Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề giảng dạy môn triết học mác lênin tại trường chính trị nguyễn văn linh tỉ...

Tài liệu Vấn đề giảng dạy môn triết học mác lênin tại trường chính trị nguyễn văn linh tỉnh hưng yên hiện nay thực trạng và giải pháp

.PDF
83
323
93

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ CAO ĐỘ VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ CAO ĐỘ VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Ngành: Triết học Mã số: 82 29 001 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Vấn đề giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay: Thực trạng và giải pháp” là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả điều tra là trung thực và chưa từng công bố ở công trình nào khác. Các trích dẫn, nguồn tài liệu trong luận văn đều ghi rõ ràng để bảo đảm tính khách quan và quyền tác giả. Học viên Lê Cao Độ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN ........................................................................................ 10 1.1. Khái lược về triết học Mác-Lênin và việc giảng dạy nó trong các trường chính trị ở nước ta hiện nay ................................................................. 10 1.2. Vị trí, vai trò của môn triết học Mác-Lênin trong chương trình đào tạo cán bộ ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên........................ 20 Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY MÔN TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ............................................................ 29 2.1. Thực trạng giảng dạy môn triết học Mác-Lênin ở Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng yên và nguyên nhân của nó.............................. 29 2.2. Một số vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học Mác – Lênin ở trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay ...... 45 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN TRONG THỜI GIAN TỚI ....................................................................................................... 56 3.1. Nhóm giải pháp về cải tiến nội dung, chương trình đào tạo môn Triết học Mác-Lênin trong khung chương trình Trung cấp lý luận chính trịhành chính ....................................................................................................... 56 3.2.Nhóm giải pháp đối với đội ngũ giảng viên.............................................. 58 3.3. Nhóm giải pháp về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học ................... 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “cán bộ là cái gốc của mọi vấn đề”, “mọi việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vì vậy, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ là công việc thường xuyên trong mọi giai đoạn lịch sử cách mạng. Nghị quyết Đại hội XII cũng đã chỉ rõ: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi chủ trương và hành động. Do vậy, giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, cho đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng của công tác giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với mỗi cán bộ, đảng viên nhằm củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay. Nằm trong hệ thống các trường đảng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong những năm qua, Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên đã thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ được giao trong việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể từ cấp phó trưởng phòng, trường phòng và tương đương của các sở, ban ngành, đoàn thể trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền và hiện thực hóa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và của tỉnh trong đời sống thực tiễn. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung, hoạt động giảng dạy nói riêng tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế như: chương trình đào tạo bồi dưỡng còn chậm được đổi mới, chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn; trong giảng dạy và học tập còn nặng 1 “độc thoại” của giảng viên mà chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên. Việc giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường trong thời gian qua mặc dù bước đầu đã đi vào nền nếp và đạt được một số kết quả, tuy vậy cũng bộc lộ không ít tồn tại, hạn chế: thời lượng chương trình không nhiều; phân bổ thời gian giữa kiến thức lý luận và thời gian thảo luận, tựhọc tự nghiên cứu của môn học này còn chưa phù hợp với tình hình học tập thực tế, kết quả học tập còn chưa phán ảnh chính xác chất lượng, hiệu quả giảng dạy; trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giảng viên giảng dạy môn học trên còn một số hạn chế nhất định; phương pháp giảng vẫn chủ yếu là thuyết trình truyền thống, việc áp dụng phương pháp dạy-học tích cực còn hạn chế, gây tâm lý chán nản cho người học; cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra…v.v. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ học viên có phương pháp học tập chưa tốt, khả năng tư duy độc lập và khái quát còn hạn chế dẫn đến tiếp thu kiến thức môn học trên một cách máy móc; một số chưa thấy trách nhiệm học tập lý luận chính trị của đảng viên nên chưa tự giác, thiếu quyết tâm, không cần cù chịu khó trong học tập, có động cơ và thái độ học tập tiêu cực, thiếu trung thực; một số chưa có tác phong và thói quen làm việc theo giờ hành chính, còn ngại học tập lý luận chính trị nên trước những quy định chặt chẽ của Nhà trường dễ sinh tâm lý bị gò ép, ngại ngồi lâu, ngại nghe nhiều, đi muộn về sớm, nghỉ học không xin phép hoặc không có lý do chính đáng. Dẫn đến vi phạm quy chế học tập, rèn luyện làm ảnh hưởng không tốt đến tính nghiêm túc của lớp học. Trong đội ngũ học viên có không ít người không thực sự nghiêm túc trong học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị, do động cơ chủ yếu chỉ là học để lấy bằng cấp, sử dụng bằng cấp cho thăng tiến, tăng lương, chuyển ngạch...v.v. Họ thường không có hứng thú với môn học vì cho rằng đó là môn học khô khan, khó hiểu, đa số học viên 2 đều không thấy được sự cần thiết của môn học đối với công việc của họ khi cho rằng học xong không ứng dụng được trong thực tế công việc, tâm lý đi học chỉ cốt lấy văn bằng chứng chỉ, “ để trả nợ” khi được qui hoạch, bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ, lãnh đạo.Điều này làm cho việc áp dụng kiến thức đã học trong thực tiễn công tác nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ trên địa bàn tỉnh còn đạt hiệu quả chưa cao…v.v. Xuất phát từ thực tế đó, đồng thời với mong muốn góp phần nâng cao công tác giảng dạy lý luận chính trị tại đơn vị, chúng tôi lựa chọn Vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay: Thực trạng và giải pháp làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Triết học của mình. 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học liên quan đến nội dung đề tài. Tiêu biểu là các công trình, bài viết sau: “ Đổi mới tư duy lý luận vào việc đổi mới nội dung chương trình bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác-Lênin trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ V”, đề tài khoa học cấp Bộ năm 1991 do tác già Nguyễn Đức Bình làm chủ nhiệm. Công trình đã nêu lên tính cấp thiết của việc cần đổi mới nội dung chương trình bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác-Lênin bám sát tinh thần nghị quyết Đại hội V của Đảng. “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam”, do tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, Viện Triết học xuất bản, 2001[10]. Công trình đã khái quát kết quả sau khoảng 50 năm nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam, thống kê số lượng cán bộ nghiên cứu và giảng dạy triết học trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng và hệ thống trường Đảng trong toàn quốc tới năm 2000 với khoảng 3000 người. Đồng thời, công trình còn tập hợp các báo cáo kết quả sau 25 năm giảng dạy triết học ở trường đại học khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh và một số trường đại học ở phía Nam. 3 “Một số vấn đề giáo dục thế giới quan Mác-Lênin cho thế hệ trẻ Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay” của tác giả Dương Văn Thịnh, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 55 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Nxb ĐHQGHN, 2001. Tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan Mác-Lênin cho thế hệ trẻ Việt Nam, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới hiện nay. “Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận Mác-Lênin- Một nội dung quan trọng trong công tác chính trị, tư tưởng ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay” của tác giả Dương Văn Duyên( viết chung), trong cuốn Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung chương trình các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN, 2002. Tác giả đã đề cập đến yêu cầu phải nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học gắn với việc trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho sinh viên, góp phần thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng ở các trường đại học. “Triết học góp phần đào tạo nguồn lực con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Nguyễn Hữu Vui, in trong cuốn Khoa học xã hội và Nhân văn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, HN, 2000. Tác giả đã nêu lên vai trò của triết học trong việc đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đai hóa của đất nước ta hiện nay. “Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin ở Việt Nam- Những vấn đề chung”, đề tài khoa học cấp bộ năm 2002 do tác giả Nguyễn Hữu Vui làm chủ nhiệm[84]. Công trình đã nêu lên sự cần thiết phải đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa hoc Mác-Lênin ở Việt Nam. Tác giả đã trình bày nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin theo hướng tránh giảng dạy theo kiểu truyền đạt một chiều, giáo điều; coi trọng việc nâng cao phương pháp luận cho sinh viên trong nhận thức và cải tạo hiện thực. 4 “Thực trạng và giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học và cao đẳng”, Hội thảo khoa học năm 2003 do Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương tổ chức [6]. Công trình đã đánh giá bước đầu những kết quả đạt được trong giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác-Lênin trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng; đồng thời chỉ ra những bất cập, tồn tại trong giảng dạy các môn học trên, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin. “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học khoa học Mác-Lênin trong trường đại học” do tác giả Nguyễn Duy Bắc chủ biên, Nxb CTQG, HN, 2004 [7]. Công trình đã trình những vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học khoa học Mác-Lênin trong hệ thống các trường đại học ở nước ta hiện nay, chỉ ra những hạn chế về dạy và học khoa học Mác-Lênin tại các trường đại học trong thời gian qua. “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận MácLênin ở các trường chính trị tỉnh”, Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Đình Trãi, HN, 2001 [77]. Tác giả làm rõ khái niệm tư duy lý luận. Tác giả cũng làm rõ nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị tỉnh. “Giáo dục lý luận Mác-Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”, Luận án tiến sĩ của tác giả Hoành Anh, HN, 2006 [2]. Tác giả đã làm rõ các khái niệm lý luận Mác-Lênin; nhân cách; kinh tế thị trường. Tác giá nhấn mạnh vai trò của giáo dục lý luận Mác-Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. “Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học của 5 tác giả Vũ Thanh Bình, Đại học Quốc gia hà Nội, 2012 [8]. Tác giả làm rõ các khái niệm lý luận; lý luận chính trị; giảng viên lý luận chính trị. Tác giả cũng trình bày vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay; các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. “Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho học viên hệ cao cấp ở các Trường Chính trị và Hành chính nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”, luận án tiến sĩ triết học của tác giả Sai Kham Moun Ma Ni Vong, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2014. Tác giả đã làm rõ khái niệm lý luận Mác-Lênin và những đặc trưng cơ bản; vai trò của giáo dục lý luận MácLênin cho học viên hệ cao cấp ở các Trường Chính trị và hành chính tại Lào hiện nay. Bên cạnh đó, còn rất nhiều bài viết trên các báo, tạp chí về vấn đề giảng dạy triết học như: “Nhìn lại việc nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta 55 năm qua” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học, Số 5, 2000 [9]. Tác giả đã đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu và giảng dạy triết học trong suốt năm mươi lăm năm qua ở Việt Nam, nhận định một cách khái quát về đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy triết học ở nước ta cũng như những đóng góp cơ bản của công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học trong suốt hơn năm mươi năm qua ở Việt Nam. “Cần có một sự thay đổi mạnh mẽ trong việc dạy và học môn triết học ở nhà trường” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Giáo dục và Thời đại, Số 47, t1/2001[11]; “Về vai trò của triết học trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học, số 7(182), T7/2006 [13]; “ Góp vào việc dạy triết học Mác cho sinh viên ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, Số 3, 2007; “Đổi mới việc dạy triết học trong nhà trường đại học ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí TTKHXH, T11/2007; “Khắc phục rào cản 6 tâm lý trong quá trình triển khai phương pháp dạy học tích cực ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Ngọc Đại, Tạp chí Giáo dục Lý luận Chính trị, Số 9/2004.39; “Vai trò định hướng của triết học trong nhận thức và giải quyết những vấn đề toàn cầu hóa ở thời đại hiện nay” của tác giả Đặng Hữu Toàn, Tạp chí triết học, Số 9(184), T9/2006 [71]; “Về đổi mới nghiên cứu và giảng dạy triết học Mác-Lênin ở nước ta hiện nay” của tác giả Vũ Văn Viên, Tạp chí triết học, Số 4(191), T4/2007 [82]; “Rèn luyện phương pháp biện chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng thông qua việc dạy và học triết học Mác-Lênin trong tình hình hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Cư, Tạp chí Triết học, Số 12(199), T12/2007; “Dạy và học triết học Mác-Lênin ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” của tác giả Trần Đăng Sinh, Tạp chí Triết học, Số 2(201), T2/2008; “Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học ở Học viện Chính trị khu vực I trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Vũ Trọng Dung, Tạp chí Triết học, Số 4(191), T4/2007; “Người ta cần triết học để làm gì?” của tác giả Nguyễn Thúy Vân Tạp chí Triết học, Số 6(217), T6/2009 [81]; “Về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học Mác-Lênin cho sinh viên không chuyên triết”của tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân, Tạp chí KHXH&NV, Số 10, T9/2013; “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên thông qua phát huy vai trò giảng dạy triết học Mác-Lênin” của tác giả Hoàng Thúc Lân, Tạp chí Giáo dục, Số 160, kì 1, T4/2007; “Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy triết học Mác-Lênin” của tác giả Nguyễn Thị Hương Giang; Báo điện tử Giáo dục thời đại, ngày 10/5/2015; “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy triết học Mác-Lênin” của tác giả Nguyễn Thị Thường, Tạp chí Giáo dục, ngày 24/4/2017…v.v. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về hoạt động giảng dạy triết học nói chung, triết học MácLênin nói riêng, cũng như vai trò của triết học, triết học Mác-Lênin. Cung cấp 7 cho chúng ta cách nhìn toàn diện, khá phong phú về việc nghiên cứu và giảng dạy triết học, triết học Mác-Lênin trong hệ thống giáo dục- đào tạo. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay. Do vậy, nghiên cứu vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay là vấn đề hết sức mới mẻ và cấp thiết hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích nghiên cứu - Đề tài đánh giá thực trạng vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 20102017, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy bộ môn này thời gian tới. b. Nhiệm vụ nghiên cứu -Thứ nhất, thiết lập cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay. - Thứ hai, đánh giá thực trạng chất lượng giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay. - Thứ ba, đề xuất các nhóm giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế và nâng cao chất lượng giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác – Lênin tại trường chính trị Nguyễn Văn Linh, tỉnh Hưng Yên. 8 b. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn giới hạn phạm vi vấn đề giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu a. Cơ sở lý luận của đề tài - Luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục( giảng dạy) triết học MácLênin, vai trò của giảng dạy Triết học Mác-Lênin đối với cán bộ để triển khai các nội dung có liên quan b. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài sử dụng các phương pháp lịch sử-logic; phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; các phương pháp thu thập số liệu thứ cấp để làm rõ nội dung vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiến a. Ý nghĩa lý luận - Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay. Qua đó, làm rõ cơ sở lý luận về giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hiện nay. b. Ý nghĩa thực tiễn - Những nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin cho đội ngũ giảng viên giảng dạy Triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh tỉnh Hưng Yên hiện nay. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề giảng dạy môn Triết học Mác-Lênin tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương 7 tiết. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN VĂN LINH TỈNH HƯNG YÊN 1.1. Khái lược về triết học Mác-Lênin và việc giảng dạy nó trong các trường chính trị ở nước ta hiện nay 1.1.1. Khái lược về triết học Mác-Lênin Chúng ta vẫn thường quan niệm Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy [32 tr.23]. Trong hệ thống các trường phái, trào lưu triết học trong lịch sử nhân loại, triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy- thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới[63, tr.40]. Các nhà nghiên cứu đánh giá rằng, “với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác-Lênin là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác-Lênin là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học- phép biện chứng duy vật” [63, tr.40]. Triết học Mác – Lênin có những đặc trưng cơ bản: Một là, tính trừu tượng hoá và tính khái quát hoá cao Các hình thức biểu hiện của triết học Mác - Lêninnhư khái niệm, phạm trù, các nguyên lý, qui luật...v.v đều là sản phẩm của quá trình trừu tượng hoá cao, khái quát hoá cao của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Với sức mạnh của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá, triết học Mác Lênin trên cơ sở nắm bắt được những mối liên hệ khách quan, bản chất mà phát hiện những quy luật vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng, đem 10 lại cho con người “hình ảnh chân thật của đối tượng” nhờ đó mà con người có thể cải tạo thế giới theo yêu cầu và mục đích của mình. Với đặc trưng này, triết học Mác - Lênin là hệ thống tri thức đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các mối liên hệ tất yếu trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Đó là một hệ thống tri thức lý luận khoa học, đúng đắn cả trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống lý luận này trở thành kim chỉ nam cho con người nhận thức và cải tạo thế giới. Hai là, tính hệ thống, lôgic, chính xác và chặt chẽ Triết học Mác - Lênin là một hệ thống tri thức có mối liên hệ bên trong chặt chẽ. Mỗi khái niệm, phạm trù, nguyên lý phản ánh những khía cạnh khác nhau của sự vật, hiện tượng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, mang lại cho con người những tri thức về sự vật hiện tượng trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó, giúp con người có được cái nhìn toàn diện, chính xác về sự vật, hiện tượng. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người một bức tranh chân thật về hiện thực khách quan, tránh mọi “ảo tưởng” mù quáng, mê hoặc, xuyên tạc sự thật, gạt bỏ thần bí siêu tự nhiên. Triết học Mác - Lênin là một hệ thốngmang tính chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất, với khả năng phản ánh chính xác sự vật, hiện tượng như nó đó tồn tại, vận động và phát triển. Trên cơ sở đó có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Triết học Mác - Lênin là hệ thống lý luận điển hình về tính chính xác và logic chặt chẽ, có tác dụng tích cực đối với hoạt động thực tiễn của con người, làm cho “trí tuệ” con người tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong thế giới khách quan, do đó làm tăng thêm sự hiểu biết của mình đối với giới tự nhiên. Với đặc trưng này đòi hỏi việc giảng dạy triết học Mác - Lênin không được tuỳ tiện, hời hợt, đơn giản, không thể là sự tuỳ tiện chắp vá, cắt xén một cách cơ học những khái niệm, phạm trù, nguyên lý và qui luật cơ bản của triết học Mác-Lênin. 11 Ba là, tính gắn bó, liên hệ, thống nhất với thực tiễn Thống nhất lý luận với thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận Mác- Lênin nói chung và của triết học Mác - Lênin nói riêng. Hồ Chí Minh đã khẳng định “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” [54, tr 496]. Theo Hồ Chí Minh, lý luận sẽ là lý luận suông, lạc hậu, giản đơn, không có tính khoa học nếu xa rời thực tiễn. Thực tiễn sẽ trở thành mù quáng, tự phát nếu không có lý luận soi ðýờng. Lý luận Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó chính là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội của giai cấp công nhân. Bốn là, thống nhất giữa tính khoa học và tính giai cấp Triết học Mác - Lênin bao hàm trong nó đặc trưng thống nhất giữa tính khoa học và tính giai cấp. Tính khoa học của triết học Mác - Lênin thể hiện ở chỗ nó phản ánh đúng theo quy luật khách quan của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tính giai cấp của triết học Mác - Lênin thể hiện ở chỗ nó là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với nhu cầu, lợi ích của toàn nhân loại tiến bộ. Do vậy, tính giai cấp của triết học Mác - Lênin luôn luôn thống nhất với tính khoa học. Năm là, tính sáng tạo và tính phát triển Thực tiễn cho thấy lý luận Mác – Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói riêng là một hệ thống mở và luôn bao hàm trong nó tính sáng tạo và tính phát triển. Chính vì triết học Mác - Lênin mang tính sáng tạo nên nó luôn phát triển. Nó luôn được bổ sung, phát triển bằng sự sáng tạo bởi các nhà lý luận mácxít chân chính. Tính sáng tạo của triết học Mác - Lênin luôn có cơ sở từ 12 tổng kết thực tiễn trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Hơn nữa, nó còn có cơ sở là những thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn. Sự phát triển của triết học Mác – Lênin cũng có cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học. Chính vì sáng tạo mà triết học Mác - Lênin mới có điều kiện phát triển và ngược lại sự phát triển của triết học Mác - Lênin đòi hỏi cần phải có sự sáng tạo. Hiện nay, lý luận Mác – Lênin cũng như triết học Mác-Lênin luôn luôn được các đảng cộng sản vận dụng và phát triển, sáng tạo trong điều kiện mới. Ngoài những đặc trưng cơ bản trên triết học Mác - Lênin còn có một số đặc trưng khác như tính kế thừa, là hệ thống mở có thể bổ sung và phát triển...v.v. Trong triết học Mác-Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển của hiện thực, do đó, nó không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới, lý luận về thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận. Như vậy, trong triết học mácxít, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Nắm vững triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan khoa học mà còn là xác định một phương pháp luận đúng đắn [32, tr.43]. Trong thời đại ngày nay, triết học Mác-Lênin đang đứng ở đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại. Với tư cách là học thuyết về sự phát triển thế giới, 13 triết học Mác-Lênin đã và đang tiếp tục phát triển trong dòng chảy của văn minh nhân loại. Vai trò của triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội Triết học Mác-Lênin là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ. Trước hết, triết học Mác-Lênin có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của đời sống xã hội Việt Nam.Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vai trò của triết học Mác-Lênin ngày càng được nâng cao. Điều đó, trước hết là do những đặc điểm, xu thế phát triển của thời đại và hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam qui định. Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để Đảng Cộng sản Việt Nam phân tích xu hướng phát triển của xă hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức trong kỉ nguyên toàn cầu hoá. Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá xã hội đang được đẩy mạnh ở hầu hết các quốc gia. Bản chất của toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ các mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động, phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ mà nguyên nhân và biểu hiện của nó là sự phát triển, chi phối của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, xu thế bổ sung và phản ứng lại là xu thế khu vực hoá. Toàn cầu hoá đem lại sự ra đời của hàng loạt tổ chức quốc tế và khu vực. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hóa cùng với những vấn đề toàn cầu đang làm cho tính chỉnh thể của thế giới tăng lên, hợp tác và đấu tranh trong xu thế cùng tồn tại hòa bình. 14 Thứ hai, triết học Mác-Lênin là cơ sở lý luận khoa học của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lí luận khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đổi mới tư duy lí luận, trong đó có vai trò của triết học Mác-Lênin. Triết học phải góp phần tìm được lời giải đáp về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ử Việt Nam, đồng thời qua thực tiễn để bổ sung, phát triển tư duy lí luận.Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của triết học Mác-Lênin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết học Mác-Lênin để phát huy tác dụng và sức sống của nó đối với thời đại và đất nước ta [63, tr. 44-49]. 1.1.2. Giảng dạy triết học Mác – Lênin trong hệ thống các trường chính trị 1.1.2.1. Hệ thống các trường chính trị, chức năng nhiệm vụ, đối tượng đào tạo Theo Quyết định 184- QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng:Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đon vị trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy. Như vậy, có thể hiểu: Hệ thống các trường chính trị(trường Đảng) là một chỉnh thể gồm các trường chính trị cấp tỉnh và tương đương thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kỹ năng nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của các địa phương trong cả nước. Hệ thống các trường chính trị được thực hiện theo các qui định, quyết định: Quyết định số 15/QĐ-TW ngày 01 tháng 01 năm 1983 của Ban Bí thư Trung ương “về tổ chức và nhiệm vụ của các trường Đảng trong cả nước”; quyết định số 88-QĐ/TW ngày 05 tháng 9 năm 1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Hướng dẫn số 07-TC/TW ngày 28 tháng 7 năm 1995 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về việc thành lập các trường chính trị cấp tỉnh, thành 15 phố trực thuộc Trung ương; Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng(Khóa X) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; TheoQuyết định 184-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm 2008, tại Điều 1 qui định rất rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và tổ chức bộ máy của Trường chính trị tỉnh, cụ thể như sau:Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp co sỏ, cán bộ công chức ở địa phương về lý luận chính trị- hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác. Như vậy, Quyết định 184- QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ đối tượng đào tạo của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là: cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức ở địa phương [4]. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm: Thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở(xã, phường thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng phó phòng, ban ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng,phó phòng của sở, ban ngành đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ công chức cấp cơ sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; về nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước và một số lĩnh vực khác. Thứ hai, đào tạo trung cấp lý luận chính trị- hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ, công chức, viên chúc ở địa phương. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất