LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu, kết
quả trong luận án trung thực có nguồn gốc rõ
ràng, không trùng lặp với các công trình khoa
học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Duy Tiên
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
1.2.
Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài
1.3.
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố
và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2 CƠ SỞ KHOA HỌC HÌNH THÀNH VÀ QUAN NIỆM
TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ BẢO VỆ LỢI ÍCH
QUỐC GIA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1.
Cơ sở khoa học hình thành, phát triển tư tưởng của V.I.Lênin về
bảo vệ lợi ích quốc gia
2.2.
Quan niệm lợi ích quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc gia, tư tưởng
của V.I.Lênin về lợi ích quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc gia
Chương 3 NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CỦA
V.I.LÊNIN VỀ BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA
3.1.
Nội dung cơ bản tư tưởng V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc
gia
3.2.
Giá trị của tư tưởng V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia
Chương 4 ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN
VỀ BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
4.1.
Nắm chắc quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ lợi
ích quốc gia ở Việt nam hiện nay
4.2.
Nắm chắc, xử lý tốt tác động của các nhân tố và sự biến động
của nó để thực thi bảo vệ lợi ích quốc gia ở Việt Nam hiện nay
4.3.
Xác định và thực thi đầy đủ, toàn diện nội dung bảo vệ lợi
ích quốc gia ở Việt Nam hiện nay
4.4.
Phát huy sức mạnh tổng hợp, sử dụng linh hoạt, hiệu quả các
phương thức bảo vệ lợi ích quốc gia ở Việt Nam hiện nay
4.5.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận và thực
tiễn, bảo vệ, bổ sung, phát triển lý luận bảo vệ lợi ích quốc
gia và đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch
về bảo vệ lợi ích quốc gia ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
9
9
17
25
29
29
54
71
71
101
117
117
124
134
141
151
161
164
165
179
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
01
Chủ nghĩa đế quốc
CNĐQ
02
Chủ nghĩa tư bản
CNTB
03
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
04
Giai cấp công nhân
GCCN
05
Giai cấp tư sản
GCTS
06
Lợi ích quốc gia
LIQG
07
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Bảo vệ lợi ích quốc gia là vấn đề có tính quy luật, là nhiệm vụ chiến lược
của mọi quốc gia. Bảo vệ LIQG là vấn đề có tính quy luật đối với mọi loại hình
quốc gia, quốc gia XHCN cũng không ngoại lệ. Do đó, mọi quốc gia đều phải đặc
biệt quan tâm tăng cường sức mạnh tổng hợp để bảo vệ toàn diện, hiệu quả LIQG
của quốc gia mình. Bảo vệ LIQG xã hội chủ nghĩa là tổng thể các hoạt động có tổ
chức, mang tính tích cực, tự giác của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nhằm giữ
gìn, củng cố phát triển LIQG, đấu tranh chống lại mọi hành vi vi phạm LIQG của
các thế lực thù địch trong mọi tình huống nhằm trực tiếp bảo vệ lợi ích sống còn,
lợi ích tồn tại, phát triển của quốc gia XHCN. Bảo vệ LIQG xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ chiến lược được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, quản lý điều
hành tập trung thống nhất của nhà nước XHCN.
Tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc gia là tài sản tinh thần
vô giá để các đảng cộng sản nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng thực thi bảo
vệ hiệu quả lợi ích quốc gia mình. Tuân thủ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
trực tiếp là tư tưởng V.I.Lênin về bảo vệ LIQG là vấn đề có tính nguyên tắc
để bảo vệ toàn diện, hiệu quả lợi ích quốc gia XHCN. V.I.Lênin - lãnh tụ
thiên tài của giai cấp vô sản, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Nga, đã có những
cống hiến to lớn cả ở phương diện lý luận - thực tiễn về bảo vệ LIQG xã hội
chủ nghĩa. Ngay trong những năm đầu tiên sau thắng lợi của Cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, V.I.Lênin đã nhận rõ vị trí, tầm quan
trọng của việc bảo vệ LIQG và những khó khăn, thách thức về kinh tế, chính
trị, an ninh quốc phòng đối với một chính quyền non trẻ trong thực thi nhiệm
vụ này. Từ đó, Người đã sớm nghiên cứu, xác định những nguyên lý, quy
luật, nội dung, chủ thể, phương thức, lực lượng, sức mạnh bảo vệ LIQG và
Người đã cùng đảng Bônsêvích Nga bảo vệ thành công LIQG Nga Xôviết
trước sự chống phá của các đế quốc xâm lược. Lý luận và thực tiễn đó đã và
đang tiếp tục làm cơ sở khoa học để các đảng cộng sản, nhà nước XHCN
nghiên cứu, học tập, tiếp thu vận dụng vào bảo vệ LIQG ở nước mình.
6
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
luôn vận dụng trung thành, sáng tạo tư tưởng V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích quốc
gia vào hoạch định, thực thi bảo vệ lợi ích quốc gia Việt Nam đã đem lại
nhiều thành tựu to lớn. Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ
quan điểm chỉ đạo bảo vệ LIQG:
“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” [24, tr. 153].
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đã đạt được, trong thực hiện bảo vệ
LIQG vẫn còn những hạn chế, thiếu sót, việc nhận thức về bảo vệ LIQG ở một số nơi
có chiều hướng lệch lạc đã và đang tác động trực tiếp đến bảo vệ LIQG của nước ta.
