Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn để nâng cao hiệu quả một số bài học lịch sử...

Tài liệu Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn để nâng cao hiệu quả một số bài học lịch sử lớp 10

.PDF
19
33
90

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT LÊ HOÀN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI “VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC LIÊN MÔN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ MỘT SỐ BÀI HỌC LỊCH SỬ LỚP 10” Người thực hiện: Nguyễn Thị Minh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THPT Lê Hoàn SKKN thuộc môn: Lịch sử THANH HOÁ NĂM 2018 MỤC LỤC STT 1 1.1 1.2 1.3 1.4 1.5 2. 2.1 2.2 2.3 2.3.1 2.3.2 2.3.3 2.3.4 3. 3.1 3.2 NỘI DUNG TRANG Mở đầu Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Nội dung Cơ sở lí luận Thực trạng vấn đề Nội dung, các giải pháp thực hiện Những yêu cầu về vận dụng nguyên tắc dạy học liên mônMột số phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn đối với một số bộ môn cụ thể Vận dụng nguyên tắc liên môn để giảng dạy vấn đề văn hóa cổ đại Hiệu quả của đề tài Kết luận, kiến nghị Kết luận Kiến nghị 1 1 1 2 2 2 2 2 3 3 3 5 8 16 16 16 17 2 1. MỞ ĐẦU 1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau. Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp ( inte’gration, integration) trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này. Trong khi đó, bộ môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông có chức năng trang bị cho học sinh những tri thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và thế giới. Kiến thức lịch sử không chỉ liên quan đến tri thức về khoa học xã hội mà cả về khoa học tự nhiên, giúp học sinh hiểu được quá khứ và hiện tại một cách toàn diện để sống tốt hơn, hoàn thiện nhân cách con người. Với đặc thù này thì phương pháp dạy học liên môn là lựa chọn hoàn hảo nhất của giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử. Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nặng về liệt kê sự kiện,… nên chưa tạo sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn… Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt ra cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ: làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi thầy giáo dạy sử không chỉ có có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn có những hiểu biết khá vững về các bộ môn địa lý, văn học nghệ thuật và các bộ môn khác để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng. Từ thực trạng của vấn đề như đã trình bày, tôi chọn đề tài: “VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC LIÊN MÔN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ MỘT SỐ BÀI HỌC LICH SỬ LỚP 10” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình, nhằm trao đổi với đồng nghiệp về những kinh nghiệm mà tôi đã tích luỹ được qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy lịch sử, qua học hỏi đồng nghiệp. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3 Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tổng hợp kiến thức liên môn để đưa ra cách dạy học tối ưu nhất, góp phần nâng cao khả năng tích hợp liên môn cho giáo viên, làm cho bài giảng Lịch sử trở nên phong phú và hấp dẫn, đem đến sự hứng thú cho học sinh trong giờ học lịch sử. Từ đó thực sự nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong nhà trường trung học phổ thông. 1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Trong đề tài “VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC LIÊN MÔN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ MỘT SỐ BÀI HỌC LICH SỬ LỚP 10”, tôi tập trung phân tích những vấn đề chung trong lí luận về liên môn, đồng thời đi sâu khai thác kiến thức liên môn ở một số bài học cụ thể trong sách giáo khoa lịch sử trung học phổ thông. Để thực hiện đề tài trên, tôi chọn học sinh của 3 lớp 10a3, 10a4, 12a6 làm đối tượng nghiên cứu. Kết quả điều tra mức độ nhận thức đầu năm học 2017 – 2018 của học sinh 3 lớp trên như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu 10a1 4% 50% 40% 6% 10a2 6% 55% 35% 4% 12a3 4% 38% 55% 3% 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong đề tài này, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, phương pháp thống kê xử lí số liệu, thực hành giảng dạy và công tác đánh giá rút kinh nghiệm. 1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Dựa trên nội dung chính của đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC LIÊN MÔN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI GIẢNG LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT”, ở đề tài “VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC DẠY HỌC LIÊN MÔN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ MỘT SỐ BÀI HỌC LICH SỬ LỚP 10” tôi nghiên cứu sâu hơn về việc vận dụng kiến thức liên môn trong một số bài giảng cụ thể của lịch sử lớp 10. Đó là bài giảng về phần văn hóa cổ đại của lịch sử lớp 10. 