Đề tài 2. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và
cách mạng ở chính quốc. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
I.
Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân
tộc:
1.1 Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa
- Tính chất của cuộc cách mạng thuộc địa
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa
phương Đông không giống như ở các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở
thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều nhưng họ đều chung một số phận mất nước.
Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa phương tây là
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong
xã hội thuộc địa phương đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa thực dân.
Chính vì vậy mà tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước thuộc địa trước
hết là phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đối tượng của cách mạng thuộc địa đó là chủ nghĩa thực dân và tay sai
phản động.
- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng thuộc địa
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nhấn mạnh tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc và người
thực hiện nhiệm vụ cách mạng đó chính là nông dân.
Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
xác định nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nổi lên hàng đầu là
nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong đó bao hàm cả giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) do Hồ Chí
Minh chủ trì kiên quyết giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, nhấn mạnh đó là
“nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiện “cách mạng ruộng
đất”, và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong những bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
b) Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
- Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành lại
quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc.
- Tháng 5 - 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ
tám chủ trương: “thay đổi chiến lược” từ nhấn mạnh giai cấp sang nhấn mạnh
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, cuộc cách mạng Đông Dương trong
giai đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mất hàng chục năm bôn ba để tìm đường cứu
nước và đã phải bỏ ra khoảng mười năm để tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn
trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở nhiều
nước thuộc địa. Qua cả một quá trình tích lũy bằng vốn sống và học tập không
mệt mỏi đó, cùng với một trí tuệ sắc sảo, Hồ Chí Minh đã hình thành nên một
hệ thống luận điểm về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa mà có thể nói,
đó là cả một sự đóng góp to lớn, góp phần bổ sung và hoàn thiện thêm hệ thống
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc có thể tóm tắt thành
một hệ thống luận điểm sau đây:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản.Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái
Quốc đã khẳng định rằng muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc thì phải kết hợp
cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa;
phải xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản, và cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải
phóng dân tộc thành công "trước hết phải có đảng cách mệnh", "đảng có vững
cách mệnh mới thành công" "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt",
đó là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân
trên cơ sở liên minh công nông.
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản ở chính quốc. Đây là một
luận điểm mới và sáng tạo của HCM. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu
yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho
rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào CM vô sản ở
chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng
vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Năm là, CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của
nhân dân.
Tóm lại, HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin
về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống quan điểm mới mẻ, sáng tạo, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
II.
Tìm hiểu về cách mạng vô sản ở chính quốc:
1. Thế nào là cách mạng vô sản ở chính quốc:
Bản chất của cách mạng vô sản ở chính quốc là một cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản ở chính quốc lãnh đạo chống lại ách thống trị của giai
cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, thiết lập nên nền chuyên chính vô sản..Các cuộc
cách mạng này nhằm giải quyết những mâu thuẫn giai cấp ở các nước chính
quốc.
2. Đặc điểm chung của cách mạng vô sản ở chính quốc :
- Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc ,các cường quốc tư bản
phương Tây không những tiến hành xâm lược thuộc địa mà còn ra sức bóc lột
các nông dân ,công nhân –những tầng lớp vô sản trong nươc .Chính vì thế trong
nội tạng các nước đế quốc nảy sinh ra mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp vô sản bị
áp bức và chủ nghĩa thực dân .
_ Kẻ thù chung của giai cấp vô sản trong chính các nươc này là chủ nghĩa đế
quốc .
-Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản bị áp bức diễn ra mạnh mẽ ,dưới
nhiều hình thức và xáy ra mạnh mẽ ở khắp nơi .
- Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác –Lê nin và phong trào công nhân trên thế
giới là động luuwcj mạnh mẽ cổ vũ các phong trào đấu tranh chống đế quốc của
giai cấp vô sản đòi quyền dân chủ diễn ra mạnh mẽ .
Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc
là quan hệ bình đẳng:
Thế kỉ XIX, Mác – Awnghen cho rằng: “ Hãy xóa bỏ tình trạng người
bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ”.
Đầu thế kỉ XX, Quốc tế cộng sản cho rằng: chỉ có thể thực hiện hoàn
toàn công cuộc cách mạng thuộc địa khi cách mạng vô sản giành được thắng
lợi ở các nước tư bản tiên tiến.
III.
Như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải ngồi chờ
cách mạng vô sản ở chính quốc thắng lợi.
Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung chủ nghĩa đế quốc.
Theo HCM giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ phụ thuộc,
hoặc quan hệ chính - phụ.
Năm 1925, HCM viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám vào giai cấp vô
sản ở thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục
hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt
lại sẽ mọc ra”
Dựa vào quan điểm của Mác,
“sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân
giai cấp công nhân”.
Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận:
“công cuộc giải phóng anh, em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Khối liên minh các dân tộc thuộc
địa sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng thế giới. “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp đi xâm lược
thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa…”.
Nguyễn Ái Quốc nhận thức vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa
và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
ngay từ năm 1924, Người đã nói:
Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản
ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”... “họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh phân biệt về nhiệm vụ của
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách
mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau
Người nêu ví dụ" An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp
yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mạng cũng dễ.
Và nếu công nông Pháp làm cách mạng thành công, thì dân tộc An Nam sẽ
được tự do
Đây là luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn;
cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin.,đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng
đắn.
IV.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sang
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc:
1. CM giải phóng dân tộc thuộc địa cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo:
Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, CM thuộc địa có tầm
quan trọng đặc biệt, nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng
cách mạng to lớn.
Theo HCM: “ Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho
1 liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một
trong những cái cánh của CMVS”.
HCM khẳng định: Công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có
thể thực hiện bằng sự nỗ lực giải phóng.
+ HCM vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra : “sự giải
phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp
công nhân” để khẳng định :” Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Vì thế nên công
cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa phải do chính sách các dân tộc
đó thực hiện.
+ Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy
chống đế quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan
của dân tộc, tránh tư tưởng bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ của bên
ngoài. Tháng 8-1945 khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi :
“Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta”
+ Người nói : “ Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại
phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi
mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi
chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”
2. CM giải phóng dân tộc thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước
CM vô sản ở chính quốc
Theo HCM, giữa CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa và CMVS ở
chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải mối quan hệ lệ
thuộc hoặc quan hệ chính phụ.
HCM nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dựa trên sự
bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc
địa vì vậy cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết
hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới
tiêu diệt được hoàn toàn CNTB. Hơn nữa theo đánh giá của HCM
trong giai đoạn ĐQCN sự tồn tại, phát triển của CNTB ở chính
quốc trước chẳng khác nào đánh rắn đằng đuôi.
CMGPDT có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc
vì “ thuộc địa là khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa”.
Thuộc địa là khâu yếu nhất vì:
+ Là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn: Chính sách khai thác thuộc
địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa
với CNĐQ ngày càng gay gắt vì vậy mà tiềm năng cách mạng của
các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.
+ Tinh thần cách mạng của nhân dân thuộc địa rất cao: Tinh thần
yêu nước và CNDT chân chính của các dân tộc thuộc địa là một sức
mạnh tiềm ẩn của CMGPDT. Sức mạnh đó nếu được chủ nghĩa
Mác-Lênin giác ngộ và soi đường thì CMGPDT ở các nước thuộc
địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả năng chủ động cao so với
CMVS ở chính quốc.
3. Ý nghĩa:
+ Đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp CMGPDT ở Việt
Nam không thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy
tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà CMVS giành thắng lợi vĩ
đại.
+ Góp phần định hướng cho phong trào GPDT ở các nước khác trên thế
giới thời kỳ đó.
Liên hệ với thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc cần
được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.
Luận điểm đó có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt trong
cách mạng Tháng tám và 30 năm chiến tranh Cách mạng Việt Nam (19451975) đã chứng minh tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ, tính khoa học, tính
cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng
dân tộc ở Việt Nam.
Theo luận điểm này của Hồ Chí Minh đảng ta đã thay đổi chiến lược
cương quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế
V.
quốc, giành độc lập dân tộc hàng đầu. Nắm vững tư tưởng cách mạng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh , cả dân tộc Việt Nam đã tiến hành hai cuộc
chiến chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới suốt 30 năm và đã giành được
thắng lợi trước hai kẻ thù lớn mạnh hơn chúng ta rất nhiều đó là thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ. Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng
dậy chống đế quốc thực dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân, Người đã
chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc,tránh tư tưởng bị động,
trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
Tháng 8/1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân pháp, người nói: “kháng chiến trường kỳ
gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình …Cố nhiên
sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không
được ngồi mong chờ người khác.
Hồ Chí Minh đã sử dụng quan điểm toàn diện,biện chứng để phân
tích,so sánh lực lượng giữa ta và địch.Phát huy và sử dụng sức mạnh của
toàn dân tộc, dựa vào sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng, kết hợp các qui luật của khời nghĩa và chiến
tranh.
Thực tiễn thắng lợi của cách mạng VN và sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc đã chứng minh quan điểm trên là hoàn toàn đúng đắn
VI.
Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Quan điểm này thể hiện rõ sự vận dụng sang tạo cảu chủ nghĩa Mác –
Lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh: do nhận thức
được bản chất của chủ nghĩa tư bản, nhận thức được thuộc địa là một khâu
yếu trong hệ thống chủ nghĩa đế quốc, đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, sức mạnh của cách mạng thuộc địa, nên
khi tiếp thu và vận dụng các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh đã luận giải đúng đắn về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và đưa ra luận điểm: cách mạng giải
phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một trong những sáng
tạo lý luận đặc sắc của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, góp
phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin.
Quan điểm này góp phần khắc phục hạn chế nhận thức của Quốc tế
cộng sản lúc đóvề vị trí của cách mạng giải phóng dân tộc, bổ sung vào kho
tang lý luận thế giới
Luận điểm này của Hồ Chí Minh đã có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất
quan trọng. Đó là cơ sở để Đảng ta tin tưởng và quyết tâm tổ chức lãnh đạo
nhân dân Việt Nam đứng lên làm cách mạng để tự giải phóng khỏi ách đế
quốc xâm lược và khỏi nghèo nàn lạc hậu. Đó cũng chính là cơ sở của tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp
cách mạng. Nhờ tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam giành được nhiều
thắng lợi to lớn. Thực tế là sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam
không phải giải quyết ở Pháp hay ở Nhật, ở Mỹ mà là ở Việt Nam, là do
thành quả cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam. Tất nhiên, trong cuộc đấu tranh để đi đến
thắng lợi của nhân dân Việt Nam không thể không nói tới vai trò của đoàn
kết quốc tế, đặc biệt là đoàn kết với giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở
chính những nước có bọn đế quốc, thực dân đi xâm lược, nô dịch, nhưng
trong sự đoàn kết đó, cách mạng Việt Nam vẫn luôn tích cực chủ động,
không ỷ lại vào bên ngoài và đã thực hiện theo đúng phương châm Hồ Chí
Minh đã từng đưa ra là “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Và cách mạng
nước ta đã giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở Pháp, Nhật, Mỹ; đã
góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động các nước đó và các nước khác trong cuộc đấu tranh để đi đến giải
phóng hoàn toàn.
Trong thời kỳ hiện nay, khi đất nước đang thực hiện công cuộc đổi
mới vì chủ nghĩa xã hội, thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
toàn cầu hóa thì luận điểm đó của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, dân
tộc Việt Nam khi tham gia toàn cầu hóa cần phải nêu cao tinh thần chủ động,
tích cực, khai thác tốt những tiềm năng nội lực đồng thời tranh thủ sự đoàn
kết, giúp đỡ của quốc tế, nhưng không bị động và ỷ lại bên ngoài
- Xem thêm -