Hiện nay, việc bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam chịu sự tác
động đa chiều của nhiều nhân tố, càng đòi hỏi tiếp tục vấn đề trung thành,
sáng tạo hơn tư tưởng đó của V.I.Lênin. Tình hình thế giới và khu vực sẽ còn
nhiều diễn biến rất phức tạp, tạo ra cả thời cơ và thách thức không nhỏ đối với
việc bảo vệ LIQG - dân tộc. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa
học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp
tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến
lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến
lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao; hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó
khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại; tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
7
“tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.
Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ LIQG tích cực, góp
phần làm sáng tỏ hơn về nội dung lý luận về bảo vệ LIQG ở nước ta hiện nay;
trang bị trình độ lý luận khoa học, cách mạng để GCCN và nhân dân lao động
đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN.
Tất cả các nhân tố đó đang đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới đối
việc bảo vệ LIQG Việt Nam hiện nay, càng đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu vận dụng tốt tư tưởng V.I.Lênin vào bảo vệ LIQG Việt Nam hiện
nay. Với các lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng của V.I.Lênin về bảo
vệ lợi ích quốc gia và định hướng vận dụng ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung và giá trị tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ LIQG, từ
đó xác định phương hướng vận dụng tư tưởng đó của V.I.Lênin vào bảo vệ
LIQG - dân tộc Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài;
Làm rõ cơ sở khoa học hình thành tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ LIQG;
quan niệm LIQG, bảo vệ LIQG; tư tưởng của V.I.Lênin về LIQG, bảo vệ LIQG;
Làm rõ nội dung cơ bản và giá trị tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ LIQG;
Làm rõ định hướng vận dụng tư tưởng đó của V.I.Lênin vào bảo vệ
LIQG - dân tộc Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án
Tư tưởng V.I.Lênin về bảo vệ LIQG và định hướng vận dụng tư tưởng
của V.I.Lênin vào bảo vệ LIQG - dân tộc Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án
Tập trung nghiên cứu những nội dung tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ
LIQG xã hội chủ nghĩa Nga Xôviết và Liên Xô và định hướng vận dụng tư
tưởng đó của V.I.Lênin vào bảo vệ LIQG - dân tộc Việt Nam hiện nay.
8
Thời gian: Tư tưởng của V.I.Lênin từ năm 1895 đến năm 1924, trọng
tâm từ năm 1917 đến năm 1924; định hướng vận dụng vào Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về LIQG, bảo vệ LIQG.
Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn nghiên cứu lý luận, tổ chức lãnh đạo của V.I.Lênin đối với
sự nghiệp bảo vệ LIQG Nga Xôviết và sau đó là Liên Xô (1917 đến 1924);
thực tiễn bảo vệ LIQG - dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh điển, phân tích và tổng
hợp, lịch sử và lôgic, phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Bước đầu đưa ra cơ sở khoa học hình thành tư tưởng của V.I.Lênin về
LIQG, bảo vệ LIQG; quan niệm LIQG, bảo vệ LIQG; tư tưởng của V.I.Lênin
về LIQG, bảo vệ LIQG;
Làm rõ nội dung cơ bản và giá trị tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ LIQG;
Đề xuất định hướng vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào bảo vệ LIQG
- dân tộc Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghia lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học
trong xác định định hướng nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng của
V.I.Lênin vào bảo vệ LIQG - dân tộc Việt Nam hiện nay;
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, các nội dung liên quan ở các học viện, nhà trường hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; 4 chương - (12 tiết); kết luận; danh mục các
công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến luận án; danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về lợi ích, lợi ích quốc gia
Lợi ích quốc gia là vấn đề chiến lược quan trọng của mọi quốc gia, vì
vậy, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này
nhằm tìm hiểu, phân tích và vận dụng vào việc tiếp cận, xử lý vấn đề LIQG
trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể.
Nhóm công trình nghiên cứu về lợi ích.
Trong cuốn sách Xã hội học Mác - Lênin [25], tác giả V.Đôbơrianốp
cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học nội dung của xã hội học là
những quá trình, những hiện tượng xã hội, xét trên quan điểm tác động lẫn
nhau một cách có quy luật, quan hệ lợi ích giữa các lĩnh vực cơ bản của xã
hội. Khoa học này là phương tiện quan trọng trong tay các cơ quan đảng, nhà
nước thực hiện việc quản lý xã hội một cách khoa học. Hệ thống khái niệm,
bản chất trong các công trình của chuyên ngành xã hội học đều quan tâm đến
quần chúng, nhân dân lao động, đến việc đạt tới các hiểu biết một cách khoa
học, đúng đắn về các nhu cầu, quyền lợi, mục đích và cuộc đấu tranh của họ
có một tương lai, hiện thực hoá lợi ích các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Cuốn sách Chiến lược an ninh quốc gia và sự cam kết mở rộng [15] của
Tổng thống Mỹ William.J.Clintơn cho thấy những ý đồ chiến lược của Mỹ
trong phát triển các lợi ích của Mỹ thông qua cam kết mở rộng với hàng loạt
các vấn đề như: duy trì khả năng quốc phòng, chống khủng bố; đấu tranh
bằng việc phát triển, sử dụng các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt; các
năng lực tình báo mạnh nhằm thúc đẩy sự phồn vinh trong nước; tăng sức
cạnh tranh của Mỹ, quan hệ với kinh doanh lao động; tăng cường khả năng
thâm nhập các thị trường nước ngoài bảo đảm lợi ích kinh tế; tăng cường điều
phối kinh tế vĩ mô, thiết lập an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển ở nước
ngoài, đồng thời thúc đẩy dân chủ. Ông đã đưa ra các giải pháp ứng phó với
từng khu vực như châu Âu và lục địa Âu - Á, Đông Á và Thái Bình Dương,
tây bán cầu, Trung Đông, Tây Nam và Nam Á, Châu Phi có lợi cho Mỹ.
10
Tác giả Trần Bá Khoa (2000) với cuốn sách Tìm hiểu những thay đổi
lớn trong chiến lược quân sự của Mỹ [43], cuốn sách đã lập luận rằng lịch sử
nước Mỹ từ ngày dựng nước đến nay mới chỉ hơn hai trăm năm, trong khoảng
thời gian đó, nước Mỹ đi lên từ sự cởi bỏ ách thuộc địa của thực dân Anh
(1776), trải qua nội chiến Bắc Nam (từ năm 1861 đến năm 1865), phá bỏ chế
độ nô lệ, giữ vững sự thống nhất về lợi ích của một đất nước rộng lớn được
thiên nhiên ưu đãi, tạo tiền đề giải phóng sức lao động từ trang trại, xưởng
máy, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá. Đến nay Mỹ đã đặc biệt
quan tâm chiến lược an ninh quốc gia, coi đây là lợi ích số một của Mỹ. Do đó,
chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ thuộc loại chiến lược lớn ở cấp cao nhất.
Trong cuốn sách Hoa Kỳ cam kết mở rộng chiến lược toàn cầu mới của
Mỹ [169], tác giả Lê Bá Thuyên đã khẳng định, Hoa Kỳ là một quốc gia có lực
lượng kinh tế, quân sự mạnh nhất thế giới, giữ vị trí đặc biệt trong nền chính trị
thế giới, ảnh hưởng quan trọng đến các mối quan hệ quốc tế ngày nay. Bước
vào thế kỷ XX, thực hiện học thuyết Mônrô, chính quyền Mỹ tìm cách can
thiệp vào công việc nội bộ của một số nước vùng Trung Mỹ và Cribê nhằm
mục đích vì lợi ích kinh tế, chính trị và ảnh hưởng của Mỹ. Đầu những năm 90,
với sự tan rã của CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, trật tự thế
giới chấm dứt,… chiến lược toàn cầu mới của Mỹ tác động mạnh đến các khu
vực, các quốc gia trên hành tinh, ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển của
tình hình quốc tế hiện nay và trong những thập kỷ tới.
Tác giả Zêm A.Đônôvan (1996) trong công trình Những lợi ích sống
còn của Mỹ [26] đã khẳng định trên những nội dung căn bản như: Những lợi
ích an ninh quốc gia: Trọng tâm trong việc theo đuổi một nền hoà bình, ổn
định thế giới của Mỹ là việc xác định “những lợi ích quốc gia”. Mặc dù một
số LIQG của Mỹ vẫn chưa được xác định hoặc chưa được xác định một cách
rõ ràng, nhưng kể từ năm 1949 nhìn chung những lợi ích này có liên quan đến
việc ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, duy trì trật tự thế giới, việc tôn trọng
những cam kết với các nước đồng minh. Tuy nhiên, sự liên quan trực tiếp của
những lợi ích này với nền an ninh, phúc lợi hay những mục tiêu mà xã hội Mỹ
theo đuổi không phải lúc nào cũng rõ ràng.
11
Tác giả V.A.Vassev (1998) có cuốn sách Lợi ích xã hội: sự thống nhất
và tính đa dạng [175] đã cho rằng: Lợi ích xã hội có thể được xem như là
nguyên nhân kích thích bên trong, là hoạt động định hướng của chủ thể (cá
nhân, nhóm xã hội, giai cấp nhà nước) để đáp ứng nhu cầu của chủ thể đó.
Bản chất của lợi ích xã hội có sự cần thiết phải thực hiện nhu cầu đó thông
qua việc chủ thể tham gia khách quan vào các quan hệ xã hội. Tác giả phân
tích tính biện chứng giữa lợi ích và nhu cầu, tính đa dạng nhu cầu của con
người, thông qua nhu cầu thấy được lợi ích của con người. Qua đó các tác giả
đã khái quát phân tích các giải pháp để giải quyết hài hoà lợi ích, tạo nên
động lực phát triển xã hội, hoàn thiện nhân cách con người dưới CNXH.
Trong cuốn sách Phân tích về sự chuyển đổi kinh tế và chế độ phân
phối lợi ích của Nga [12], tác giả Ông Tuần Bình và Cao Tử Bình (2007) đã
phân tích sự chuyển đổi kinh tế bắt đầu từ những năm 1990 của thế kỷ XX đã
có ảnh hưởng sâu xa đến việc chi phối tài nguyên xã hội, phân phối đến lợi
ích của Nga. Chuyển đổi kinh tế không chỉ làm cho kết cấu lợi ích có sự thay
đổi về chất, mà còn dẫn đến một loạt các vấn đề xã hội, mà tất cả các vấn đề
đó đều có liên quan nội tại với cơ chế phân phối của cải mới được xuất hiện
trong quá trình chuyển đổi mô hình kết cấu chế độ Nga. Kinh nghiệm chuyển
đổi trước kia cũng tỏ rõ, kết quả phát triển của sự chuyển đổi phải bị ràng
buộc bởi các lực lượng xã hội tiến hành để phân phối lợi ích.
Nhóm công trình nghiên cứu về lợi ích quốc gia.
Công trình nghiên cứu “Xác định lại lợi ích quốc gia” đăng trên Tạp
chí Quan hệ Quốc tế tháng 11 năm 1999 [160] đã đặt ra câu hỏi: Mỹ phải xác
định lại LIQG của mình từ đâu và dừng lại ở đâu? Sau khi Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, những mối quan tâm của Mỹ ở nước ngoài nên dừng lại ở đâu?
“lợi ích quốc gia” là một khái niệm rất khó giải thích, nó được dùng để mô tả
cũng như quyết định chính sách đối ngoại. Vì vậy, người Mỹ rất khó có thể
xác định được LIQG của họ, kết quả lợi ích thương mại thấp hơn tầm của
LIQG, những lợi ích sắc tộc phi quốc gia và xuyên quốc gia đã trở nên chi
phối chính sách đối ngoại.
12
Trong Tạp chí Đông Nam Á, số 3 năm 2007 có công trình nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Thị Lệ “Đông Nam Á trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ
sau chiến tranh lạnh” [126]. Tác giả cho rằng: trong cục diện cạnh tranh chiến
lược gay gắt giữa các nước lớn, với tư cách là siêu cường duy nhất sau chiến
tranh lạnh, để bảo vệ lợi ích chiến lược và gia tăng sự hiện diện của mình ở châu
Á - Thái Bình Dương, Mỹ trở lại Đông Nam Á có những lý do. Tác giả nêu rõ:
Sau chiến tranh lạnh, Mỹ đã đề xuất, triển khai nhiều chiến lược an ninh quốc
gia nhằm bảo vệ LIQG trước mắt cũng như lâu dài cả về kinh tế, chính trị, an
ninh. Lợi ích lâu dài, xuyên suốt của Mỹ vẫn là lãnh đạo toàn thế giới, duy trì vị
trí siêu cường số một trong một thế giới có nhiều trung tâm quyền lực.
Trong Tạp chí “Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới”, số 12 (128)
năm (2006) của Võ Hải Minh đã có công trình nghiên cứu về “Lợi ích quốc
gia - nền tảng trong quá trình hoạch định chiến lược an ninh quốc gia Hoa
Kỳ” [36], tác giả đã làm sâu sắc quan niệm về lợi ích của Hoa Kỳ, mục tiêu
cơ bản của bất kỳ một chiến lược an ninh quốc gia. Dựa trên những vấn đề
theo thứ tự ưu tiên Hoa Kỳ sẽ có lợi ích cốt lõi, sống còn bảo vệ toàn bộ lãnh
thổ khỏi mọi cuộc tấn công hạt nhân, sinh, hoá học (NBC) do lực lượng
khủng bố gây ra, lợi ích rất quan trọng trong duy trì mối quan hệ hoà bình,
hợp tác bảo vệ hiệu quả với các đồng minh lớn ở lục địa Á - Âu. Cùng với đó,
Hoa Kỳ cũng tiếp tục duy trì, củng cố an ninh nội địa liên quan đến lợi ích
sống còn, trong đó có bốn nguy cơ được Hoa Kỳ coi trọng.
Trong Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 289 (tháng 11
năm 2009) có công trình nghiên cứu “Lợi ích quốc gia của Trung Quốc trong
quan hệ với ASEAN” [159], tác giả cho rằng, từ thập kỷ 90 thế kỷ 20 đến
nay, Trung Quốc từng bước áp dụng chiến lược ngoại giao khu vực chủ động
tích cực, tham gia, thúc đẩy hợp tác khu vực Đông Á. Lợi ích cốt lõi của
Trung Quốc mang tính ổn định về chính trị xây dựng toàn diện xã hội khá giả,
sự ổn định cục diện lâu dài của chính trị, đời sống xã hội. Phát triển kinh tế sẽ
tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện toàn diện mục tiêu chiến lược quốc gia và
LIQG của Trung Quốc.
13
Trong Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5 (141) năm 2013, tác giả
Nguyễn Phương có bài viết “Bàn về lợi ích quốc gia và các quan hệ của
Trung Quốc với các nước lớn, các nước láng giềng” [147], đã cho rằng: LIQG
là một khái niệm cốt lõi trong quan hệ quốc tế. Học giả Diêm Học Thông
quan niệm: LIQG là tất cả những thứ thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần cho
toàn thể nhân dân của quốc gia, dân tộc. Hay nói cách khác, LIQG chủ yếu
bao gồm lợi ích an ninh, là lợi ích căn bản (chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ không bị xâm phạm, uy hiếp), lợi ích phát triển (duy trì ổn định về kinh tế,
phát triển bền vững) và sự uy nghiêm danh tiếng của quốc gia.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về lợi ích,
bảo vệ lợi ích quốc gia
Nhóm công trình nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về lợi ích.
Trong cuốn sách Nguyên lý của chủ nghĩa Lênin [155], tác giả
J.V.Stalin đặt câu hỏi: chủ nghĩa Lênin là gì? Và câu hỏi đó được tác giả trình
bày khá sâu sắc: chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác trong thời kỳ đế quốc và
cách mạng vô sản. Mặc dù không sử dụng trực tiếp thành ngữ lợi ích nhưng
qua các luận điểm đã phân tích, tác giả đã đề cập đến tư tưởng của V.I.Lênin
đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, thông qua chính quyền Xôviết
thời kỳ đầu của cuộc cách mạng XHCN.
Cuốn sách Bàn về chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa quốc gia [45], tác giả
Lưu Thiếu Kỳ đã trình bày về nhận xét, xử lý vấn đề dân tộc của chủ nghĩa
dân tộc tư sản, đó là lối nhận xét, xử lý vấn đề dân tộc theo cương lĩnh, chính
sách của GGTS. Lối nhận xét đó đã căn cứ theo cơ sở GCTS, xuất phát từ lợi
ích hẹp hòi của GGTS, rõ ràng, lợi ích của chủ nghĩa ái quốc chân chính của
đại chúng nhân dân các nước và lợi ích của chủ nghĩa quốc tế vô sản không
có mâu thuẫn, mà lại kết hợp chặt chẽ với nhau. Như vậy, theo V.I.Lênin chủ
nghĩa quốc tế và chủ nghĩa quốc gia phải là sự thống nhất với nhau, quan hệ
chặt chẽ với nhau bằng phối hợp lợi ích.
Tác giả A.Xpiêckin (1985) trong cuốn sách V.I.Lênin bàn về nhà nước
và nền dân chủ [178] đã phân tích các dạng lịch sử, những chế độ chính trị;
14
bản chất của nền dân chủ tư sản và nền dân chủ XHCN; bạo lực cách mạng,
sự tiêu vong của nhà nước và nền dân chủ. Tác giả đã làm sâu sắc thêm những
luận điểm của V.I.Lênin về bản chất dân chủ XHCN là nền dân chủ thực sự
của dân, do dân, vì dân, “nền dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Đồng thời
cuốn sách cũng chỉ rõ về giá trị của lợi ích tinh thần cao nhất đó là xây dựng
nền dân chủ thực sự của dân, do dân, vì dân. Muốn có nền dân chủ thực sự phải
tiến hành xây dựng CNXH đem lại lợi ích thiết thực cho chính bản thân họ.
Nhóm công trình nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ lợi ích
quốc gia.
Trong cuốn sách V.I.Lênin trong những ngày Tháng Mười [14], tác giả
N.Cơrupscaia (1958) đã trình bày sâu sắc về thời cơ cách mạng, về khởi
nghĩa, chuẩn bị khởi nghĩa, thời cơ khởi nghĩa, về lực lượng, sức mạnh vũ
trang khởi nghĩa - một hình thức đặc biệt của đấu tranh chính trị, phục tùng
những quy luật đặc biệt V.I.Lênin ra lời kêu gọi để cuộc khởi nghĩa giành
thắng lợi hoàn toàn, khi đã giành được chính quyền ngay lập tức phải thành
lập một chính phủ công nông nhằm giành lợi ích, bảo vệ lợi ích cho bản thân
các giai cấp trong xã hội. Như vậy, tác giả đã cho ta thấy ngay từ khi mới
giành được chính quyền, V.I.Lênin đã rất quan tâm đến giải quyết bảo vệ
LIQG, sử dụng chính quyền phục vụ lợi ích của nhân dân.
Tác giả N.P.Cudơmin (1960) trong cuốn sách V.I.Lênin lãnh đạo phòng
thủ đất nước Xôviết [16] đã khẳng định: lợi dụng tình hình lúc chính quyền
Xôviết còn non trẻ, đang gặp những khó khăn, nhân dân trong nước đói khổ,
mệt mỏi sau bao năm đấu tranh giành lợi ích cho chính mình, bọn phản cách
mạng đại diện là Cônsác, Đêninkin, Cóocnilốp, Vơranghen, Iuđêních, Calêđin
và Đồng minh đã chống phá chính quyền Xôviết. Dưới sự lãnh đạo của
V.I.Lênin đã nhận định đúng tình hình đó đã xác định muốn đánh thắng kẻ
thù hung ác, điều kiện tiên quyết là phải có trang bị, huấn luyện tinh xảo,
củng cố hậu phương vững chắc, xây dựng một quân đội công nông chính quy
mạnh mẽ. Người đã chăm sóc giáo dục quân đội để quân đội trở thành công
cụ bạo lực, chiến thắng rực rỡ đó là sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn
dân bảo vệ LIQG.
15
Tác giả L.I.Bơrêgiơnhép (1960) với cuốn sách Sự nghiệp của V.I.Lênin
đang sống và thắng lợi [11]. Tác giả khẳng định: V.I.Lênin - nhà tư tưởng vĩ
đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của GCCN, nhân dân lao
động toàn thế giới. Cuốn sách có ý nghĩa quan trọng về phương pháp luận
biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, có tính chất nền tảng, cơ
bản trong cuộc cách mạng của GCCN trên toàn thế giới, nhằm đấu tranh
giành và giữ chính quyền, là “cẩm nang” về học thuyết bảo vệ và tự bảo vệ
lợi ích của GCCN chống CNTB.
Trong cuốn sách Nguyên lí xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin [157], tác
giả J.V.Stalin đã phân tích những đặc điểm, nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới
của V.I.Lênin, Đảng và GCCN trong hệ thống chuyên chính vô sản. Phân tích sự
ra đời của Đảng Cộng sản là đại biểu lợi ích của GCCN Nga quyết định đến sự
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, tiến hành chiến tranh vệ quốc, xây
dựng CNXH hiện thực. Tác giả đã nhấn mạnh sự kế thừa, phát triển toàn diện
xây dựng đảng của GCCN từ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trên những
nguyên lý bảo vệ thành quả cách mạng, lợi ích của giai cấp vô sản.
Trong cuốn sách Những vấn đề chủ nghĩa Lênin của J.V.Stalin [156],
tác giả J.V.Stalin đã làm rõ những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
như: Định nghĩa chủ nghĩa Lênin, điểm chủ yếu trong chủ nghĩa Lênin; vấn
đề cách mạng; cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; Đảng và GCCN;
tác giả đã khái quát những nguyên lý cơ bản được vận dụng vào thực hiện
trong thời kỳ xây dựng CNXH ở Liên Xô, đồng thời chỉ ra động lực thúc đẩy
vai trò của các giai cấp như công nhân, nông dân tích cực tham gia vào các
hoạt động xã hội chính là kết hợp các lợi ích của các giai cấp trong xã hội, tạo
ra động lực mới xây dựng thành công CNXH ở Nga.
Tác giả V.A.Cacpinxki (1960) viết cuốn Hồi ký về V.I.Lênin [13] đã
tổng hợp 10 hồi ký về V.I.Lênin với những sự kiện chính trị lớn nhất như:
điện khí hoá, quản lý công nghiệp, chính sách lương thực Cách mạng Tháng
Mười ở Liên Xô, công cuộc bảo vệ Nhà nước Xôviết được tác giả hệ thống lôgic
với vai trò, tầm quan trọng xây dựng đất nước, những kết quả lớn mà Liên Xô đã
16
giành được trong những năm V.I.Lênin lãnh đạo mang lại toàn bộ lợi ích lớn lao.
Đồng thời, tác giả đã khẳng định công cuộc xây dựng CNXH ở Nga có sức mạnh
to lớn từ phía các giai cấp, tầng lớp trong xã hội mà Đảng Cộng sản Nga đóng vai
trò quyết định, đại diện cho lợi ích các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Tác giả J.V.Stalin (1964) trong cuốn sách Những cơ sở của chủ nghĩa
Lênin [158] đã trình bày những cốt lõi quan điểm của V.I.Lênin về nguồn gốc
lịch sử, phương pháp, lý luận, chuyên chính vô sản, vấn đề lợi ích của nông
dân, lợi ích dân tộc, về đảng của GCCN, tác phong công tác của V.I.Lênin…
Đặc biệt cuốn sách đã làm rõ cho chúng ta thấy tư tưởng của V.I.Lênin về vai
trò chuyên chính vô sản là công cụ triệt để của giai cấp vô sản để chuyên
chính, đè bẹp sự phản kháng của GGTS, bảo vệ lợi ích giai cấp mình. Tác giả
cũng đã trình bày về thực chất của chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác được
phát triển thêm một nước nữa trong thời đại CNĐQ.
Nhóm tác giả I.A.Đôrôsép, M.F.Makarava, A.V.Tusunốp (1976) viết
cuốn sách Những vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội [27] đã khẳng định: mối quan hệ lợi ích kinh tế và lợi ích chính
trị của quá trình xây dựng CNXH. Bước quá độ này là một quá trình cách
mạng sâu sắc, trên những quy mô chưa từng có trong lịch sử, bảo đảm lợi ích
đầy đủ cho nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
Những kẻ thù của chủ nghĩa Lênin, dưới mọi màu sắc: từ các đại biểu của tư
tưởng tư sản đến các nhà tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lương,
chủ nghĩa xét lại,… (đối lập về lợi ích) đã tìm mọi cách chống lại lý luận của
V.I.Lênin về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH với các loại lý luận khác
nhau nhằm xoá nhoà lợi ích của GCCN, nhân dân lao động…
Tác giả I.Lốcchiép (1985) viết cuốn sách V.I.Lênin bàn về Nhà nước xã
hội chủ nghĩa [127]. Đây là tập hợp các công trình nghiên cứu của các học giả
Xôviết về lý luận Nhà nước XHCN của V.I.Lênin… Các tác giả đã làm sâu
sắc về vai trò của Nhà nước trong xây dựng CNXH, bản chất tốt đẹp của
chuyên chính vô sản. Trong đó, nền dân chủ XHCN phục vụ đa số quần
chúng nhân dân lao động là lợi ích căn bản nhằm chủ động thực hiện kế
17
hoạch của Nhà nước, là nhân tố chính trị, đồng thời cũng là lợi ích chính trị
cao nhất của chế độ xã hội mới.
Trong cuốn sách Phong cách làm việc kiểu V.I.Lênin trong công tác và
sự lãnh đạo của Đảng [137], tác giả M.M.Vaxerơ đề cập đến Đảng Cộng sản
Liên Xô là người quyết định mọi thắng lợi của cách mạng là đại biểu lợi ích
cho GCCN có vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng CNXH. Tác phẩm
trình bày một cách khoa học, tấm gương sáng của Người về phong cách làm
việc, là cơ sở xây dựng bộ máy chính quyền Xôviết phát triển thực sự vững
chắc, tạo tiền đề cho việc xây dựng thành công CNXH, trau dồi đạo đức cách
mạng cho người cán bộ trong thời kỳ mới.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về lợi ích
Ở Việt Nam, nhiều công trình liên quan đến vấn đề lợi ích được công
bố, nổi bật như:
Trong công trình Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam [176], tác giả
Đặng Nghiêm Vạn đã khẳng định: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, trải qua
công cuộc chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược đến năm 1975 đất
nước được độc lập, các tộc người được giải phóng, lợi ích của toàn dân tộc
căn bản được giải quyết. Ở đây phát huy nội lực của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, của các tộc người, bảo vệ chính mình và quốc gia được các dân tộc
đặt ra là yêu cầu hàng đầu - tác giả đã khẳng định.
Tác giả Nguyễn Linh Khiếu (2009) trong cuốn sách Góp phần nghiên
cứu quan hệ lợi ích [42] đã bàn về quan hệ giữa các loại lợi ích và vai trò của
nó đối với sự phát triển xã hội. Ông cho rằng: Bản chất của lợi ích là phản ánh
quan hệ xã hội khách quan, các quan hệ xã hội là cơ sở của lợi ích. Lợi ích
gắn bó với hoạt động của con người với những nhu cầu khác nhau, tương ứng
với những nhu cầu ấy sẽ xuất hiện từng loại lợi ích: như lợi ích chung, lợi ích
riêng, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần,… các loại lợi ích đó luôn quan hệ biện
chứng với nhau, song vai trò của nó không ngang bằng nhau. Nhận thức đúng
18
đắn về lợi ích, quan hệ lợi ích là cơ sở để bảo đảm vấn đề lợi ích của từng con
người. Cuốn sách làm rõ thêm quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước ta
về phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Nguyễn Linh Khiếu (2009) trong công trình nghiên cứu Về
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội [41] đã khẳng định: động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội chính là nhu cầu và lợi ích của con người. Nhu
cầu sau khi nảy sinh trở thành động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người
hành động nhằm tìm phương tiện thoả mãn nhu cầu và cái thoả mãn ấy, đối
với chủ thể hành động, là lợi ích. Tuy nhiên, thực hiện lợi ích cá nhân phải
phù hợp với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội và cao hơn nữa là lợi ích dân tộc,
LIQG. Một số lợi ích chính trị, tinh thần được coi là quan trọng nhất như công
bằng xã hội, dân chủ, môi trường, tâm lý xã hội, niềm tin khoa học và văn hoá
với tính cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tác giả Đặng Quang Định (2009) trong cuốn sách Vai trò của lợi ích
đối với sự phát triển xã hội [28] đã nêu rõ: nước ta đang ở trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong xã
hội hiện nay, bên cạnh các giai cấp, các tầng lớp cơ bản như: GCCN, giai cấp
nông dân, đội ngũ trí thức, đã xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Mỗi giai
cấp, tầng lớp trong xã hội lại có hệ thống lợi ích khác nhau, do vậy quan hệ
lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội hiện nay rất phức tạp. Điều đó
tác động không nhỏ tới việc ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất nước
cũng như thực hiện những mục tiêu chung bảo vệ LIQG.
Tác giả Lê Hữu Tầng (2010) viết cuốn sách Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, vấn đề nguồn gốc và động lực [162]. Ông trình bày khá sâu sắc về vấn
đề lợi ích. Theo ông, Lợi ích là cái đáp ứng lại nhu cầu. Vì lẽ đó chỉ có nghĩa là
lợi ích khi đặt trong mối quan hệ với nhu cầu… Xét về bản chất, lợi ích chính là
một quan hệ - quan hệ giữa sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài với chủ thể,
còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng nhu cầu.
Tác giả Hồ Bá Thâm (2011) trong cuốn sách Bàn về mâu thuẫn xung
đột lợi ích hiện nay [163] đã nêu lên mâu thuẫn, xung đột lợi ích đang là một thực
19
trạng nổi lên ở nước ta. Cuốn sách đã đề cập một số vấn đề lý luận, thực tiễn đang
thu hút sự quan tâm của nhiều giới nghiên cứu lý luận ở nước ta hiện nay, đó là
phương pháp phân tích xã hội từ góc độ các lợi ích, xung đột lợi ích. Cách phân
tích này giúp chúng ta nhận ra sự vận động, biến đổi của xã hội một cách đa dạng
hơn, cụ thể hơn. Điều đó giúp cho việc đề xuất các chủ trương, chính sách nhạy
bén, phù hợp hơn trong quản lý xã hội trong cả dài hạn và ngắn hạn.
Tác giả Phạm Văn Đức (2009) trong công trình nghiên cứu về Mối
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay [30] đã khẳng định: lợi ích cá nhân, đạo đức xã hội là
hai yếu tố không phải là hoàn toàn đối nghịch nhau, càng không phải là
khuyến khích cho lợi ích cá nhân mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho cá
nhân phát triển toàn diện. Nhưng chỉ chú trọng theo đuổi lợi ích cá nhân sẽ
tác động tiêu cực đến đạo đức truyền thống, bất chấp luân thường đạo lý,
chạy theo lối sống xa hoa, xuất hiện đạo đức giả. Tác giả cũng đã đưa ra
những giải pháp ngăn chặn những yếu tố tiêu cực nhằm phát triển xã hội
lành mạnh thông qua lợi ích cá nhân.
Tác giả Phạm Văn Đức (2011) trong cuốn sách Vấn đề kết hợp các loại
lợi ích trong công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước ở Việt Nam [31] đã
nhấn mạnh: Trong quá trình chúng ta càng ngày càng nhận ra vai trò to lớn
của con người trong xã hội nói chung, sự phát triển kinh tế nói riêng. Song,
vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác, phát huy tốt các tiềm năng của con
người tức là kết hợp các loại lợi ích. Đây là mẫu số chung nhằm thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu mà con người mong muốn? Câu
hỏi đó, ở một mức độ nhất định, đã và đang tìm được câu trả lời, đồng thời
vẫn còn đang tiếp tục cần tìm lời giải đáp mới.
Tác giả Vũ Thanh Sơn (2009) trong công trình nghiên cứu Phân phối
lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [153]
đã chỉ rõ: trong hệ thống lợi ích, lợi ích kinh tế sẽ là lợi ích tiên quyết chi phối
các lợi ích khác còn lại trong xã hội. Việc bảo đảm thực hành lợi ích kinh tế là
động lực kích thích hoạt động của con người mạnh mẽ nhất, chúng lay động
20
đời sống của nhân dân. Để khắc phục những bất cập trong phân phối lợi ích
kinh tế hiện nay, cần hoàn thiện các công cụ điều tiết quan hệ lợi ích tương
đương với cơ chế thị trường.
Tác giả Lê Thái Dương (2016) trong cuốn sách Nhóm lợi ích lý thuyết
và thực tiễn [18] cho rằng: ở Việt Nam, do đặc thù lịch sử, vấn đề nhóm lợi
ích, đặc biệt là nhóm lợi ích tư, hầu như ít được nhắc đến, mặc dù ai cũng biết
đến sự tồn tại, ảnh hưởng mạnh mẽ của nó trên thực tế. Trong xu thế trở mình
mạnh mẽ, người ta bắt đầu thấy bóng dáng, ảnh hưởng của các nhóm lợi ích.
Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày về một số lý luận cơ bản về nhóm lợi
ích trong nền kinh tế thị trường, phương pháp phân loại, đánh giá ảnh hưởng
của nhóm lợi ích tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, trong
chương ba, tác giả đã đưa ra dự báo ảnh hưởng của nhóm lợi ích tới sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
Tác giả Đặng Đình Quý, Nguyễn Thị Lan Anh (đồng chủ biên) (2017),
có cuốn sách: Giải quyết hòa bình, tranh chấp biên giới, lãnh thổ: Lý thuyết
và thực tiễn [150]. Nội dung cuốn sách thể hiện sự nghiên cứu chuyên sâu,
tổng quan các nguyên tắc hòa bình, giải quyết tranh chấp, hệ thống các biện
pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, đồng thời có lồng ghép thực tiễn quốc tế
về sử dụng các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp; cơ chế giải quyết
tranh chấp, đồng thời có lồng ghép thực tiễn quốc tế về sử dụng các biện pháp
hòa bình giải quyết tranh chấp nổi tiếng trong lịch sử. Ngoài ra cuốn sách cũng
đã đề cấp đến khả năng áp dụng các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp ở
Biển Đông biệt là các tranh chấp liên quan biên giới, lãnh thổ và biển rất đa
dạng, trong đó đàm phán vẫn là biện pháp hết sức quan trọng.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lợi ích quốc gia, bảo vệ lợi ích
quốc gia
Tác giả Ngô Tuấn Nghĩa (2013) trong cuốn sách Bảo đảm quan hệ lợi
ích hài hoà về trí tuệ sở hữu trí tuệ trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam [143] đã đánh giá sâu sắc về quá trình hội nhập về những quy định quốc
21
tế cũng như các văn bản song phương được ký kết mà Việt Nam tham gia, lợi
ích thuộc phạm vi sở hữu trí tuệ luôn được các đối tác xác định là trụ cột quan
trọng hàng đầu cần được sự cam kết bảo hộ nghiêm ngặt. Thực thi tuân thủ
những cam kết đó đang khiến cho cơ hội có được các tài sản trí tuệ từ thị
trường quốc tế đối với nước ta ngày một rộng mở nhưng cũng thêm phức tạp.
Tình thế đó đang đặt Việt Nam đứng trước mâu thuẫn. Cơ sở khoa học cho
việc giải quyết mâu thuẫn này ở Việt Nam hiện còn nhiều điểm chưa rõ cả về
lý luận, thực tiễn. Thậm chí, có những khiếu kiện về quyền sở hữu trí tuệ ngay
trên lãnh thổ Việt Nam, gây ra nhiều hệ luỵ của tiến trình hội nhập quốc tế mà
trong đó bảo đảm quan hệ lợi ích hài hoà về trí tuệ, sở hữu trí tuệ là một trong
những lợi ích của Việt Nam hội nhập.
Trong nội dung Luận án Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [170], tác giả Lê Xuân Thuỷ cho
rằng: Lợi ích luôn đóng vai trò là động lực phát triển của con người, xã hội. Lợi
ích gắn liền hoạt động của con người, là động lực thúc đẩy hoạt động sáng tạo
của cá nhân, cộng đồng giai cấp, dân tộc. Công nhân trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của GCCN Việt Nam, là lực lượng lao
động rất quan trọng góp phần sản xuất ra của cải, vật chất làm giàu cho đất
nước, giải quyết những vấn đề xã hội. Chính vì vậy, lợi ích và quá trình thực
hiện lợi ích của công nhân trong loại hình doanh nghiệp này nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp, cần phải được chú ý, quan tâm giải quyết kịp thời thoả đáng.
Tác giả Đặng Duy Thìn (2012) trong công trình nghiên cứu Giữ vững
độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [171] đã khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giành và giữ độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó nhấn mạnh:
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - đường lối chính trị cơ bản của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiếp tục công cuộc dựng
nước và giữ nước vĩ đại, từ đó rút ra những vấn đề thực tiễn giành, giữ độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Xem thêm -