2. NỘI DUNG 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tuợng. Các 4 sự vật, hiện tuợng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới”. Đối với lịch sử càng phải có quan điểm toàn diện khi nhận thức các vấn đề, bởi một trong những nguyên lí của triết học là nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, các sự vật hiện tượng đều có quan hệ với nhau. Vì vậy khi nhận thức một vấn đề cần phải đặt nó trong tọa độ chiều dọc hoặc chiều ngang để thấy được mối quan hệ giữa chúng, không nên xem xét hiện tượng, sự kiện một cách đơn lẻ. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau, tồn tại trong sự tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Sự thay đổi sự vật, hiện tượng này có thể bắt nguồn từ sự thay đổi sự vật hiện tượng khác, và đồng thời nó sẽ ảnh hưởng đến một sự vật, hiện tượng khác nữa. Do đó, khi nhận thức về một vấn đề, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ rồi vội vàng kết luận bản chất và quy luật của chúng. Vì vậy, để nhận thức đúng đắn một vấn đềphải đặt chúng trong mối liện hệ giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng đó, trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, trên cơ sở đó ta mới nhận thức đúng và đầy đủ một vấn đề. Trong quá trình học tập ở nhà trường, chúng ta sẽ được học các môn học bao gồm các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiên gồm các môn: Toán, Lí, Hóa, Sinh, và khoa học xã hội gồm: Văn, Sử, Địa. Giữa các bộ môn trong nhóm có quan hệ với nhau. Ví như giữa Văn Học và Lịch Sử có liên hệ, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng. Nguợc lại, Lịch sử cũng góp phần hiểu sâu sắc hơn về Văn Học. Giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội cũng có quan hệ gắn bó với nhau, như môn Vật Lí bằng phương pháp phóng xạ cacbon đã giúp xác định niên đại các di vật cổ xưa, còn Hóa Học giúp bảo quản các tài liệu thành văn… Lịch sử xã hội loài người là một tổng thể thống nhất bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Chức năng của bộ môn là cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội loài người ( thế giới và dân tộc), việc nắm vững những sự kiện, quá trình lịch sử đòi hỏi phải nắm kiến thức liên quan đến khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Do đó, việc nghiên cứu và 5 trình bày lịch sử xã hội loài người không thể trình bày một cách phiến diện. Sử dụng mối liên hệ giữa các môn học tạo cho học sinh một tư duy phong phú, một cách suy nghĩ vận động bằng con đường tích hợp những nội dung của một số môn học có liên quan góp phần hình thành ở học sinh hệ thống thống nhất những quan điểm về xã hội hiện đại, hiểu sâu hơn về sự phát triển biện chúng của lịch sử. Dạy học liên môn làm cho người học sử nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc tản mạn trong kiến thức. 2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ Thực trạng của vấn đề dạy học liên môn hiện nay có những nét chính sau: Hiện nay giáo viên rất tích cực trong việc đổi mới phương pháp, vận dụng quan điểm dạy học liên môn vào giảng dạy lịch sử để nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Giáo viên đã nêu ra những thuận lợi cũng như khó khăn khi vận dụng quan niệm dạy học này là số học sinh có hứng thú tìm hiểu lịch sử ngày càng nhiều hơn, sách giáo khoa được trình bày theo hướng “ mở”.Tuy nhiên, việc vân dụng quan niệm dạy học này cũng gặp phải những khó khăn nhất định như điều kiện dạy học còn nhiều hạn chế, thiếu thốn, do lượng kiến thức nhiều song thời gian cho môn lịch sử không nhiều; đời sống của giáo viên còn thấp. Mặc dù, quan niệm dạy học liên môn đã được vận dụng vào giảng dạy lịch sử, song hiệu quả đạt được là chưa cao. Do đó phần lớn học sinh hiện nay có thái độ bình thường, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập. 2.3. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: 2.3.1. Những yêu cầu về vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn: - Người thầy giáo dạy sử phải có cái nhìn tổng thể và toàn diện về xã hội loài người và lịch sử phát triển của xã hội loài người. Các lĩnh vực của đời sống con người có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên đời sống toàn diện, phong phú của xã hội loài người. Sẽ không đầy đủ và phiến diện nếu như trình bày lịch sử mà chỉ chú ý đến một lĩnh vực, một mặt nào đó của xã hội loài người. - Người thầy giáo dạy sử không chỉ có có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn có những hiểu biết khá vững về các bộ môn địa lý, văn học nghệ thuật và các bộ môn khác để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng. 6 - Người thầy giáo dạy sử luôn có ý thức tìm tòi, khai thác trong từng chương, bài, mục có nội dung lịch sử có liên quan các bộ môn khác để có kế hoạch khai thác, sử dụng tư liệu từ các bộ môn đó đưa vào bài giảng lịch sử. 2.3.2. Một số phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn đối với một số bộ môn cụ thể:  Sử dụng tài liệu văn học: Các tác phẩm văn học là nguồn tư liệu quan trọng đối với việc dạy học lịch sử, có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, giáo dưỡng. Xưa nay giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít, người ta thường nói “Văn – sử bất phân” mà. Vận dụng các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài giảng sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh, khắc phục tính khô khan, khó hiểu của sự kiện lịch sử. Các loại tư liệu văn học có thể sử dụng chủ yếu bao gồm: Văn học dân gian, các tác phẩm ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử, tiểu thuyết lịch sử, hồi kí cách mạng…Tuy nhiên giáo viên cần xác định được loại tài liệu nào phục vụ được mục đích, yêu cầu bài giảng và phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh Văn học dân gian ra đời sớm và rất phong phú bao gồm các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, dân ca…góp phần cung cấp cho học sinh những nhận thức về người xưa, về tự nhiên, xã hội, về cuộc đấu tranh vật lộn với thiên nhiên để dựng nước và giữ nước của các thế hệ cha ông. Các tài liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm những sự kiện lịch sử, giáo dục tinh thần đấu tranh của nhân dân chống áp bức, chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập tự do cho dân tộc… Ví dụ: Khi giảng về thời đại bình minh vừa dựng nước vừa giữ nước của dân tộc, chúng ta có thể minh họa Truyền thuyết về Sự tích Trăm trứng nở trăm con, Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, vì chúng phản ánh cuộc sống và đấu tranh của cha ông ta thời đó. Sự tích Trăm trứng nở trăm con giải thích về một dòng giống chung của các dân tộc Việt Nam là Con cháu Tiên Rồng, Thánh Gióng nói lên từ buổi sơ khai đó cha ông ta đã phải sớm đương đầu với giặc ngoại xâm. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh phản ánh sự đoàn kết của cư dân Việt trong chế ngự thiên nhiên. Bánh chưng, bánh dày phản ánh nhiều khía cạnh của đời sống xã hội và tinh thần của dân tộc thời Hùng Vương… Các tác phẩm văn học yêu nước, cách mạng: Ví dụ: Khi giảng mục 3 “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc”, Bài 12, Lịch Sử 12 trang 81, để minh hoạ cho sự kiện Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, niềm vui tột đỉnh khi Người 7 tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, giáo viên có thể sử dụng một đoạn trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên: “Luận cương đến với Bác Hồ Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ LêNin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin” Hoặc khi dạy mục 2: Hoạt động của tư sản, tiểu tư sản và công nhân Việt Nam, Trang 80, Bài 12, Lịch sử 12, để minh họa cho các hoạt động đấu tranh trên lĩnh vực báo chí của giai cấp tiểu tư sản Việt Nam, giáo viên trích dẫn một đoạn trong bài thơ “Là thi sĩ” của nhà thơ Sóng Hồng: …Là thi sĩ nghĩa là cao khúc họa Cuộc đấu tranh vĩ đại của hoàn cầu Chống hung tàn xâm lược khắp năm châu, Trên trái đất dựng cao cờ dân chủ. Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ, Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền, Và lúc cần, quẳng bút lấy long tuyền… Với đoạn thơ minh họa trên, học sinh sẽ lĩnh hội triệt để và sâu sắc tác dụng của ngòi bút và báo chí trong hoạt động đấu tranh chống Pháp của giai cấp tiểu tư sản Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX. Các tác phẩm văn học hiện thực phê phán cũng giúp giáo viên khôi phục bức tranh xã hội trong quá khứ, để học học sinh hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn về một giai đoạn, một thời lỳ lịch sử dân tộc và của thế giới. Nói chung các tác phẩm văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội loài người qua các thời đại lịch sử, mà giáo viên có thể vận dụng có hiệu quả để khôi phục hình ảnh quá khứ và giáo dục tư tưởng đạo đức và truyền thống cho học sinh. Việc vận dụng kiến thức liên môn giúp người học nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc tản mạn trong kiến thức. Tuy nhiên khi sử dụng các tài liệu văn học giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ và chắt lọc những trích đoạn thơ văn thật ngắn, có nội dung tiến bộ, phản ánh lịch sử một cách chân thực nhất, phù hợp với yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng của bài học, tránh ôm đồm làm loãng nội dung bài lịch sử. 8 Việc sử dụng các tài liệu văn học minh hoạ làm cho bài giảng lịch sử sinh động, vừa kích thích hứng thú học tập lịch sử vừa làm phong phú thêm những kiến thức hiểu biết của học sinh.  Sử dụng tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, sân khấu…là kết quả sáng tạo của xã hội loài người, phản ánh khát vọng và trình độ của con người trong quá trình vươn tới những giá trị chân – thiện – mĩ. Một hình ảnh nghệ thuật có giá trị của cả ngàn từ và giúp người học sử dụng trí tưởng tượng của mình tập trung vào những điểm quan trọng, từ đó làm bộ não của họ phấn chấn hơn. Học sinh tiếp nhận kiến thức lịch sử qua tranh ảnh, đồ dùng trực quan kết hợp với bài viết sách giáo khoa và các loại tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn. Ngày nay có sự hổ trợ của công nghệ thông tin, giáo viên trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì học sinh được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn. Hội họa: thuộc nhóm nghệ thuật không gian, tĩnh, tạo hình diễn đạt sự vật một cách cụ thể, đứng yên, hình ảnh được xây dựng theo ấn tượng thị giác. Hội họa sử dụng ngôn ngữ riêng của mình như dựng hình, đường nét, màu sắc, bố cục… Kiến trúc, điêu khắc Kiến trúc là loại hình nghệ thuật sử dụng hình dáng, đường nét, mảng, khối để biểu đạt ý tưởng và cảm xúc. Một yếu tố ngôn ngữ nữa của loại hình nghệ thuật này là tỷ lệ giữa các bộ phận với nhau và giữa bộ phận với toàn thể. Tỷ lệ góp phần tạo dáng và nhịp điệu không gian, gợi cảm xúc thẩm mĩ. Trên các công trình kiến trúc, các họa tiết hoa văn thể hiện rõ nét trạng thái tâm hồn, lối sống của con người trong một hoàn cảnh và thời đại nhất định. Các tác phẩm điêu khắc thường có hai loại chính: tượng tròn và tượng đắp nổi (phù điêu), hay còn gọi là tượng đài và tượng trang trí. Hình trượng điêu khắc thường thể hiện ở việc xây dựng tư thế, động tác tư thế, động tác điển hình có liên quan tới đặc trưng tính cách nhân vật. Đề tài của điêu khắc thường hẹp, tập trung chủ yếu vào việc xây dựng hình tượng nhân vật, lí tưởng hóa vẻ đẹp ngoại hình của con người. Giáo viên có thể sử dụng các đồ dùng trực quan về các tác phẩm điêu khắc hoặc các công trình kiến trúc để tạo biểu tượng cho học sinh Sân khấu, điện ảnh Sân khấu, điện ảnh thuộc loại hình nghệ thuật tổng hợp, nó vận dụng tất cả các phương thức và phương tiện của các nghệ thuật độc lập khác như văn học, âm nhạc, hội họa, trang trí, kiến trúc… Trong dạy học lịch sử việc chọn lọc một đoạn phim tư liệu, phim truyện, kịch lịch sử để minh chứng cho sự kiện lịch sử hay tạo 9 biểu tượng lịch sử cho học sinh có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả giáo dục và giáo dưỡng của bài giảng lịch sử. Ngày nay với sự hỗ trợ của phương tiện CNTT, giáo viên có thể thực hiện điều này một cách dễ dàng, bài học lịch sử không còn khô khan nữa mà trở nên sinh động và tạo niềm hứng thú cho học sinh hơn. Sử dụng tài liệu địa lý: Khi tìm hiểu về văn hóa cổ đại, học sinh cần phải vận dụng kiến thức địa lý vào trong bài học của mình. Qua việc tìm hiểu điều kiện tự nhiên của các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại phương Tây, các em sẽ hiểu được ảnh hưởng của địa lý đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị cũng như văn hóa của các quốc gia này. Sử dụng tài liệu các lĩnh vực khoa học khác: Học sinh được tìm hiểu về các nhà toán học, vật lí học vĩ đại của các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây. Ở đây các em cần kết hợp yếu tố lịch sử và yếu tố khoa học tự nhiên: Yếu tố sử học thông qua việc tìm hiểu tiểu sử, cuộc đời của các nhà bác học. Song như vậy chưa đủ, các em sẽ sử dụng kiến thức toán học, vật lí học để làm cụ thể hơn những thành tựu của họ, qua đó để thấy được đóng góp của các nhà khoa học đối với nhân loại. 2.3.3. VẬN DỤNG NGHUYÊN TẮC LIÊN MÔN ĐỂ GIẢNG DAY VẤN ĐỀ VĂN HÓA CỔ ĐẠI. a. Liên môn địa lý: Khi tìm hiểu về văn hóa cổ đại, học sinh cần phải vận dụng kiến thức địa lý vào trong bài học của mình. Qua việc tìm hiểu điều kiện tự nhiên của các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại phương Tây, các em sẽ hiểu được ảnh hưởng của địa lý đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị cũng như văn hóa của các quốc gia này. Ví dụ: Khi tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông. học sinh sẽ biết được vai trò của các con sông đối với sự phát triển của khu vực này. Do nằm ven các con sông lớn: Trung Quốc có sông Hoàng Hà và Trường Giang, Ai Cập có sông Nin, Ấn Độ có sông Ấn và sông Hằng…Các con sông đã cung cấp phù sa, mặt khác đem lại nguồn nước tưới tiêu cho đồng ruộng. Chính vì vậy, đất đai ở đây tơi xốp màu mỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Điều này lí giải tại sao nhà nước ra đời sớm ở các quốc gia phương Đông cổ đại, mặt khác tại sao ở đây lại có nền văn minh ra đời sớm nhất trên thế giới. Sông Nin, Ai Cập: 10 Tìm hiểu về văn hóa cổ đại phương Tây, học sinh cần xác định được vị trí của Hi Lạp và Rô Ma cổ đại, qua đó hiểu được vị trí địa lí có ảnh hưởng ra sao đến sự phát triển của lịch sử phương Tây cổ đại nói chung và văn hóa phương Tây cổ đại nói riêng: Phải biết được các quốc gia cổ đại phương Tây Hi Lạp - Rô Ma nằm tiếp giáp biển Địa Trung Hải, đây là điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi. Nó đã quy định nền tảng kinh tế của các quốc gia cổ đại phương Tây là thủ công nghiệp và thương nghiệp, đồng thời cũng mở ra một chân trời mới cho nền văn hóa phương Tây cổ đại. Bởi khi gần biển, cư dân ở đây đã giao lưu học hỏi và tiếp thu được thành tựu văn hóa cổ đại phương Đông, trên cơ sở đó phát triển thành thành tựu riêng của mình. b. Liên môn văn học: Giảng dạy về văn hóa cổ đại trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10, có thể thấy sự kết hợp giữa sử học và văn học giúp hình tượng cụ thể, có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc sâu kiến thức một cách dễ dàng hơn. Khi tìm hiểu văn học phương Đông và phương Tây cổ đại, HS sẽ kết hợp với việc cụ thể các tác phẩm văn học, qua đó vừa nắm được kiến thức sử học, vừa được củng cố kiến thức văn học của mình. Ví dụ, khi tìm hiểu về nền văn học phương Tây, giáo viên có thể giao cho học sinh về nhà tìm hiểu và thuyết trình về các tác phẩm, tác giả tiêu biểu thời kì này. Qua việc tìm hiểu trên, các em vừa nắm được kiến thức sử học, vừa củng cố thêm về lĩnh vực văn học. Về lĩnh vực thơ ca, các em có thể tìm hiểu cụ thể tác phẩm Iliat và Ô đi xê của nhà thơ mù Hô me như sau: Tiêu biểu là Ili át và ô đi xê, hai bộ sử thi nổi tiếng của đất nước Hi Lạp, thường được coi là sáng tạo của Hôme, nhà thơ mù được sinh ra bên dòng sông Mê lét vào khoảng thế kỉ IX – VIII trước công nguyên. Đề tài của I li át và ô đi xê đều khai thác từ cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở Hi Lạp với 11 thành Tơ roa. Tập I li át dài 15.683 câu, chủ yếu miêu tả giai đoạn gay go nhát, tức là năm thứ 10 của cuộc chiến tranh. Ô đi xê gồm 12.110 câu, khắc họa nên bức tranh hoành tráng, hào hùng của người Hi Lạp, miêu tả cảnh trở về của quân Hi Lạp. Chủ đề chính của I li at và ô đi xê là chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu, tái hiện xung đột giữa các nền văn minh, các trình độ văn hóa. Nếu A sin, người anh hùng trận mạc xuất chúng trong sử thi I li at, là biểu hiện của sức mạnh thể chất thì Uy lít xơ là biểu tượng sức mạnh trí tuệ của người Hi Lạp. Hai tập I li át và ô đi xê không những là hai tác phẩm quan trọng trong kho tàng văn học thế giới mà còn là những tác phẩm có giá trị về lịch sử, giúp các nhà sử học khôi phục một thời kì lịch sử gọi là thời kì Hô me. Hoặc về lĩnh vực kịch, các em có thể tìm hiểu thêm kiến thức về Ê sin, Xô phốc lơ… + Kịch: Êsin, ông được mệnh danh là cha đẻ của bi kịch, sinh ra trong 1 gia đình quý tộc. Êsin có một vốn sống rộng lớn, quý báu, có tác dụng lớn trong sự nghiệp của ông. Hình ảnh những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất, những chiến thắng oanh liệt chống giặc ngoại xâm, ước vọng công bằng và bình đẳng hiện lên trong kịch của Êsin rất rõ nét. Ngoài ra, trong kịch của Êsin còn rất giàu yếu tố thần thoại, tất cả đã tạo nên một Êsin được quần chúng hâm mộ và kính phục. Vở kịch tiêu biểu nhất của ông là “ôrexti”. Thuộc lứa đàn em của Etsin, Xôphốclơ cũng rất thành công trong việc đóng góp vào kho tàng văn học Hi Lạp những vở kịch đặc sắc. Ông được mệnh danh là : Hôme của nghệ thuật kịch vì tác phẩm của ông đã phản ánh thời đại hoàng kim của Hi Lạp. Cũng như Etsin, các vở kịch của ông cũng thường xoay quanh quan niệm về số phận, nhưng ông thường kết hợp số phận với việc ca ngợi tài năng của con người. Trong số các vở kịch còn lại của xô phốc lơ, nổi tiếng nhất là vở “Ơ đíp làm vua”. c. Liên môn nghệ thuật: Hội họa: thuộc nhóm nghệ thuật không gian, tĩnh, tạo hình diễn đạt sự vật một cách cụ thể, đứng yên, hình ảnh được xây dựng theo ấn tượng thị giác. Hội họa sử dụng ngôn ngữ riêng của mình như dựng hình, đường nét, màu sắc, bố cục… Ví dụ: Khi giảng bài 11:Tây Âu thời hậu kì trung đại, mục 3, Phong trào Văn hóa phục hưng, trang 63, lịch sử 10, giáo viên cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản về bức họa La Giô-công của Lê-ô-na đơ Vanh-xi như sau: “ Điều khiến ta sửng sốt trước tiên là mức độ sống động đến lạ lùng của Lisa. Nàng thực sự như đang nhìn ta và có một tâm tư riêng. Nàng như thay đổi mỗi lần ta trở lại với nàng. Đôi lúc nàng như chế giễu ta và rồi có khi như bắt gặp một điều gì buồn bã nơi nụ cười của nàng”. Đây là bức chân dung vẽ nửa người, lớn gần bằng người thật được diễn tả rất sống động, đầy sinh khí với thế giới nội tâm phức tạp. Mona Lisa mặc chiếc áo màu sẫm, cổ mở tương đối rộng, hai bàn tay đặt hờ hững lên nhau ở phía trước, 12 nét mặt hiền hậu, thông minh và nụ cười mỉm khó tả, nụ cười phảng phất dường như gợn sóng thoảng nhẹ trên mặt hồ, đượm vẻ xúc động của tâm hồn, làm cho nhân vật trở nên sống động, huyền bí. Nền tranh là phong cảnh bao la man mác với con đường, những lùm cây êm đềm, nhịp cầu nho nhỏ, dòng nước uốn quanh,… không gian êm đềm đó đã tôn vẻ đạp của nàng Mona Lisa lên, đồng thời như quyện lấy người đẹp, tạo nên một sự hài hòa tuyệt diệu giữa người và cảnh. Tranh Mona Lisa của Leonard de Vinci: Khi tìm hiểu về văn hóa cổ đại, lĩnh vực nghệ thuật chủ yếu ở đây là kiến trúc và điêu khắc. Kiến trúc là loại hình nghệ thuật sử dụng hình dáng, đường nét, mảng, khối để biểu đạt ý tưởng và cảm xúc. Trên các công trình kiến trúc đều thể hiện rõ trạng thái tâm hồn, lối sống của con người trong một hoàn cảnh và thời đại nhất định.Thông qua việc tìm hiểu các công trình kiến trúc sẽ hiểu đặc điểm các công trình kiến trúc của các quốc gia cổ đại phương Đông mang tính đồ sộ hoành tráng và có ảnh hưởng của thần thánh. Còn các công trình kiến trúc phương Tây lại mềm mại, uyển chuyển và đặc biệt là mang vẻ đẹp của con người. Nhắc đến công trình kiến trúc phương Đông phải nhắc đến các công trình kim tự tháp của Ai Cập. Giáo viên có thể miêu tả công trình kiến trúc này để học sinh thấy được sự đồ sộ của nó: Kim tự tháp là những ngôi mộ của các vua Ai Cập, xây dựng vùng Tây Nam Cai rô ngày nay. Trong số các kim tự tháp ở Ai Cập, cao lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim tự tháp của Kê ốp. Kim tự tháp Kê ốp xây thành hình chóp, đáy là hình vuông mỗi cạnh 230 mét, bốn mặt là những hình tam giác ngoảnh về bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Toàn bộ kim tự tháp được xây bằng những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng nặng 2,5 tấn, có tảng nặng 30 tấn. Để xây kim tự tháp này, người ta đã dùng đến 2.300.000 tảng đá với một khối lượng là 2408000 m 3. 13 Phương pháp xây kim tự tháp là ghép các tảng đá được mài nhẵn với nhau chứ không dùng vữa, thế mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại mỏng cũng không thể lách qua được. Hơn 2000 năm sau, nhà sử học Hi Lạp Hê rô đốt dến Ai Cập còn được nghe cư dân ở đây kể lại quá trình xây dựng kim tự tháp. Hê rô đốt cho biết, sau khi quyết định xây dựng kim tự tháp, Kê ốp đã huy động toàn thể nhân dân lao động trong nước đến công trường làm việc. Họ được tổ chức thành từng đội gần 100.000 người, cứ 3 tháng thì thay phiên một lần. Kim tự tháp được xây dựng ở tả ngạn sông Nin, nhưng nơi khai thác đá lại ở hữu ngạn. Vì vậy, người ta phải dùng thuyền chở đá từ nơi khai thác đến xây kim tự tháp. Từ bến đá đến khu lăng mộ, người ta phải xây một con đường bằng những tảng đá mài nhẵn, dài hơn 900 m, rộng 18 m và chỗ cao nhất là 15 m. Chỉ riêng việc xây con đường này đã mất 10 năm. Không kể thời gian làm đường và hầm mộ dưới đất, việc xây kim tự tháp đã kéo dài 20 năm mới hoàn thành. Việc xây dựng kim tự tháp đã "đem lại cho nhân dân Ai Cập không biết bao nhiêu tai họa". Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của mình đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, các kim tự tháp hùng vĩ vẫn đứng sừng sững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp thời gian và mưa nắng. Vì vậy, người A rập đã có câu: "Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời gian sợ kim tự tháp". Tìm hiểu về văn hóa cổ đại phương Tây, giáo viên có thể khắc họa cho học sinh những nét tiêu biểu của kiến trúc nơi đây thông qua việc miêu tả một số công trình tiêu biểu như: Đền Pác tê nông, tượng nữ thần tự do, đấu trường Rô Ma… Nghệ thuật Hi Lạp lúc đầu học tập ở người Ai Cập, nhưng trên cơ sở thành tựu của người xưa, họ đã phát triển 1 cách sáng tạo phong cách riêng biệt của mình, phát huy lên một trình độ điêu luyện hơn. + Tượng thần vệ nữ Mi Lô là tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của Hi Lạp, khắc họa vị nữ thần tình yêu và sắc đẹp. Tượng được điêu khắc trên chất liệu cẩm thạch trắng, nhưng đã mất cánh tay và bệ nguyên bản. Tuy nhiên, chính sự thiếu hụt này lại càng làm nên giá trị của tác phẩm. Sau khi bức tượng được tìm thấy, người ta đã tìm mọi cách khôi phục lại cánh tay nhưng không thành công. Tương được tạo dáng đến mức hoàn hảo, đường nét mềm mại, tinh tế,vẻ mặt sống động, có thần. tượng là thần nhưng lại thể hiện vẻ đẹp con người, giá trị hiện thực và nhân đạo cũng là ở đó. Tượng Hi Lạp trở thành 1 kiểu mẫu nghệ thuật, đến ngày nay, trong lịch sử chưa có 1 thời đại nào, chưa có 1 nơi nào mà nghệ thuật điêu khắc có thể vượt qua trình độ người Hi Lạp cổ đại. Công trình kiến trúc đẹp nhất của người Hi Lạp là đền Pác tê nông ở A Ten. Pác tê nông là ngôi đền thờ nữ thần A tê na, nữ thần tượng trưng cho trí tuệ, cũng là thần bảo trợ thành bang A Ten. Công trình được xây dựng trong 10 năm, dưới sự kiến thiết của 2 kiến trúc sư giàu kinh nghiệm Ichti ốt và Canlicratét, góp phần vào đó là bàn tay tài hoa của nhà điêu khắc Phi đi át. 14 Đền Pác-tê-nông Đền dài 70m, rộng 31m, cao chưa tới 14m, được xây dựng trên nền trụ đá với 3 bậc. Kết cấu đều khá rõ ràng, chia làm 3 gian là tiền sảnh, gian thờ (nơi đặt tượng nữ thần Atena bằng ngà voi nạm vàng) và phòng châu báu. Được chống đỡ mái bằng 46 cột tròn cao 10m bằng đá cẩm thạch. Hai phía đông tây đối xứng nhau là bức phù điêu tạo cảnh nữ thần A tê na chào đời và những truyền thuyết Hi Lạp đương thời như: Đám rước thần A tê na, việc tranh chấp làm thần bảo hộ thành bang A ten giữa 2 vị thần tới cao là Phôn sai don và A tê na được ghi tạc trên đó. Pác tê nông nhìn từ xa mang lại cảm giác vững trãi, vừa vặn, đẹp đẽ. Các kiến trúc sư nổi tiếng đương thời đã nói rằng: “Nếu người ta làm những cột cao hơn hay thấp hơn vài mươi phân, hoặc khoảng cách giữa những cột rộng hơn hay gần nhau hơn thì sự cân xứng và hài hòa không còn nữa”. tóm lại, đền Pác tê nông là một kiệt tác hoàn mĩ, tượng trưng cho sự tinh tế, trí thông minh kiệt xuất của người dân Hi Lạp Bàn về những tác phẩm nghệ thuật của người Hi Lạp, sử gia La Mã Pưlutaco nói: “Trong những tác phẩm ấy, tác phẩm nào cũng hoàn mỹ cả, cho nên từ trước đến nay được xem là có giá trị vĩnh cửu”. + Đấu trường Rô Ma: Rô ma là một vương triều hùng mạnh, người Rô ma nổi tiếng mạnh mẽ, mưu chí và gan dạ, song hành với trí tuệ họ còn tôn vinh ca phẩm chất dũng cảm và sức khỏe cơ bắp. Tượng trưng cho vẻ đẹp hùng tráng ấy, kiến trúc Rô Ma đã xây dựng nên đấu trường Cô li dê uy nghi, mạnh mẽ. Đấu trường có dạng hình clip với chu vi 527 m, được chia lầm 4 phần đối xứng .Với thiết kế vòng tròn, khán đài Rô Ma đã đưa tầm nhìn khán giả một cách rõ nhất, những hàng ghế trên nền dốc bậc, chạy vòng tròn chia làm 5 khu vực chứa 60 hàng chỗ ngồi cho 50000 người. Tầng trệt dành cho tầng lớp vua chúa và những người thân cận, khán đài cao hơn 5m để đảm bảo an toàn cho người xem còn chỗ ngồi 15 trên cùng cao 16. Nền tầng được lát gỗ và được ngăn thành nhiều phòng. Bên dưới khán đài còn có những khoảng không gian troongs cho việc nghỉ ngơi. Đấu trường Rô-Ma Từ ngoài nhìn vào, Cô li dê là một công trình đồ sộ với thiết kế mái vòm độc đáo quấn quanh cả 3 tầng, có đến 80 vòng cuốn đá và 80 bức tường hình rẻ quạt đỡ toàn bộ khán đài và sàn của các tầng. Trong đấu trường còn đặt rất nhiều pho tượng (Khoảng 60 pho), được bố trí rất hợp lí làm tăng thêm vẻ uy nghi, đồ sộ, hùng vĩ của công trình. Công trình mang một phong cách riêng của Châu Âu, to lớn và khoa trương, các chi tiết kiến trúc cũng được chú ý để tạo nên vẻ uy nghi cũng như không khí sôi động của trường đấu. d. Liên môn với các lĩnh vực khoa học khác: Học sinh được tìm hiểu về các nhà toán học, vật lí học vĩ đại của các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây. Ở đây các em cần kết hợp yếu tố lịch sử và yếu tố khoa học tự nhiên: Yếu tố sử học thông qua việc tìm hiểu tiểu sử, cuộc đời của các nhà bác học. Song như vậy chưa đủ, các em sẽ sử dụng kiến thức toán học, vật lí học để làm cụ thể hơn những thành tựu của họ, qua đó để thấy được đóng góp của các nhà khoa học đối với nhân loại. Ví dụ, khi tìm hiểu về nền khoa học của các quốc gia cổ đại phương Tây, để chứng minh cho việc những hiểu biết khoa học đến đây mới thực sự trở thành khoa học, giáo viên có thể lấy dẫn chứng cụ thể bằng những hiểu biết của mình về lĩnh vực này, + Về toán học: Ta lét: Là nhà toán học, đồng thời cũng được coi là một trong bảy nhà hiền triết thời bấy giờ. Quê hương ông là thành phố Milê, vùng I ô ni thuộc miền trung bờ biển tiểu á. Sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ta lét chẳng mấy mặn mà với việc kinh doanh. Ông chỉ say mê sách vở. thấy con như vậy nên cha ông đã buộc ông theo một đoàn thương nhân sang Ai Cập học nghề buôn bán. Chẳng ngờ rằng Ta lét sang Ai Cập chỉ thường xuyên bàn bạc với các nhà toán học, thiên văn 16 học, triết học của Ai Cập và cac nước cổ đại phương Đông khác. Từ những tri thức đó ông đã phát minh ra nhiều định lí về hình học mà nổi tiếng hơn cả là định lí Ta lét về các đoạn thẳng tỉ lệ với nhau khi có những đường song song cắt ngang như chúng ta đều biết. Ông cũng là người đầu tiên đo được chiều cao kim tự tháp: Kim tự tháp là một công trình nổi tiếng được xây dựng hoành tráng, nhưng làm thế nào để đo được chiều cao của nó? Đây quả là một câu hỏi rất khó đối với người Ai Cập cổ đại. Một hôm ta lét đến Ai cập đã được vua lập tức mời vào nhờ giải bài toán hóc búa này. Giữa đám đông, ông chỉ thực hiện bằng một cái thước. Bằng cách đo bóng của một người đứng tại vị trí đó, ta lét xác định được khi nào bóng kim tự tháp bằng đúng chiều cao của nó, nhờ vậy ông đo được chiều cao chính xác của kim tự tháp kê ốp là 146 m trước sự thán phục của nhiều người. Thực ra, cách Ta lét vận dụng để đo đạc chính là tuân theo nguyên lý tam giác đồng dạng. Nhưng thời kỳ đó nguyên lý đồng dạng chưa ra đời. ta lét chỉ hoàn toàn dựa vào trí thông minh của chính mình. Đó quả là điều tuyệt vời vượt thời đại. Pitago: Là nhà toán học, thiên văn học lớn của Hi Lạp. Ông được mệnh danh là người thầy của các con số. Ngoài định lí Pitago nổi tiếng (trong 1 tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương 2 cạnh góc vuông, ông còn chứng minh được tổng các góc trong 1 tam giác bằng 180 độ, xây dựng khái niệm vô cực … + Vật lí: Tiêu biểu nhất là Ác si mét, một trong số những nhà bác học vĩ đại nhất của HI Lạp cổ đại.Ác si met sinh ra ở thành Xy ra cu dơ nhỏ bé trên đảo Xixilia. Ông đã để lại nhiều tài sản vô giá cho khoa học nhân loại. Ông đã sáng tạo ra máy bơm hút nước tưới tiêu đồng ruộng, ông sử dụng đòn bẩy và ròng rọc để nâng các vật lên cao. Ác si mét từng nói: “Hãy cho tôi một đòn bẩy và một điểm tựa vững chắc, tôi sẽ nâng cả trái đất lên”. Ông còn phát minh ra định luật về lực đẩy của nước và có 1 câu chuyện rất nổi tiếng về định luật này: Vua Hierôn II nghi ngờ người thợ kim hoàn của mình đã ăn bớt vàng khi làm chiếc vương miện của nhà vua bèn nhờ Ac si mét xác minh rõ. Ác si mét ngày đêm suy nghĩ, cho đến cả lúc đi tắm ông vẫn còn ám ảnh vấn đề này trong đầu. Chợt ông nhận ra khi ngâm mình vào bồn nướ thì mực nước dềnh lên. Một tia sáng lóe lên trong đầu ông. Ông liền nhảy ra khỏi bồn tắm, quên cả việc mặc quần áo và chạy về nơi làm việc, miêng kêu “ ơ rê ka, ơ rê ka”( có nghĩa là tìm ra rồi, tìm ra rồi). Phương pháp ông tìm thật đơn giản, chỉ việc ngâm vật đó vào nước, thể tích khối nước dâng lên vừa bằng thể tích của vật đó. Về sau, Ác si mét đã phát triển thành định luật mang tên mình. Ngày nay có một miệng núi lửa và một dãy núi trên mặt trăng mang tên Acsimet để vinh danh ông. Acsimet xuất hiện trên các con tem bưu chính của Đông Đức, Hi Lạp, Italia. Huy chương danh giá của Fields giải thưởng được coi là Nobel của toán học cũng khắc hình Ác si mét. Ác si mét đã sống cách chúng ta hơn 2000 17 năm trước, nhưng trí tuệ của ông, phẩm chất đạo đức của ông đã vượt thời gian và không gian trở thành tài sản vĩnh hằng của nhân loại. 2.3.4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI: Qua việc vận dụng phương pháp dạy học liên môn trong giảng dạy lịch sử ở các lớp 10a3, 10a4,12a6, tôi đã thu được một số kết quả rất khả quan: học sinh tiếp thu kiến thức bài giảng dễ dàng hơn, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc tản mạn trong kiến thức. Cụ thể: Giỏi Khá Trung bình Yếu 10a3 4% 45% 50% 1% 10a4 5% 50% 42% 3% 12a6 5% 46% 47% 2% Dạy học liên môn giúp tôi tạo biểu tượng lịch sử được dễ dàng hơn, học sinh hứng thú học tập môn sử hơn. 3. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ 3.1. KẾT LUẬN: Dạy học liên môn là sự vận dụng những nội dung và phương pháp các lĩnh vực, các môn học có liên quan để nhằm tăng thêm hiệu quả dạy học lịch sử và làm sáng tỏ hơn những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi bộ môn. Dạy học liên môn làm cho người học nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc tản mạn trong kiến thức. Dạy học liên môn giúp cho việc tạo biểu tượng lịch sử dễ dàng hơn và nâng cao hiệu quả giáo dục và giáo dưỡng của bài giảng lịch sử. Để vận dụng tốt phương pháp dạy học liên môn, thầy giáo dạy sử không chỉ có kiến thức chuyên môn sử vững vàng mà còn có những hiểu biết khá vững về các bộ môn địa lý, văn học nghệ thuật và các bộ môn khác để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm. Giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ và chắt lọc những kiến thức liên môn có nội dung tiến bộ, phản ánh lịch sử một cách chân thực nhất, phù hợp với yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng của bài học, tránh ôm đồm làm loãng nội dung bài giảng lịch sử. 18 Kho tàng tri thức nhân loại thật phong phú. Giáo viên dạy sử luôn có ý thức tự tích lũy, cập nhật kiến thức vận dụng có hiệu quả cho chuyên môn giảng dạy của mình, thì chắc chắn giờ học lịch sử sẽ không còn khô khan, phiến diện đối với người học. 3.2. KIẾN NGHỊ. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng phương pháp dạy học liên môn vào dạy học bộ môn lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện nay: Nhà nước ta cần có sự ưu tiên phát triển giáo dục, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Sách giáo khoa có sự cải cách về nội dung và hình thức: kênh hình nhiều hơn, tài liệu hướng dẫn và sách tham khảo ngày càng phong phú hơn. Nội dung chương trình học có sự điều chỉnh để phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông, phù hợp với thời lượng dạy học và điều kiện thực tế các nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đỗ Thanh Nam Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018 CAM KẾT KHÔNG COPY. (Tác giả ký và ghi rõ họ tên) Nguyễn Thị Minh 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan