trần đã kích thích xã hội ngày càng ổn định và phát triển
- Tầng lớp Nho sĩ trở thành lực lượng chính tham gia xây dựng đất nước. Họ gần gũi với quần chúng hơn nên
thơ họ phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng.
- Những vấn đề văn hóa, xã hội, nghệ thuật cũng phát triển mạnh mẽ dưới triều Trần.
2. Nội dung văn học:
TOP
a. Văn học Trần phản ánh lòng yêu nước tinh thần dân tộc
- Cũng như mảng thơ văn đời Lý, văn học đời Trần tập trung xoáy mạnh vào đề tài chống quân Nguyên xâm
lược với cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc. Ðiển hình cho chủ nghĩa yêu nước trong văn
học đời Trần là tác phẩm Hịch tướng siî của Trần Quốc Tuấn, bởi lẽ tác phẩm tập trung phản ánh những khía cạnh
sâu sắc nhất của lòng yêu nước cao độ. Ðây là một tác phẩm có giá trị lịch sử và văn học cao, khẳng định bước tiến
của lịch sử dân tộc và lịch sử văn học.
- Bên cạnh đó, cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông cũng là đề tài phong phú của nhiều nhà thơ khác đời
http://tieulun.hopto.org
Trần. Tác phẩm của họ mang âm hưởng chung hào hùng, ca ngợi khí phách, chiến thắng vẻ vang của dân tộc:
Ðoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
(Tùng giá hoàn kinh sư- Trần Quang Khải)
Các nhà thơ thường tập trung miêu tả hào khí Ðông A bằng những hình ảnh đẹp đẽ, kỳ vĩ cùngvới ý thức
trách nhiệm của mỗi người công dân trong công cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc:
Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Thuật hoài- Phạm Ngũ Lão)
Các nhà thơ cũng chú ý nêu cao sức mạnh của chính nghĩa, của vấn đề đức trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ
quốc:
Giặc tan muôn thuở thanh bính
Phải đâu đất hiểm cốt mình đức cao
(Bạch Ðằng giang phú- Trương Hán Siêu
Nội dung yêu nước không chỉ được thể hiện trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống xâm lược mà còn phát
triển trên những khía cạnh tình cảm phong phú của nhà thơ. Có khi, đó là nỗi nhớ nhà thầm lặng nhưng mãnh liệt của
một nhà Nho xa quê hương:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa cua béo ghê
Nghe nói quê nhà nghèo vẫn tốt
Giang Nam vui thú chẳng bằng về
(Quy hứng- Nguyễn Trung Ngạn)
Có khi, đó là niềm khát khao được xây dựng một đất nước thịnh vượng hòa bình muôn đời:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng
(Xuân nhật yết Chiêu lăng- Trần Nhân Tông)
Yêu nước còn được thể hiện bằng niềm hạnh phúc được nhìn thấy đất nước hòa bình, được sống trong hòa
http://tieulun.hopto.org
bình:
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước ngậm thu lồng trời ngậm thu
Bốn bề đã yên nhơ đã lắng
Chơi năm nay thú vượt năm xưa
(Hạnh Thiên Trường hành cung- Trần Thánh Tông)
Có thể nói, trong lịch sử dân tộc, vương triều nhà Trần là một vương triều hùng mạnh nhất. Ðây là thời kỳ mà
mọi ý thức về quốc gia dân tộc đều phát triển mạnh mẽ và đó cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của văn học
yêu nước.
b. Văn học đời Trần thể hiện lòng yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp
So với thiên nhiên trong thơ văn đời Lý, thiên nhiên trong thơ văn đời Trần thực hơn, đẹp hơn. Các nhà thơ đã
bắt đầu chú ý miêu tả đời sống thôn dã bình dị. Cảm xúc được thể hiện tinh tế hơn. Ðặc biệt, qua việc miêu tả thiên
nhiên, các tác giả thường chú ý bộc lộ niềm tự hào về những chiến tích oanh liệt của dân tộc.
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cái nhìn mới của
các nhà thơ đời Trần đối với cuộc sống bình dị của người lao động:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Cảnh vật được miêu tả bằng ngôn từ giản dị nhưng vẫn thể hiện được cái thần, cái đẹp của bức tranh đường đi
Lạng Sơn, cảnh chùa Bảo Phúc, động Chi lăng, Thạch Môn sơn, cảnh Thiên Trường, cảnh hồng rụng, tiếng chuông
văng vẳng, tiếng sáo thuyền câu,..:
Mưa tạnh vườn cây màn biếc rủ
Tiếng ve chiều tối rộng bên tai (Hạ cảnh- Trần Thánh Tông)
Hoặc:
Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá
Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ
(Lạng Sơn vãn cảnh-Trần Nhân Tông)
Cảm xúc và cách miêu tả của nhà thơ thực sự tinh tế:
Thụy khởi khải song phi
http://tieulun.hopto.org
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
(Xuân hiểu- Trần Nhân Tông)
Yêu thiên nhiên, các nhà thơ càng tự hào hơn nữa về những chiến tích oanh liệt của dân tộc:
Lâu Lãi hang sâu hơn đáy giếng
Chi Lăng ải hiểm tựa trời cao
Ngựa leo, gió lướt ngoảnh đầu lại
Cửa khuyết trời tây mây ráng treo
(Ải Chi Lăng- Phạm Sư Mạnh)
Các tác giả thường khai thác đề tài sông Bạch Ðằng với cảm hứng ca ngợi đầy sảng khoái, tự hào:
Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô
(Bạch Ðằng giang- Trần Minh Tông)
Có thể nói, thiên nhiên trong thơ văn đời Trần hết sức phong phú đa dạng. Các nhà thơ đã phát hiện, cảm nhận
những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên chứng tỏ họ ngày càng gắn bó hơn với cuộc đời, với con người.
c. Tinh thần nhân đạo và tư tưởng bi quan yếm thế trong thơ văn đời Trần
- Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ văn đời Trần chủ yếu thể hiện qua sự tn tưởng vào khả năng của con người,
khát vọng một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, không còn chiến tranh đổ máu, chết chóc. Trương Hán Siêu ca ngợi
cái đức, cái chính nghĩa của dân tôc Ðại Việt. Sử Hy Nhan trong Trảm xà kiếm bộc lộ ý muốn gói giáo kiếm vào da
hùm, rèn binh khi làm nông cụ và tuyên bố rõ thái độ chán ghét chiến tranh:
Kiếm này! Kiếm này là vật chẳng lành
Bậc thánh túng kế mới dùng phải đâu vật quý
- Tuy nhiên, càng về sau, nhà Trần không tránh khỏi con đường suy thoái. Một số nhà nho tiết tháo chán nản lui
về cảnh sống ẩn dật trong một tâm trạng đầy uất hận. Thơ của họ bộc lộ rõ nỗi đau của kẻ sĩ chân chính bất lực trước
tình cảnh khốn cùng của quần chúng. Những tư tưởng yếm thế thoát ly của họ chứa đựng ít nhiều giá trị tích cực khi
thấm nhuần tinh thần nhân đạo cao cả:
Hạn rồi qua lụt đã bao phen
Thương nỗi đồng điền lúa chẳng lên
Ðống sách hóa ra chồng giấy nát
Bạc đầu luống những phụ dân đen
(Nhâm dần lục nguyệt tác- Trần Nguyên Ðán)
http://tieulun.hopto.org
Không chỉ đau thương, phẫn uất, các nhà thơ còn bộc lộ niềm mong ước, khát vọng cứu dân giúp đời của kẻ sĩ chân
chính:
Ví làm ống bễ lò rèn được
Thổi thấu lòng người khắp chín châu (Nguyễn Phi Khanh)
Hoặc:
Liễu phố tam thu vũ
Quân bồng bán dạ thanh
Cô đăng minh hựu diệt
Hồ hải thập niên tình
(Hoàng giang dạ vũ- Nguyễn Phi Khanh)
- Tất nhiên, càng khát vọng, họ càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng cho nên, thơ của họ chứa đựng những tình
cảm bi quan, tiêu cực:
Trước mắt mọi chuyện đều đáng lo
Hết bệnh sao bằng bệnh vẫn mang (Nguyễn Phi Khanh)
3. Nhận xét chung về thơ văn đời Trần
TOP
- Thơ văn đời Trần đánh dấu một bườc phát triển mới của VHTÐ
- Chủ đề yêu nước là chủ đề tập trung và đạt được nhiều thành tựu trong văn học đời Trần. Tuy nhiên, thời kỳ
này chưa có những tác phẩm mô tả một cách toàn bích cuộc chiến đấu mang tầm vóc lịch sử to lớn. Ðây là một thiết
sót mà văn học thế kỷ XV sẽ bổ sung.
http://tieulun.hopto.org
CHƯƠNG 3:
VỀ TÁC PHẨM “HỊCH TƯỚNG SĨ” CỦA TRẦN QUỐC TUẤN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
II. THỂ LOẠI
III. TỰA ĐỀ CỦA BÀI HỊCH
IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
CHƯƠNG 3:
VỀ TÁC PHẨM “HỊCH TƯỚNG SĨ” CỦA TRẦN QUỐC TUẤN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của bài hịch
- Ý kiến 1: Cho rằng tác phẩm ra đời vào năm 1285 khi quân Nguyên Mông kéo sang nước ta lần thứ II. (Trần
Trọng Kim, Bùi Văn Nguyên,..)
- Ý kiến 2: Cho rằng bài Hịch phải ra đời trước thời điểm 1285 (Khoảng 1282- 1283) ( Quan niệm của Hà Văn
Tấn trong Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ XIII)
- Ý kiến 3: Cho rằng bài Hịch cần phải ra đời sớm hơn thời điểm 1282.
II THỂ LOẠI
- Hịch thuộc loại văn chính luận được vua, lãnh tụ khởi nghĩa hay tướng lĩnh quân đội viết ra nhằm động viên
mọi người chiến đấu. Văn phong hịch trang trọng, cách xưng hô rõ ràng, lập luận chặt chẽ, bố cục hợp lý.
III. TỰA ĐỀ CỦA BÀI HỊCH
Hưng Ðạo đại vương dụ chư tỳ tướng hịch văn. Qua tựa đề có thể xác định:
- Tác giả viết bài hịch
- Ðối tượng chủ yếu cần thuyết phục
- Thể loại của tác phẩm
IV. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Nêu gương trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước
2. Tâm trạng của tác giả trước họa xâm lăng và mối quan tâm của tác giả đối với các tỳ tướng.
3. Phê phán thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của các tỳ tướng và vạch ra hậu quả tai hại của nó.
4. Xác định nhiệm vụ của các tỳ tướng trong tình thế khó khăn của đất nước và khẳng định lập trường quan hệ
bạn thù.
http://tieulun.hopto.org
CHƯƠNG 4:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC THẾ KỶ XV
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV
2. Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam thế kỷ XV
II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC
1. Một số đặc điểm của văn học thế kỷ XV
2. Những nội dung chính:
CHƯƠNG 4:
KHÁI QUÁT VĂN HỌC THẾ KỶ XV
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV
TOP
- Chế độ phong kiến Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIV bước vào tình trạng suy sụp nghiêm trọng.
- Các vị vua cuối đời Trần ngày càng phản bội lại lợi ích của nhân dân, tự mãn, ăn chơi sa đọa. Chính sách thuế
khóa thắt ngặt. Bọn quý tộc lợi dụng chế độ Ðại điền trang để cướp đoạt ruộng đất của nông dân biến họ thành nông
nô và nô tỳ. Nền kinh tế bị kìm hãm cùng với nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên khiến nhân dân phải rơi vào
tình cảnh cùng khốn, bất mãn dẫn đến sự bùng nổ của rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân và nông nô
- Sự rối ren từ nhiều phía tạo nên một hoàn cảnh xã hội đầy phức tạp và mâu thuẫn dẫn đến sự sụp đổ tất yếu
của triều đại nhà Trần.
2. Tình hình lịch sử- xã hội Việt Nam thế kỷ XV
TOP
a. Chính sách cải cách của nhà Hồ:
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập nên nhà Hồ. Ông là người có tài, có đầu óc tiến bộ, cải cách, có
cái nhìn thực tế trước tình thế nguy ngập của đất nước. Ông đưa ra một loạt cải cách quan trọng:
- Thiên đô về Thanh Hóa
- Tăng cường quân sự võ bị
- Ðề ra chính sách hạn điền hạn nô
- Phát hành tiền giấy
- Mở khoa thi chọn người tài với quan điểm trọng chữ Nôm hơn chữ Hán.
Tháng 11 năm 1406, quân Minh lấy chiêu bài Phù Trần diệt Hồ tràn sang xâm lấn nước ta. Hồ Quý Ly tiến
hành chống giữ nhưng thế yếu lại không được nhân dân tin theo nên đành chịu thất bại. Tháng 4- 1407, trận phản
công cuối cùng của Hồ Quý Ly cũng đại bại, cha con và toàn bộ triều thần bị bắt về Ttrung Quốc.
b. Ách đô hộ của nhà Minh
http://tieulun.hopto.org
Sau khi bình định được nước ta, nhà Minh thiết lập một chhế độ cai trị hà khắc và dã man:
- Ðổi nước ta thành Giao Chỉ, đặt bộ máy cai trị với hệ thống đồn trại khắp nơi để tiến hành trấn áp ngay những
cuộc khởi nghĩa của người Việt.
- Bóc lột nhân dân bằng hệ thống thuế khóa, khai thác, vơ vét tài nguyên, khoáng sản.
- Tiến hành chính sách đồng hóa, ngu dân, bắt người dân theo phong tục phương Bắc, thiêu hủy kkho tàng, sách
vở, bia mộ, hạn chế trường học, tuyên truyền mê tín dị đoan.
(Sắc lệnh của Minh Thành Tổ, ngày 21/8/1406:
Bắt và giải về Trung Quốc những người giỏi kinh sử, làm thuốc, địa lý, coi số âm dương, bói toán, đờn ca,..
cũng như nghệ nhân, nhạc công, những thơ chuyên nghiệp gỏi về gạch ngói, chế thuốc súng, biết điều khiển thuyền
đi sông, đi biển. Ðối với các hạng kể sau- nghệ nhân, công nhân chuyên nghiệp- thì sắc truyền phải bắt tất cả gia tiểu,
đem toàn số về Yên Kinh
Sắc lệnh 1407:
Ta thường bảo các người nhất thiết An nam có thư bản văn tự gì cho đến các câu ca lý dân gian, các sách dạy
trẻ và các bia mà xứ ấy lập ra, hễ thấy là phải phá huỷ ngay lập tức, một mảnh, một chữ cũng không để còn. Nay
nghe nói những sách vở quân lính bắt được không ra lệnh đốt ngay, để xem xét rồi mới đốt. Từ nay phải làm đúng lời
sắc truyền cho quân lính hễ bất cứ ở nơi nào nếu thấy sách vở, văn tự là phải đốt ngay lập tức, không được lưu lại.
- Trong tình hình đó liên tiếp những cuộc khởi nghĩa bùng nổ điển hình là hai cuộc khởi nghĩa của các vị tông
thất nhà Trần là Giản Ðịnh đế và Trùng Quang Ðế nhưng do sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đã chấm dứt nên cả hai
cuộc khởi nghĩa lớn này đều thất bại.
c. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1417- 1427)
Ðược tiến hành trong 10 năm dưới sự chỉ huy của Lê Lợi, một người hào trưởng đất Lam Sơn. Ông biết dựa
vào dân, tập hợp quần chúng, dấy động phong trào kháng chiến mạnh mẽ.
Cuộc khởi nghĩa trải qua những thất bại ban đầu nhưng sau đó, nhờ biết tập hợp sức mạnh của nhất dân, biết
vận dụng những chiến lược, chiến thuật tài tình nên cuộc khởi nghĩa đã phát triển mạnh và tiiến đến thắng lợi hoàn
toàn vào cuối năm 1427.
Thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh dấu một bước ngoặc mới trên con đường trưởng thành của dân
tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thịnh trị của triều đại Hậu Lê.
d. Giai đoạn xây dựng, củng cố địa vị thống trị của chế độ phong kiến Hậu Lê ở nửa sau thế kỷ XV.
Kháng chiến thành công, Lê Lợi lên ngôi vua lập nên nhà Hâụ Lê. Tuy nhiên, Lê Thái Tổ chỉ là người đặt nền
móng. Phải đợi đến triều đại của Lê Thánh Tông, chính quyền phong kiến hậu Lê mới thực sự bước đến giai đoạn cực
thịnh.
Ở thời Lê, các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị,.. đều phát triển mạnh mẽ:
- Về chính trị, Lê Thánh Tông chủ trương xây dựng một chính quyền quân chủ chuyên chế cao độ, tất cả quyền
hành đều tập trung trong tay nhà vua. Thế lực của tầng lớp đại quý tộc bị hạn chế tối đa, chính sách thân dân tiết kiệm
được thực hiện nghiêm túc nhằm điều hòa mâu thuẫn giữa nhân dân với giai cấp thống trị.
- Về kinh tế, nhà Lê thủ tiêu chế độ đại điền trang, thi hành chính sách quân điền, thực hiện lĩnh canh nộp thuế
(Phương thức sở hữu cá nhân về mặt ruộng đất).
- Dưới triều Lê Thánh Tông, một ông vua hay chữ, siêng năng đọc sách và làm chính trị, việc giáo dục, thi cử,
Nho học được kích thích phát triển mạnh mẽ.
http://tieulun.hopto.org
- Xem thêm -