Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề thiết kế một số bài giảng điện tử phần q...

Tài liệu Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề thiết kế một số bài giảng điện tử phần quang hình học lớp 11 nâng cao thpt theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh

.DOC
72
346
100

Mô tả:

MỤC LỤC Trang phụ bìa ................................................................................................................i Lời cảm ơn ...................................................................................................................ii Mục lục ........................................................................................................................1 Danh mục chữ viết tắt ..................................................................................................5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................6 2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................9 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................9 4. Giả thuyết khoa học ......................................................................................9 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................10 6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................10 7. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ..........................................................................10 8. Nội dung và cấu trúc của đề tài ...................................................................12 NỘI DUNG Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH 1.1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông trong giai đoạn mới .............................13 1.1.1. Mục tiêu chung của giáo dục phổ thông ................................................13 1.1.2. Mục tiêu dạy học Vật lí Trung Học Phổ Thông trong giai đoạn mới.....14 1.2. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay .................16 1.3. Tìm hiểu về tính tích cực, chủ động và phương pháp dạy học tích cực ...18 1.3.1. Tính tích cực............................................................................................18 1.3.2. Tính chủ động .........................................................................................19 1.3.4. Phương pháp dạy học tích cực ...............................................................20 1.3.4.1. Khái niệm về phương pháp dạy học tích cực ......................................20 1.3.4.2. Một số phương pháp dạy học tích cực ................................................21 1.3.4.2.1. Vấn đáp .............................................................................................21 1.3.4.2.2. Phương pháp dạy học theo dự án......................................................21 1.3.4.2.3. Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ ................................................22 1.4. Tổng quan về phương pháp dạy học nêu vấn đề .......................................23 1.4.1. Cơ sở khoa học........................................................................................23 1.4.1.1. Cơ sở triết học ......................................................................................23 1.4.1.2. Cơ sở tâm lí học...................................................................................23 1.4.1.3 . Cơ sở giáo dục......................................................................................23 1.4.2. Bản chất của phương pháp dạy học nêu vấn đề .....................................24 1.4.2.1. Khái niệm về phương pháp dạy học nêu vấn đề .................................24 1.4.2.2. Các khái niệm cơ bản trong phương pháp dạy học nêu vấn đề ..........25 1.4.2.2.1. Vấn đề ...............................................................................................25 1.4.2.2.2. Tình huống có vấn đề .......................................................................25 1.4.2.3. Cấu trúc của dạy học nêu vấn đề .........................................................26 1.4.2.4. Bản chất của dạy học nêu vấn đề ........................................................29 1.4.3. Các phương pháp dạy học trong dạy học nêu vấn đề ............................30 1.4.3.1. Phương pháp trình bày nêu vấn đề ......................................................30 1.4.3.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề- giải quyết từng phần ....................31 1.4.3.3. Phương pháp nêu vấn đề - nghiên cứu.................................................32 1.4.4. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề.................32 1.4.5. Vai trò của PPDH nêu vấn đề trong đổi mới phương pháp dạy học. .....34 1.5. Mối quan hệ giữa dạy học nêu vấn đề và tính tích cực, chủ động ............36 1.6. Kết luận chương I.......................................................................................37 2 CHƯƠNG II: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC MỘT SỐ TIẾT TRONG PHẦN QUANG HÌNH HỌC LỚP 11 NÂNG CAO TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2.1. Tổng quan về bài giảng điện tử .................................................................39 2.1.1. Khái niệm bài giảng điện tử ...................................................................39 2.1.2. Phân loại...................................................................................................39 2.1.3. Ưu điểm, nhược điểm .............................................................................40 2.1.4. Quy trình thiết kế và sử dụng .................................................................40 2.2. Cấu trúc nội dung kiến thức phần Quang hình học lớp 11 nâng cao .......42 2.3. Giới thiệu phần mềm Xara Web Designer và việc ứng dụng phần mềm trong dạy học .............................................................................................43 2.3.1. Giới thiệu phần mềm Xara Web Designer .............................................44 2.3.2. Sự cần thiết ứng dụng phần mềm Xara Web Designer trong dạy học....44 2.4. Qui trình thiết kế và tổ chức dạy học phần Quang hình học theo phương pháp nêu vấn đề với sự hố trợ của bài giảng điện tử đươch soạn phần mềm Xara Web Designer ...........................................................................45 2.4.1. Những định hướng sư phạm của việc thiết kế bài giảng điện tử ...........45 2.4.2. Quy trình thiết kế bài giảng điện tử bằng phần mềm xara web designer . . ............................................................................................................................46 2.4.3. Tổ chức dạy học ......................................................................................47 2.5. Kết luận chương II ....................................................................................55 Chương III : THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 3.1. Mục đích và nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm ....................................57 3.1.1. Mục đích .................................................................................................57 3.1.2. Nhiệm vụ .................................................................................................57 3.2. Đối tượng và nội dung của thực nghiệm sư phạm ....................................58 3 3.2.1. Đối tượng ................................................................................................58 3.2.2. Nội dung ..................................................................................................58 3.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm ..........................................................58 3.3.1. Chọn mẫu thực nghiệm ...........................................................................58 3.3.2. Quan sát giờ học .....................................................................................58 3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm.....................................................59 3.4.1. Hình thức của bài kiểm tra .....................................................................59 3.4.2. Mục đích của bài kiểm tra ......................................................................59 3.4.3. Nhận xét tiến trình dạy học ....................................................................59 3.4.4. Tính toán và phân tích kết quả thu được sau thực nghiệm ...................60 3.4.5. Kiểm định giả thuyết thống kê ...............................................................65 3.5. Kết luận chương III ...................................................................................66 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..................................................................................68 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................71 PHỤ LỤC ..................................................................................................................73 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐC : Đối chứng ĐHSP : Đại học sư phạm GDĐT : Giáo dục đào tạo GV : Giáo viên HS : Học sinh KXAS : Khúc xạ ánh sáng NXB : Nhà xuất bản PPDH : Phương pháp dạy học PXTP : Phản xạ toàn phần SGK : Sách giáo khoa THPT : Trung học phổ thông TN : Thực nghiệm TNSP : Thực nghiệm sư phạm PHẦN MỞ ĐẦU 5 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Khi nói đến giáo dục là người ta nói đến những tác động làm phát triển con người về thể chất lẫn tâm hồn. Thế kỷ 21 với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, ở đó tri thức con người được coi là yếu tố quyết định của sự phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển lượng tri thức do con người phát hiện, sáng tạo ra càng nhiều, vì vậy mà tốc độ lão hóa thông tin cũng tăng nhanh, nguy cơ bị tụt hậu do không kịp thời cập nhật thông tin, tri thức mới rất lớn. Một yêu cầu mới đặt ra trong công tác giáo dục và dạy học là dạy học không phải là nhồi nhét, thông báo lại những tri thức khoa học đã có sẵn, cố gắng tìm cách để HS nhớ được tri thức, mà dạy học là dạy HS cách học, cách tìm ra chân lý khoa học một cách độc lập, tác phong làm việc khoa học chuẩn bị cho họ tham gia vào hoạt động sản xuất, hoạt động sáng tạo ra những tri thức khoa học mới. Thực trạng giáo dục nước ta nói chung và thực trạng dạy và học môn Vật lý ở trường phổ thông nói riêng qua nghiên cứu cho thấy lối học của chúng ta từ xưa đến nay quá chú trọng vào việc thuyết minh hàng loạt các kiến thức qua các bài giảng, giáo trình, SGK… còn nặng về thông báo, nhẹ về phát huy tính tích cực, khả năng giải quyết vấn đề và phát triển tư duy cho HS. Vật lý là bộ môn khoa học thực nghiệm, nó không chỉ liệt kê, mô tả hiện tượng mà đi sâu nghiên cứu, khảo sát định lượng, tìm ra các quy luật, các tính chất chung sự tương tác và chuyển động của vật chất trong tự nhiên nhưng hiện nay nhiều GV lên lớp theo kiểu dạy “chay” không thí nghiệm biểu diễn cho HS quan sát, hoặc sử dụng các phương tiện dạy học trực quan, ít liên hệ kiến thức vật lý đã học với các hiện tượng vật lý xảy ra trong cuộc sống. Lối học như vậy dẫn tới một cách học thụ động, máy móc, HS chỉ chú tâm vào việc làm sao nhớ và lặp lại được một cách trung thành các kiến thức đã được GV trình bày. Trước thực trạng như vậy giáo dục đã và đang có những cải cách to lớn chú trọng đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình, SGK… đặc biệt là PPDH đã được nghị quyết TW 2, khóa VIII đề cập đến: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục- đào tạo, khắc phục lối truyền đạt một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại 6 vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh…”. [1] Trong chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009 - 2020 càng nhấn mạnh hơn về điều này. “Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi, giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống”. [ 2] Để thực hiện được nghị quyết TW 2, khóa VIII và dự thảo phát triển giáo dục Việt Nam lần thứ 14, không gì hơn là phải đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS, đồng thời từng bước đưa công nghệ thông tin, các PPDH tiên tiến vào dạy học để thu hút sự chú ý và hứng thú học tập của HS. “Hầu hết GV vật lý đều hiểu được cùng với đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình và SGK, việc đổi mới PPDH là nhân tố quan trọng nhất, quyết định nhất đến việc nâng cao chất lượng dạy học vật lý. Một khi chương trình và sách giáo khoa đã đổi mới thì việc đổi mới phương pháp dạy học là một tất yếu” [15]. Vì vậy GV cần vận dụng mọi PPDH một cách linh hoạt, đồng thời từng bước vận dụng các PPDH hiện đại như PPDH giải quyết vấn đề, PPDH hợp tác theo nhóm, PPDH dự án... nhằm giúp HS biết cách tự học, biết cách hợp tác trong học tập, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục là một vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm. Trên thế giới hiện nay ở một số nước phát triển người ta đã thay đổi lối học và cách dạy. Phương pháp dạy học nêu vấn đề xuất hiện vào năm 1970 tại trường Đại học Hamilton-Canada, sau đó được phát triển nhanh chóng tại Trường Đại học Maastricht- Hà Lan. Phương pháp này rất được chú ý bởi đây là phương pháp dạy học mà cách thức tiến hành rất gần với quá trình nghiên cứu khoa học, mặt khác “dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề được xem như hệ thống các qui tắc áp dụng các thủ pháp dạy học có tính logic của các thao tác tư duy và các quy luật của hoạt động nhận thức của học sinh” [10]. Vì vậy nó không những làm cho HS nắm vững 7 các cơ sở khoa học, nắm vững quá trình thu nhận các kiến thức và sự kiện khoa học, làm phát triển năng lực nhận thức và sáng tạo của HS mà còn có tác động tích cực đến người dạy, đòi hỏi họ không ngừng nâng cao kiến thức, tìm tòi, nghiên cứu, thường xuyên cập nhật những tri thức khoa học mới nhất, nâng cao khả năng và hiệu quả của việc giảng dạy trước nhu cầu kiến thức ngày càng cao của HS. Ở Việt Nam người đầu tiên nghiên cứu phương pháp này đó là dịch giả Phan Tất Đắc (1977), cũng đã có một vài nhóm nhà giáo thử đưa phương pháp giải quyết vấn đề như giáo sư Trần Văn Hà, nhưng rồi chưa được sự hỗ trợ cần thiết nên không phát triển được. Trải qua nhiều thử thách cùng với thực nghiệm suốt gần một thế kỷ qua, hiện nay phương pháp này mới thực sự được đưa vào áp dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ, Phần Lan… và được coi như một trong những phương pháp chủ đạo trong cải cách giáo dục ở một số nước. Tuy nhiên ở nước ta phương pháp này vẫn còn rất xa lạ với nhiều GV, hoặc GV có biết nhưng vẫn còn mơ hồ. Bên cạnh đó cũng có nhiều tác giả đã nỗ lực đưa phương pháp này đến với các nhà giáo. Một tác giả trên tạp chí Tia Sáng nhận định: “Tôi nghĩ rằng giải quyết vấn đề là một nội dung mới phù hợp với triết lý về khoa học và giáo dục hiện đại, có khả năng rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực tìm kiếm, đổi mới kiến thức của người học, đáp ứng tốt những yêu cầu về giáo dục trong thế kỷ 21, ta nên tìm hiểu và nghiên cứu một cách nghiêm túc để đưa dần yếu tố giải quyết vấn đề vào như là một yếu tố tích cực trong cuộc cải cách giáo dục hiện nay của chúng ta” [5]. Với những ưu điểm của PPDH nêu vấn đề ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng trong tương lai không xa phương pháp này sẽ mang lại những hiệu quả nhất định và được áp dụng rộng rãi trong cải cách giáo dục ở nước ta. Vật lý là bộ môn khoa học tự nhiên gắn liền với thực tế cuộc sống, nó bắt nguồn từ cuộc sống và phát triển theo sự đòi hỏi của cuộc sống, các định luật Vật lý, thuyết Vật lý… được các nhà khoa học khám phá đều xuất phát từ những hiện tượng Vật lý trong tự nhiên. “Cuộc sống phong phú là nguồn tư liệu, cơ sở minh họa, nơi xuất phát của các vấn đề khoa học, nơi kiểm chứng các lý thuyết, đó vừa là mục đích, vừa là động lực của nhận thức, của dạy học Vật lý” [10] mà dạy học với PPDH nêu vấn đề HS sớm được tiếp cận và học cách giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống. Do vậy dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề không những phù 8 hợp với tinh thần dạy học tích cực của bộ giáo dục mà còn phù hợp với đặc thù của bộ môn Vật lý. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề thiết kế một số bài giảng điện tử phần Quang hình học lớp 11 nâng cao THPT theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh” 2. Mục tiêu nghiên cứu - Xây dựng được cơ sở lí luận của việc dạy học theo PPDH nêu vấn đề theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS trong phần Quang hình học lớp 11 nâng cao. - Vận dụng PPDH nêu vấn đề, xây dựng được hệ thống bài giảng điện tử phần quang hình học lớp 11 nâng cao bằng phần mềm Xara Web Designer. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng PPDH nêu vấn đề. - Nghiên cứu tổng quát về dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS và mối quan hệ giữa dạy học nêu vấn đề và tính tích cực, chủ động. - Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa lớp 11 nâng cao THPT phần quang hình học, nhằm xác định mục tiêu và nội dung kiến thức HS cần đạt được và những kiến thức liên quan ở lớp dưới mà HS đã học để xây dựng các tình huống có vấn đề phù hợp với trình độ ban đầu của các em. - Tìm hiểu tổng quan về bài giảng điện tử và phần mềm Xara Web Designer. - Vận dụng PPDH nêu vấn đề thiết kế một số bài giảng điện tử phần quang hình học lớp 11 nâng cao THPT theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm các bài giảng điện tử đã soạn thảo để đánh giá kết quả và rút ra kết luận. 4. Giả thuyết khoa học Vật lý là bộ môn khoa học tự nhiên gắn liền với cuộc sống thực tế. Vì vậy nếu GV khéo léo biết xây dựng những tình huống có vấn đề phỏng theo con đường nhận thức khoa học của các nhà khoa học thì sẽ kích thích ở HS nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết vấn đề, phát huy tính tích cực, chủ động cho HS từ đó chất lượng học tập của HS cũng được nâng cao. 9 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: + Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, của bộ giáo dục và đào tạo về việc đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng dạy học. + Nghiên cứu cơ sở lý luận dạy học, các ý kiến, quan điểm của các nhà khoa học giáo dục trên sách, báo, internet… + Nghiên cứu đặc điểm kiến thức phần quang hình học lớp 11 nâng cao THPT. + Tìm hiểu về bài giảng điện tử và tài liệu hướng dẫn sử dụng phần mềm xara webdesigner. - Thực nghiệm sư phạm Tiến hành thực nghiệm sư phạm có đối chứng để đánh giá hiệu quả của việc dạy học vận dụng PPDH nêu vấn đề. - Phương pháp thống kê toán học Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả thực nghiệm sư phạm. 6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động dạy và học vật lý phần quang hình học lớp 11 nâng cao THPT. 6.2. Phạm vi nghiên cứu Chỉ thiết kế một số bài giảng điện tử trong phần quang hình học lớp 11 nâng cao THPT. 7. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Phương pháp dạy học là một thành tố vô cùng quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Vật lí nói riêng. Nó gắn bó chặt chẽ và chi phối các thành tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học. PPDH có hợp lý và phù hợp thì hiệu quả việc dạy học mới cao, mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của người học và GV. Vì vậy trong lịch sử giáo dục của mình, con người đã không ngừng tìm kiếm những con đường dạy học phù hợp với bối cảnh và điều kiện kinh tế- xã hội ở từng giai đoạn khác nhau. 10 Phương pháp dạy học nêu vấn đề ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục ngày càng cao, khả năng sáng tạo của HS ngày càng tăng với tổ chức dạy học còn lạc hậu. Những năm 70 của thế kỉ XX, M.I Mackmutov đã đưa ra đầy đủ cơ sở lí luận của phương pháp dạy học giải quyết vấn đề. PPDH nêu vấn đề được áp dụng đầu tiên tại trường Đại học Hamilton-Canada, sau đó được phát triển nhanh chóng tại Trường Đại học Maastricht-Hà Lan. Từ thành công của trường đại học này, phương pháp nêu vấn đề bắt đầu được áp dụng như một phương pháp giảng dạy hiệu quả và hiện đại trong đào tạo y khoa trên toàn thế giới. Phương pháp này cũng vượt ra ngoài ngành y truyền thống và được áp dụng trong các ngành khác như quản trị kinh doanh, nha khoa, tâm lý học và điều dưỡng. Kể từ những năm 1970 phương pháp này đã bắt đầu được đưa vào ứng dụng ở các cơ sở dạy luật ở Châu Âu lục địa. Năm 1975, trường Đại học Limburg, Hà lan, lúc đó mới thành lập, đã thiết kế toàn bộ chương trình giảng dạy của mình trong các khoa, trong đó có khoa luật, dựa trên phương pháp nêu vấn đề. Ngay ở Mỹ, trung tâm của phương pháp tình huống, phương pháp nêu vấn đề cũng rất được quan tâm. Trên thế giới đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục nghiên cứu phương pháp này như Xcatlin, Machiuskin, Lecne, giáo sư V.Ô kôn, Cupixevít, M.N.Xcat kin, Machin Skin A.M, M.I.Makhơnutô, R.I.Malephaep…. PPDH nêu vấn đề đã được thực nghiệm ở nhiều nước khác nhau một cách có hệ thống đã thu được kết quả tốt, khẳng định tính hiệu quả của phương pháp này. Người đầu tiên đưa phương pháp này vào Việt Nam là dịch giả Phan Tất Đắc “dạy học nêu vấn đề” (Lecne - 1977). Về sau, nhiều nhà khoa học nghiên cứu PP này như Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Bá Kim,… Tuy nhiên những nghiên cứu này chủ yếu chỉ nghiên cứu cho phổ thông và đại học. Gần đây, Nguyễn Kì đã đưa PPDH nêu vấn đề vào nhà trường tiểu học và thực nghiệm ở một số môn như Toán, Tự nhiên- Xã hội, Đạo đức. Bên cạnh đó cũng xuất hiện một số công trình nghiên cứu về PPDH nêu vấn đề như: “Dạy học nêu vấn đề áp dụng vào lớp 6” của Nguyễn Văn Đồng, một số bài trên tạp chí giáo dục chuyên môn của các cấp như của Nguyễn Thế Hào, Nguyễn Văn Tư, Phạm Việt Hoàng và một số người khác. Ở các khóa sau đại học trước đây cũng có một số tiểu luận như của Lê Văn Long: “Phát triển tư duy học sinh bằng cách bồi dưỡng cho họ phương pháp nghiên cứu kết hợp với tổ chức tình huống có vấn đề trong giờ học”; của Nguyễn Thị Hồng Việt “Xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học vật lí nhằm nâng cao chất lượng học tập phát triển tư duy 11 học sinh THPT”; của Nguyễn văn Thành “Một số suy nghĩ bước đầu về các bài tập dạy học nêu vấn đề trong dạy học vật lí” . Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Duy Chiến, Phạm Thị Mai, “Lí luận dạy học Vật lí ở trường phổ thông”, tại trường Đại Học Y Tế Cộng Đồng đã áp dụng PPDH nêu vấn đề trong dạy học nhiều môn khác nhau. Đây là một PPDH còn mới mẻ với giáo dục nước ta, chưa có một luận văn và luận án nào đã nghiên cứu về phương pháp dạy học nêu vấn đề ở trường ĐHSP Đà Nẵng. 8. Nội dung và cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn gồm 3 chương Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Chương II: Thiết kế bài giảng điện tử và tổ chức dạy học một số tiết trong phần quang hình học lớp 11 nâng cao THPT. Chương III: Thực nghiệm sư phạm 12 PHẦN NỘI DUNG Chương I CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH 1.1. MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI 1.1.1. Mục tiêu chung của giáo dục phổ thông Bước sang thế kỷ 21, xã hội loài người đang bước sang một nên văn minh mới- nền văn minh của trí tuệ mà mỗi một quốc gia là một “xã hội học tập” ở đó chứa đựng nhiều vận hội lớn về chính trị, văn hóa, sự ổn định và phát triển bền vững. Nền kinh tế thị trường trở thành một “sân chơi” mang tính toàn cầu, vì vậy việc chuyển mình hội nhập là một yêu cầu tất yếu. Trong xu thế đó nếu không đổi mới, hội nhập để bắt kịp trình độ chung của các nước trên thế giới thì chúng ta sẽ bị tụt hậu, giấc mơ “sánh vai với các cường quốc năm châu” là vĩnh viễn không thực hiện được. Vì vậy chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009 - 2020 nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả trong môi trường toàn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Điều này đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục lành mạnh và thuận lợi, giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến thức, phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống” [2]. Tuy nhiên nhiều năm qua giáo dục nước ta đang loay hoay tìm lời giải cho bài toán làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục, làm thế nào để đào tạo ra thế hệ mới đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, bắt kịp đồng thời đổi mới phù hợp với trình độ cũng như xu thế phát triển giáo dục trên thế giới. Chưa bao giờ việc nâng cao chất lượng phát triển toàn diện con người lại trở nên bức xúc như hiện nay. Điều đó chứng tỏ Đảng, nhà nước và các cấp lãnh đạo, quản lý giáo dục rất quan tâm đến đổi mới giáo dục. Mục tiêu cụ thể của giáo dục giai đoạn này được thể hiện qua các đường lối, chiến lược…của Đảng và nhà nước. Cụ thể là: Đường lối đổi mới giáo dục đã được 13 Đảng Cộng sản Việt Nam vạch rõ qua các Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996), và lần thứ IX (2001). Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010” với 7 nhóm giải pháp lớn mà 3 nhóm đầu nhằm thực hiện đổi mới: đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục; phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục; đổi mới quản lý giáo dục. Cách đây không lâu Bộ Chính trị giao Ban Cán sự đảng Chính phủ thực hiện chủ trương về cải cách giáo dục trong các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành TW lần thứ tư, bảy và chín (khóa 10), xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn này, trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (diễn ra vào năm 2011) và hoàn chỉnh đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục trình Quốc hội xem xét, quyết định. Trong đó Bộ Chính trị nêu rõ 7 nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2020, trong đó nhiệm vụ thứ 4 nói rõ: “Tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Cụ thể, rà soát lại toàn bộ chương trình và SGK phổ thông, sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học….Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian giảng lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, sinh viên...” [3]. Nhìn chung mục tiêu giáo dục của nước ta trong giai đoạn mới này như sau: Đổi mới quản lý, mục tiêu, nội dụng, chương trình giáo dục, đặc biệt là đổi mới về PPDH. PPDH phải đổi mới theo hướng chuyển từ vị trí người thầy làm trung tâm sang vị trí học trò, dạy học phải đi sát với thực tế, phải giúp HS vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phải kích thích được ở người học niềm đam mê, yêu khoa học, để từ đó học có động lực tự giác đi tìm kiếm khám phá cái mới, thúc đẩy nhận thức không ngừng về thế giới tự nhiên. Nhằm đào tạo ra những lớp người lao động mới có trí tuệ, nhân cách, năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường đầy những biến động khôn lường. 1.1.2. Mục tiêu dạy học Vật lí Trung Học Phổ Thông trong giai đoạn mới Mục tiêu dạy học Vật lí ở trường phổ thông là góp phần thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông. Các mục tiêu cụ thể của dạy học Vật lí ở trường phổ thông: 1. Về kiến thức Đạt được một hệ thống kiến thức vật lí phổ thông, cơ bản và phù hợp với những quan điểm hiện đại, bao gồm : 14 a. Các khái niệm về các sự vật, hiện tượng và quá trình vật lí thường gặp trong đời sống và sản xuất. b. Các đại lượng, các định luật và nguyên lí vật lí cơ bản. c. Những nội dung chính của một số thuyết vật lí quan trọng nhất. d. Những ứng dụng phổ biến của Vật lí trong đời sống và trong sản xuất. e. Các phương pháp chung của nhận thức khoa học và những phương pháp đặc thù của Vật lí, trước hết là phương pháp thực nghiệm và phương pháp mô hình. 2. Về kĩ năng a. Biết quan sát các hiện tượng và quá trình vật lí trong tự nhiên, trong đời sống hằng ngày hoặc trong các thí nghiệm; biết điều tra, sưu tầm, tra cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau để thu thập thông tin cần thiết cho việc học tập môn Vật lí. b. Sử dụng được các dụng cụ đo phổ biến của Vật lí; biết lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm vật lí đơn giản. c. Biết phân tích, tổng hợp và xử lí các thông tin thu được để rút ra kết luận, đề ra các dự đoán đơn giản về các mối quan hệ hay về bản chất của các hiện tượng hoặc quá trình vật lí, cũng như đề xuất phương án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán đã đề ra. d. Vận dụng được kiến thức để mô tả và giải thích các hiện tượng và quá trình vật lí, giải các bài tập vật lí và giải quyết các vấn đề đơn giản trong đời sống và sản xuất ở mức độ phổ thông. e. Sử dụng được các thuật ngữ vật lí, các biểu, bảng, đồ thị để trình bày rõ ràng, chính xác những hiểu biết, cũng như những kết quả thu được qua thu thập và xử lí thông tin. 3. Về thái độ a. Có hứng thú học Vật lí, yêu thích tìm tòi khoa học; trân trọng đối với những đóng góp của Vật lí cho sự tiến bộ của xã hội và đối với công lao của các nhà khoa học. b. Có thái độ khách quan, trung thực; có tác phong tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác và có tinh thần hợp tác trong việc học tập môn Vật lí, cũng như trong việc áp dụng các hiểu biết đã đạt được. c. Có ý thức vận dụng những hiểu biết vật lí vào đời sống nhằm cải thiện điều kiện sống, học tập cũng như để bảo vệ và giữ gìn môi trường sống tự nhiên [4]. Nói tóm lại môn Vật lí ở trường phổ thông góp phần hoàn chỉnh học vấn phổ thông, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, đồng thời bồi dưỡng cho họ phẩm chất và đạo đức: giáo 15 dục cho HS lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết quí trọng thành quả lao động, trang bị những kĩ năng cần thiết để trở thành những người lao động mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. 1.2. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Với mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới đã được đề ra, để thực hiện được không gì hơn là phải đổi mới giáo dục, nhưng phải đổi mới từ đâu? và đổi mới thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất? Đó là câu hỏi lớn đã và đang đặt ra cho ngành giáo dục đào tạo nước ta, thu hút không ít dư luận xã hội quan tâm đến vấn đề này. Nhất là khi chúng ta tiến hành đổi mới chương trình và SGK thì vấn đề đổi mới PPDH đã trở thành một yêu cầu tất yếu, đó là điều mà về mặt lý thuyết GV nào cũng hiểu. Tuy nhiên giữa việc hiểu lý thuyết và tiến hành áp dụng trên thực tế còn một khoảng cách khá xa. Vì thế nên mới có chuyện khá phổ biến trong đội ngũ GV nói chung và GV vật lý nói riêng là thầy, cô giáo chỉ chuẩn bị bài giảng thật kĩ, có đầu tư về công nghệ thông tin cũng như các phương tiện và thiết bị dạy học khi có thao giảng, có sự kiểm tra của cán bộ quản lý giáo dục, còn lại bình thường thì các, thầy cô đa số dạy “chay” cho “đỡ mệt”, GV chỉ cần dạy nhanh qua các công thức và quy tắc quan trọng rồi làm bài tập. Còn về tình trạng “đọc-chép” chỉ là chuyện thường ngày ở trường, có chăng sự thay đổi cũng chỉ là ở hình thức tình trạng “đọc -chép” được chấm dứt thay vào đó là “GV viết bảng-học sinh chép”, hoặc “chiếu chép”. Lối học và cách dạy của chúng ta từ xưa đến nay quá chú trọng vào việc thuyết minh hàng loạt các kiến thức qua các bài giảng, giáo trình, SGK… còn nặng về thông báo, nhẹ về phát huy tính tích cực, khả năng giải quyết vấn đề và phát triển tư duy cho HS. Đặc biệt hơn Vật lý là bộ môn khoa học thực nghiệm vì thế nó không chỉ liệt kê, mô tả hiện tượng mà đi sâu nghiên cứu, khảo sát định lượng, tìm ra các quy luật…thông qua các hiện tượng vật lý trong tự nhiên hoặc thông qua các thí nghiệm nhưng hiện nay nhiều GV lên lớp theo kiểu dạy “chay” không thí nghiệm biểu diễn cho HS quan sát, hoặc sử dụng các phương tiện dạy học trực quan, ít liên hệ kiến thức vật lý đã học với các hiện tượng vật lý xảy ra trong cuộc sống. Lối học như vậy dẫn tới một cách học thụ động, máy móc, HS chỉ chú tâm vào việc làm sao nhớ và lặp lại được một cách trung thành các kiến thức đã được GV trình bày. Cho nên có thể nói cuộc vận động đổi mới của bộ giáo dục hầu như chưa lôi kéo được sự tham gia tích cực thực sự của GV, có chăng đó cũng chỉ là hình thức, 16 đội ngũ GV dường như đứng ngoài các cuộc vận động đó. Trong bài viết đánh giá về tình hình giáo dục Việt Nam năm 2008 cũng như tầm nhìn phát triển 2010 của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục và Ðào tạo Nguyễn Thiện Nhân nêu rõ: “Năm 2008 đã khép lại, nhưng vẫn còn nhiều yếu kém của ngành giáo dục và đào tạo, mà trước hết là chất lượng và quy mô giáo dục, đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và mong muốn của nhân dân” [13]. Xem xét thực trạng đổi mới PPDH ở trường THPT, có thể thấy nổi lên một số vấn đề như sau: Phương pháp dạy học chúng ta hiện đang sử dụng vẫn còn trì truệ, lạc hậu. Kiểu dạy học phổ biến trong nhiều trường, nhiều môn học hiện nay vẫn là GV trình bày kiến thức, HS lắng nghe, ghi chép. Cách dạy này làm cho HS trở nên thụ động, chỉ quen học vẹt, học thuộc lòng một cách trung thực các kiến thức GV thông báo. Việc sử dụng phối hợp các PPDH để phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS còn hạn chế. Vì thế chưa rèn luyện được khả năng phân tích, tổng hợp, lập luận và khả năng suy nghĩ độc lập của HS do đó chưa bồi dưỡng được năng lực tự học của bản thân HS. Chưa lồng ghép và liên hệ giữa nội dung dạy học với các tình huống xảy ra thực tiễn, cũng như việc vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải quyết các chủ đề có liên quan đến thực tiễn chưa được chú trọng đúng mức. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng buồn trên, nhưng ở đây chỉ đề cập đến một nguyên nhân có liên quan đến PPDH đó là: hầu hết các GV chưa được trang bị bài bản về vấn đề đổi mới PPDH nên còn lúng túng, thậm chí còn hiểu sai và áp dụng một cách máy móc. Họ nghĩ đổi mới PPDH đơn giản chỉ là việc: thay đổi từ hình thức dạy truyền thống sang dạy ứng dụng công nghệ thông tin như dạy bằng máy chiếu, dạy bằng các bài giảng điện tử; hoặc tăng cường thảo luận nhóm; dạy học phát vấn liên tục bằng những câu hỏi kiểu chỉ cần HS cầm sách lên đọc câu trả lời mà không cần một chút suy nghĩ, tư duy, sáng tạo…Đổi mới kiểu như thế không những không mang lại hiệu quả mà còn thua xa cả cách dạy truyền thống của chúng ta. Đổi mới PPDH ở đây không có nghĩa là chúng ta phủ định, loại bỏ cái cũ mà thực chất của quá trình đổi mới ở đây là xây dựng cái mới trên cơ sở phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của cái cũ và bổ sung những cái mới mẻ phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và xu thế phát triển chung toàn cầu. Làm sao để chúng ta vừa hội nhập được với thế giới vừa giữ gìn và mang nét đặc trưng rất “Việt” là yêu cầu vô cùng cấp thiết. Nói vậy không lẽ bao công sức trí tuệ, tiền bạc của cả một đội ngũ đông đảo các nhà khoa học giáo dục, cán bộ, GV trong những năm qua luôn tìm tòi, thể 17 nghiệm, áp dụng những thành tựu mới của khoa học giáo dục, đặc biệt các cuộc vận động đổi mới của bộ giáo dục vào các nhà trường từ phổ thông đến đại học lại chẳng có ích lợi gì? Dù còn nhiều yếu kém nhưng cũng phải nhìn nhận lại từ khi thực hiện đổi mới, giáo dục nước ta đã gặt hái được những thành công không nhỏ. Nhiều nhà khoa học giáo dục, cán bộ, GV đã vượt qua mọi khó khăn, đang hằng ngày, hàng giờ tìm hiểu nghiên cứu, áp dụng những tiến bộ giáo dục của các nước tiên tiến vào công cuộc đổi mới nước ta, vận dụng để thiết kế bài giảng và PPDH sao cho phát huy được tính tích cực, chủ động của HS, để đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra. Tuy nhiên, những người làm được như vậy không nhiều. Trên thực tế cho thấy rằng quá trình đổi mới này chưa lôi cuốn được đông đảo GV tham gia tích cực thực sự; chưa được thực hiện đồng bộ giữa các vùng, miền, các cấp học… nên vẫn chưa mang lại hiệu quả cao, HS vẫn chưa phát huy được sự tích cực , chủ động trong học tập và rèn luyện được các kĩ năng cần thiết chuẩn bị cho HS bước vào cuộc sống trong nền “văn minh tri thức”. Vấn đề đặt ra là làm sao để khắc phục tình trạng trên? Muốn khắc phục tình trạng trên thì phải tiến hành thực hiện đồng bộ rất nhiều giải pháp, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cần phải phổ biến áp dụng một cách rộng rãi các PPDH tích cực phù hợp với điều kiện dạy học, với đội ngũ GV và trình độ HS. Vì trong các yêu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, hình thức tổ chức dạy học, PPDH thì PPDH là khâu quan trọng nhất bởi lẽ PPDH có hợp lý thì hiệu quả của việc dạy học mới cao, phương pháp có phù hợp thì mới có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo của người học. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục trước hết là việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực. Vậy PPDH tích cực là gì? Ta sẽ tiếp tục nghiên cứu ở phần tiếp theo. 1.3. TÌM HIỂU VỀ TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC 1.3.1. Tính tích cực Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội, bởi vì để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực sản xuất ra của cải vật chất, văn hóa tinh thần, cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ cho cuộc sống của mình. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính tích cực học tập: Tính tích cực con người biểu hiện qua hoạt động của chủ thể, con người muốn tồn tại và cải tạo được xã hội thì phải phát huy tính tích cực, sự chủ động sáng tạo ra của cải vật chất. Đối với HS hoạt động chủ đạo của các 18 em là học tập, vì vậy để chiếm lĩnh tri thức và có thể sáng tạo ra những tri thức mới không gì khác là HS phải tích cực học tập. Tính tích cực học tập về thực chất là tính tích cực trong hoạt động nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức của loài người đồng thời tìm kiếm “khám phá” ra những hiểu biết mới cho bản thân. Qua đó sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình và rèn luyện được các kĩ năng cần thiết. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập, động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn… Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như: - Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn… - Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề… - Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu. 1.3.2. Tính chủ động Tính chủ động trong học tập đó là khuyến khích người học chủ động trong suy nghĩ và tìm ra những ý tưởng mới từ những kiến thức họ đã được học, tự chuyển kiến thức đó thành cái của mình và vận dụng nó vào trong những tình huống khác nhau. Tính chủ động học tập biểu hiện ở việc HS tự giác trong các hoạt động học tập như: tự đọc sách trước ở nhà, chuẩn bị và tìm kiếm tài liệu có liên quan đến vấn đề cần học, hay quan sát và thắc mắc về các hiện tượng trong cuộc sống có liên quan đến kiến thức đã học để vận dụng, lý giải, tự tìm ra câu trả lời nếu không tự mình giải đáp được thì chủ động gặp GV yêu cầu giúp đỡ. Quá trình học của HS là một quá trình tự giác, không đợi GV giao nhiệm vụ mới bắt tay giải quyết mà tự mình chủ động hoàn toàn trong quá trình học tập của bản thân. 19 Tính tích cực và tính chủ động có quan hệ khăng khít với nhau. Xét về một bình diện nào đó thì tính chủ động cũng chính là tính tích cực, nhưng tính tích cực dùng để chỉ một vấn đề rộng hơn, có thể nói tính tích cực bao hàm cả tính chủ động hay nói cách khác tính chủ động là một biểu hiện của tính tích cực. Sự chủ động rèn luyện cho con người tính tích cực, ngược lại khi đã có suy nghĩ và hành động tích cực thì giúp con người chủ động hơn trong cuộc sống. 1.3.4. Phương pháp dạy học tích cực 1.3.4.1. Khái niệm về phương pháp dạy học tích cực Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực thực chất là cách học hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động; hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học. Đối với PPDH tích cực thì GV tham gia vào quá trình nhận thức của HS với tư cách là người hướng dẫn, gợi ý, tổ chức hội thảo theo nhóm, tranh luận, giúp đỡ người học tìm kiếm, khám phá những tri thức bằng cách nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của HS; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm vững, còn HS thì tham gia với sự chủ động, tích cực theo sự định hướng của GV. Ưu điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Dạy học theo phương pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải, tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống. Bên cạnh đó nó còn tạo áp lực tích cực cho người dạy, đòi hỏi họ phải vững vàng về trình chuyên môn, có khả năng xử lí tình huống sư phạm linh hoạt, có kĩ năng sử dụng các phương tiện dạy học tốt để có thể tạo ra những tình huống học tập hấp dẫn, tạo hứng thú cho HS giúp họ mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình, nếu không HS sẽ lơ là, không tập trung dẫn đến kiến thức HS tiếp nhận không hệ thống và logic. Phương pháp giảng dạy được gọi là tích cực nếu hội tụ được các yếu tố sau: - Thể hiện rõ vai trò của nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có - Thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt đầu môn học. - Thể hiện rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động - Thể hiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tác trong quá trình học. - Thể hiện được kết quả mong đợi của người học [7]. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan