Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Tổ chức dạy lịch sử đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân thanh hóa cho...

Tài liệu Tổ chức dạy lịch sử đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân thanh hóa cho học sinh thpt qua tiết dạy lịch sử địa ph

.PDF
45
159
71

Mô tả:

MỤC LỤC Trang 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài.............................................................................. 01 1.2 Mục đích nghiên cứu……………………………………………… 01 1.3 Đối tượng nghiên cứu…………………………………………… 02 1.4 Phương pháp nghiên cứu………………………………………….. 01 1.5 Điểm mới của đề tài……………………………………………… 02 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề ………………………………………… 02 2.2. Thực trạng của vấn đề.......................................................................02 2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện ...................................................... 03 2.3.1.Lập kế hoach…………………………………………. …. 03 2.3.2. Xây dựng các chủ đề dạy học về nội dung lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hoá…………… 05 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….19 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận................................................................................................20 2. Kiến nghị............................................................................................. 20 - Tài liệu tham khảo……………………………………………….21 - - Danh mục các đề tài SKKN đã được Hội đồng SKKN Ngành đánh giá đạt từ loại C trở lên………………………………………… 22 Phụ lục………………………………………………………… 23 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 . Lý do chọn đề tài Lịch sử được xem là thầy dạy của cuộc sống. Như vậy từ những sự kiện của quá khứ chúng ta tìm thấy những giá trị vô giá trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Đó là những bài học về truyền thống dân tộc, về những giá trị văn hóa nhân văn mà hiếm có môn học nào có được. Tất nhiên để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, bộ môn lịch sử trong trường THPT cần được giảng dạy theo những quy tắc, đảm bảo tính đặc thù của môn học, nhưng cũng cần đa dạng về phương pháp, phương tiện dạy học nhằm tối ưu hóa hiệu quả của bài học lịch sử. Bên cạnh đó cần phải sử dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau trong cả bài nội khóa và ngoại khóa, trong cả khi giảng dạy lịch sử dân tộc cũng như dạy tiết lịch sử địa phương trong chương trình. Chúng ta cũng biết rằng lòng yêu nước, ý thức về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước phần lớn đều bắt nguồn từ những tình cảm của từng con người đối với gia đình, làng quê - nơi chôn rau cắt rốn của mình và cũng bắt nguồn từ một không gian nhỏ hẹp của cộng đồng địa phương, từ đó mà phát triển thành tình yêu quê hương đất nước. Như vậy giảng dạy lịch sử địa phương trong chương trình lịch sử trung học phổ thông là hết sức quan trọng. Mỗi người con của địa phương lớn lên có nhận thức để hiểu rõ, tự hào về địa phương mình, từ đó sẽ cố gắng phấn đấu trở thành người con có ích, xứng đáng với truyền thống của quê hương dân tộc. Để khắc sâu hiểu biết cho học sinh về những trang sử vẻ vang của địa phương mình thì đòi hỏi người giáo viên khi dạy tiết lịch sử địa phương trong chương trình THPT phải có sự chuẩn bị, lựa chọn nội dung để giảng dạy trên cơ sở phân phối chương trình của bộ môn. Chính vì thế tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tổ chức dạy lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hóa cho học sinh THPT qua tiết học lịch sử địa phương”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Đề tài: “Tổ chức dạy lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hóa cho học sinh THPT qua tiết học lịch sử địa phương” nhằm: - Nâng cao chất lượng dạy tiết LSĐP trong chương trình. - Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, thái độ biết trân trọng các giá trị lịch sử, văn hoá mà thế hệ cha anh để lại, đồng thời xác định rõ động cơ, lý tưởng sống đúng đắn và trách nhiệm của thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước hiện nay. - Củng cố lòng tin của thế hệ trẻ vào sự thắng lợi của cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: + Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. + Truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hóa qua các thời kỳ lịch sử. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết - PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin - PP thống kê, xử lý số liệu. - Phương pháp tổng hợp tài liệu - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 1 1.5. Điểm mới của đề tài. - Các đề tài trước tác giả cũng đề cập tới lịch sử địa phương nhưng thiên về nghiên cứu một nghành cụ thể, hoặc một tiết học cụ thể về di tích của địa phương. - Đề tài lần này nghiên cứu rộng hơn và thiên về lịch sử Đảng bộ cũng như sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa và truyền thống cách mạng của nhân dân tỉnh nhà qua các thời kỳ lịch sử. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các môn nói chung, phương pháp dạy học lịch sử nói riêng đã được đặt ra và thực hiện một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ : "Phương pháo giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Trong một thập niên trở lại đây, nhiều quan niệm phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường THPT như : dạy học nêu vấn đề, dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học theo dự án, dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin,... Tất cả đều nhằm mục đích tích cực hóa hoạt động của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Trong một giờ học lịch sử địa phương, để phát huy tính tích cực của học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp, phương tiện dạy học khác nhau. Bên cạnh đó, cần thiết phải lựa chọn nội dung phù hợp gây hứng thú cho học sinh. Mỗi sự kiện LSĐP đều gắn liền với tên đất, tên người cụ thể, gần gũi với cuộc sống, qua đó mà gợi ở các em niềm tự hào, lòng biết ơn, góp phần bồi dưỡng tình yêu quê hương, đây cũng là cội nguồn của lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực người học, nâng cao nhận thức cho học sinh về lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc, trên cở sở đó bước đầu rèn luyện bản lĩnh và lập trường cách mạng cho học thế hệ trẻ, đồng thời giúp học sinh nâng cao hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sống có văn hóa, nghĩa tình. 2.2. Cơ sở thực tiễn. Môn Lịch sử có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc. Tự hào với những thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác định vị trí trong hiện tại, có thái độ đúng đắn với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Giờ học LSĐP có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp, bổ sung những kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội của quê hương trên mọi lĩnh vực. Tiếc rằng, trong nhiều năm qua những tiết học về LSĐP chưa được chú trọng, mặc dù trong chương trình dạy bộ môn lịch sử ở bậc THPT không thể thiếu mảng kiến thức này. Đây không chỉ là thiếu sót của người dạy mà là một thiệt thòi cho học sinh khi muốn tìm hiểu về lịch sử của quê hương mình. Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có bề dày lịch sử lâu đời và oanh liệt, gắn với lịch sử chung của dân tộc – một vùng đất chứa đựng trong lòng nó tính đặc sắc của nền văn hóa vật thể và phi vật thể. Đây chính là nguồn tư liệu hết sức phong phú về LSĐP. Vì lẽ đó, không lý do nào để chúng ta – những người dạy sử lại bỏ trống mảng này. Tuy nhiên, với nguồn sử liệu về địa phương hết sức phong phú như vậy thì đòi hỏi số tiết 2 trong phân phối chương trình cũng phải tương xứng, bởi vì chúng ta có rất nhiều điều cần truyền đạt và các em học sinh cũng có nhu cầu cần tìm hiểu. Trong chương trình lịch sử THPT, số tiết dành cho tìm hiểu LSĐP không nhiều (2 tiết/khối/năm) nếu không muốn nói là khiêm tốn. Có lẽ vì thế mà nhiều giáo viên chưa chú trọng, đầu tư vào các tiết dạy lịch sử địa phương. Mặt khác ta cũng dễ dàng nhận thấy một điều: Giáo trình biên soạn phục vụ cho việc dạy học LSĐP còn rất hạn chế, cho nên không tránh khỏi những khó khăn cho giáo viên trong việc sưu tầm và lựa chọn nội dung dạy học. Vấn đề đặt ra là mỗi giáo viên phải lựa chọn, xác định cho mình những nội dung và cách thức dạy học phù hợp. Có thể nói đây là phần chương trình có khả năng dung nạp lớn nhất mọi hình thức học tập (trên lớp, ở nhà, nội khóa, ngoại khóa, điền dã…) cũng là phần có điều kiện thuận lợi nhất trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với phương pháp dạy học tích cực. Chính vì thế giáo viên không nên dạy một cách qua loa, đại khái hoặc bỏ qua các tiết dạy LSĐP. Mà ngược lại cần thiết phải cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản để trang bị cho các em vốn hiểu biết nhất định về LSĐP, từ đó giúp các em hiểu sâu hơn về lịch sử dân tộc. Tổ chức giáo dục, tuyên truyền rộng rãi trong học sinh về lịch sử hào hùng của dân tộc, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá; bồi dưỡng và nâng cao lòng tự hào về truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta; khẳng định những thành tựu kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, quốc phòng- an ninh mà nhân ta đã đạt được, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng là vô cùng to lớn. 2.3. Giải pháp thực hiện đề tài: 2.3.1. Lập kế hoach KẾ HOẠCH Tổ chức dạy lịch sử Đảng bộ, truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hoá trong giáo dục lịch sử địa phương tại trường THPT Đào Duy Từ Căn cứ vào công văn số 6155/UBND -VX ngày 01/6/2018 của UBND tỉnh về việc thực hiện Kế hoạch 87/KH-TU ngày 15/5/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, đưa nội dung lịch sử đảng bộ, truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hoá lồng ghép vào nội dung giáo dục lịch sử dân tộc, giáo dục công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh Căn cứ vào công văn số: 2519/KH- SGDĐT ngày 10 tháng 10 năm 2018 của Sở GD& ĐT Thanh Hóa * Mục đích, yêu cầu: - Thông qua tuyên truyền, giáo dục lịch sử đảng, giúp cán bộ, giáo viên và học sinh nhận thức sâu sắc hơn về sự ra đời, hoạt động và vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng quê hương, đất nước và truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. - Nâng cao lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, thái độ biết trân trọng các giá trị lịch sử, văn hoá mà thế hệ cha anh để lại, đồng thời xác định rõ động cơ, lý tưởng sống đúng đắn và trách nhiệm của thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước hiện nay. - Củng cố lòng tin của thế hệ trẻ vào sự thắng lợi của cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo * Nhiệm vụ – giải pháp: - Biên soạn Đề cương nội dung lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá phù hợp với đối tượng học sinh THPT 3 - Chỉ đạo các nhóm Lịch sử, GDCD, lồng ghép nội dung lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân trong giáo dục trong lịch sử dân tộc, giáo dục công dân khi giảng dạy. - Phối hợp với các cơ quan truyền thông trong việc giáo dục lý tưởng, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ tỉnh và truyền thống cách mạng của nhân dân cho học sinh nhà trường. - Triển khai các hình thức tổ chức dạy học về lịch sử đảng, truyền thống cách mạng của nhân dân: Hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt dưới cờ, giáo dục truyền thống cho HS lớp 10, dạy học theo chủ đề, dạy học tại thực địa, dạy học địa phương … - Tuyên truyền, giáo dục học sinh trong việc bảo vệ, gìn giữ các di tích lịch sử cách mạng của quê hương, đất nước để nâng cao lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ. - Tổ chức giáo dục, tuyên truyền rộng rãi trong học sinh về lịch sử hào hùng của dân tộc, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá; bồi dưỡng và nâng cao lòng tự hào về truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta; khẳng định những thành tựu kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, quốc phòng- an ninh mà nhân ta đã đạt được, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng là vô cùng to lớn. - Tham gia tốt các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử Xứ Thanh, lịch sử Đảng bộ tỉnh nhằm nâng cao hiểu biết của học sinh về địa lý, lịch sử, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán, hệ thống chính trị, kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa - xã hội của tỉnh Thanh Hoá qua các thời kì lịch sử. - Tiếp tục phát huy hiệu quả công tác giáo dục truyền thống thông qua các công trình văn hóa, các di tích lịch sử bằng các hoạt động cụ thể như: Hành trình đến với Bảo tàng, khu di tích lịch sử; đảm nhận chăm sóc thường xuyên các di tích lịch sử, nghĩa trang liệt sỹ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có công với cách mạng … - Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo hướng coi trọng phẩm chất và năng lực người học, nâng cao nhận thức cho học sinh về lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc, trên cở sở đó bước đầu rèn luyện bản lĩnh và lập trường cách mạng cho học thế hệ trẻ, đồng thời giúp học sinh nâng cao hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sống có văn hóa, nghĩa tình. - Trong công tác tuyên truyền, giáo dục cần có sự tham gia phối hợp có trách nhiệm giữa nhà trường, gia đình, đoàn thể và toàn xã hội; thường xuyên trao đổi, đối thoại với thế hệ trẻ, kịp thời nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội cho học sinh, kịp thời đấu tranh, phê phán, uốn nắn nhận thức lệch lạc về vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. - Phối hợp với các cơ quan truyền thông trên địa bàn, kịp thời biểu dương gương người tốt việc tốt trong công tác tuyên truyền giáo dục lịch sử Đảng. Trong đó đặc biệt chú trọng việc khảo sát, nắm bắt tình hình tác động, tầm ảnh hưởng của Internet, các trang mạng xã hội đối với học sinh, kịp thời theo dõi, đánh giá tình hình và có biện pháp xử lý trong từng trường hợp, tình huống cụ thể. - Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập nội dung giáo dục lịch sử dân tộc, giáo dục công dân, giúp thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc hơn về lịch sử Đảng bộ tỉnh và truyền thống cách mạng vẻ vang của nhân dân Thanh Hoá. * Thời gian: Từ năm 2018, 2019: - Trong các tiết lịch sử địa phương của khối 10,11,12 4 - Sau mỗi bài học đều có thể lồng ghép để liên hệ nội dung về lịch sử Đảng bộ tỉnh và truyền thống cách mạng vẻ vang của nhân dân Thanh Hoá. - Trong hoạt động giáo dục truyền thống cho HS khối 10 - Hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ đề các tháng - Tích cực tham gia các cuộc thi do cấp trên tổ chức. * ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH VÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN THANH HOÁ 1. Khái quát phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hoá từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước khi thành lập Đảng bộ: - Phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hoá từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước khi thành lập Đảng bộ. - Các tổ chức cách mạng ở Thanh Hoá 2. Sự thành lập Đảng bộ Cộng sản tỉnh Thanh Hoá (1930): - Hoàn cảnh; - Sự thành lập Đảng bộ; - Ý nghĩa lịch sử. 3. Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền (1930-1945): - Phong trào cách mạng của nhân dân Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ từ năm1930 đến trước khi Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. - Phong trào cách mạng từ năm 1939 đến trước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1945). - Khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hoá tháng 8- 1945. 4. Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954): - Xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. - Nhân dân Thanh Hoá đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kể thù. - Những đóng góp của nhân dân Thanh Hoá trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954). 5. Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975): - Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. - Chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ và chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. 6. Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tiến hành xây dựng CNXH và thực hiện công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay: - Khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (19761980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985). - Những thành tựu chủ yếu về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại của Thanh Hoá từ 1986-2005./. 2.3.2. Xây dựng các chủ đề dạy học về nội dung lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hoá Chủ đề 1: Khái quát phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hoá từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước khi thành lập Đảng bộ. 1. Phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hoá từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước khi thành lập Đảng bộ. * Hoàn cảnh: 5 - Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tư bản độc quyền Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa để bù đắp những thiệt hại do chiến tranh gây ra trong đó có Việt Nam. Tại Thanh Hóa chúng không từ một thủ đoạn nào nhằm vơ vét tiền của, bòn rút sức lao động của nhân dân. * Diễn biến: - Trong thời gian này, cùng với cả nước phong trào đấu tranh của nhân dân Thanh Hoá diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là cuộc vận động đòi trả tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu tiêu biểu như: Ở Cẩm Thuỷ, Vĩnh Lộc đã cử đại biểu về thị xã Thanh Hoá đón tiếp cụ Phan khi Cụ bị nhà cầm quyền giải đi qua Thanh Hoá. - Phong trào lên đến đỉnh điểm vào dịp tổ chức đám tang Phan Châu Trinh. Lễ truy điệu được nhân dân Thanh Hoá cử hành trọng thể, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhất là thanh thiếu niên học sinh. - Những hoạt động trên trở thành những cuộc biểu dương hùng hậu, thể hiện lòng yêu nước và nguyện vọng giải phóng dân tộc của nhân dân Thanh Hoá. - Từ phong trào yêu nước đã xuất hiện các nhóm chính trị của thanh niên, học sinh, sinh viên đấu tranh, bãi khoá liên tiếp nổ ra trong các trường học đòi nhà cầm quyền xoá bỏ lệnh cấm nói tiếng Việt trong giờ học, chống bọn Pháp lăng mạ người Việt Nam. - Năm 1925 đồng chí Lê Hữu Lập được cử về nước và hoạt động cách mạng ở Thanh Hoá. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 5 năm 1926, đồng chí Lê Hữu Lập đã thành lập ra “Hội đọc sách báo cách mạng” (tại số nhà 25 phố hàng Than thị xã Thanh Hoá), nhằm tập hợp những thanh niên tiên tiến để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. 2. Các tổ chức cách mạng ở Thanh Hoá *Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tỉnh Thanh Hoá - Hội đọc sách báo cách mạng đã nhanh chóng phát triển ở nhiều địa phương, nhất là Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Đông Sơn. Trên cơ sở Hội đọc sách báo cách mạng, các tiểu tổ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, BCH tỉnh bộ lâm thời đã được bầu. Sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tỉnh Thanh Hoá báo hiệu một phong trào vận động cách mạng mới bắt đầu. * Tân việt cách mạng Đảng - Cuối năm 1926 một tổ chức yêu nước của tầng lớp tiểu tư sản trí thức Thanh Hoá ra đời, đó là Phục Việt tức Tân Việt cách mạng Đảng. Cơ sở của tổ chức này cũng phát triển nhanh chóng nhất là ở vùng Thiệu Hoá. => Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và Tân Việt cách mạng Đảng tuy là hai tổ chức khác nhau, nhưng qúa trình hoạt động cách mạng cả hai tổ chức đều tuyên truyền tư tưởng cách mạng theo xu hướng vô sản nên đã lôi cuốn được đông đảo quần chúng yêu nước tham gia. Những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và Tân việt cách mạng Đảng đã tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành và ra đời của tổ chức cộng sản trên đất Thanh Hoá. Chủ đề 2: Sự thành lập Đảng bộ Cộng sản tỉnh Thanh Hoá (1930) 1. Hoàn cảnh: - Từ ngày 6/1 đến ngày 8-2-1930 Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản tại Cửu Long (Hương Cảng–Trung Quốc). Các đại biểu tham gia hội nghị nhất trí thống nhất các tổ chức thành Đảng cộng sản Việt Nam. - Sau khi Đảng ra đời, Xứ uỷ Bắc kỳ rất quan tâm đến việc thành lập tổ chức Cộng sản ở Thanh Hoá. Được sự chỉ đạo của Xứ uỷ, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp đã về Thanh 6 Hoá bắt mối liên lạc với các hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở các huyện Đông Sơn, Thiệu Hoá, Thọ Xuân và xúc tiến việc thành lập các chi bộ cộng sản 2. Sự thành lập Đảng bộ; - Cuối tháng 6 năm 1930 chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hàm Hạ (nay thuộc xã Đông Tiến- Đông Sơn). - Đầu tháng 7 năm 1930, chi bộ cộng sản thứ hai ra đời ở Phúc Lộc, Thiệu Hoá (nay là xã Thiệu Tiến). - Giữa tháng 7 năm 1930 tại làng Yên Trường (Thọ Lập - Thọ Xuân) chi bộ cộng sản thứ 3 ra đời. - Ngày 29 tháng 7 năm 1930 dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc kỳ, Hội nghị thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản tỉnh Thanh Hoá được tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Doãn Chấp tại nhà đồng chí Lê Văn Sĩ (làng Yên Trường - Thọ Xuân). 3. Ý nghĩa lịch sử. - Sự ra đời của Đảng bộ Đảng cộng sản Thanh Hoá đã chứng tỏ sự trưởng thành về ý thức chính trị của quần chúng công nông. Từ đây trở đi nhân dân Thanh Hoá đã có một tổ chức chân chính trực tiếp lãnh đạo, mở ra thời kỳ phát triển của phong trào cách mạng trong tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, phong trào cách mạng Thanh Hoá trở thành một bộ phận hữu cơ của cách mạng Việt Nam. - Đảng bộ Đảng cộng sản Thanh Hoá ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của cách mạng tỉnh nhà. Chủ đề 3: Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) 1. Phong trào cách mạng của nhân dân Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ từ năm1930 đến trước khi Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Sau khi Đảng bộ thành lập, cùng với Nông hội đỏ đã phát động quần chúng đấu tranh và treo cờ búa liềm ở phủ lỵ Quảng Hoá (Vĩnh Lộc), phủ lỵ Thọ Xuân, những cuộc đấu tranh của quần chúng công nông diễn ra mạnh mẽ. - Tháng 8 năm 1930 công nhân đồn điền Vạn Lại đấu tranh đòi chủ tăng lương giảm giờ làm. Công nhân đồn điền Yên Mỹ, công nhân nhà máy diêm Hàm Rồng đấu tranh đòi tăng tiền công khoán, giảm định mức khoán. - Tại các tổng Quảng Thì (Thọ Xuân), Xuân Lai (Thiệu Hoá) ...các cuộc đấu tranh của nông dân được tổ chức kịp thời đòi chia công điền công thổ, chống phù thu lạm bổ, chống cường hào sách nhiễu. Sôi nổi nhất là cuộc đấu tranh ở làng Yên Trường, Chỉ Tín (Thọ Xuân). - Ngày 1 tháng 5 năm 1931 cờ đỏ búa liềm được treo ở ga Thanh Hoá, truyền đơn được rải nhiều nơi kêu gọi ủng hộ Xô Viết- Nghệ Tĩnh; kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, tạo nên một không khí cách mạng sôi động khiến chính quyền địch phải lo tìm cách đối phó. Cuộc khủng bố đánh phá ác liệt của địch kéo dài nhằm bóp chết Đảng bộ, tiêu diệt phong trào nhưng không diệt được sức sống mãnh liệt của cách mạng. Vào những năm 1936 đến 1939 phong trào đấu tranh lại diễn ra sôi nổi trong tỉnh. - Tháng 8 năm 1936 phong trào “Đông Dương đại hội” diễn ra sôi nổi trong cả nước. Đảng bộ đã tiến hành vận động nhân dân hưởng ứng phong trào một cách rộng rãi. Khắp nơi Uỷ ban hành động được thành lập, đẩy mạnh việc tập hợp yêu sách, kiến nghị của nhân dân gửi lên Công sứ tỉnh yêu cầu giải quyết những quyền lợi tối thiểu về 7 sinh hoạt dân chủ. Phong trào Đông dương Đại hội đã hình thành một mặt trận nhân dân thống nhất rộng rãi. - Năm 1937 phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, các hội tương tế ái hữu ra đời ở nhiều nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, ở các làng, xã, huyện. Đặc biệt năm 1937 Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi to lớn trong cuộc vận động bầu cử Viện dân biểu trung kỳ. Sang năm 1938 phong trào phát triển thành cao trào cách mạng. cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương giảm giờ làm, chống cúp phạt nổ ra liên tiếp ở các nơi: Mỏ sắt, Thanh xá, núi Bần, Nhà máy rượu Nam Đổng ích, đồn điền Yên Mỹ, nhà máy diêm Hàm Rồng. - Tháng 2 năm 1938, ba nghìn quần chúng của bốn huyện Yên Định, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc tổ chức mít tinh tại làng Chiềng với những khẩu hiêu đòi tự do dân chủ, ủng hộ Liên Xô. Chỉ tính riêng trong năm 1938 đã có hàng trăm cuộc đấu tranh của nông dân, trong đó cuộc đấu tranh chống dự án thuế mới của chính quyền thực dân đã giành thắng lợi. - Sự phát triển của phong trào cách mạng trong những năm 1930 đã tạo ra một lực lượng cách mạng đông đảo trong tỉnh, chuẩn bị đưa phong trào đấu tranh lên giai đoạn mới. 2- Phong trào cách mạng từ năm 1939 đến trước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1945). - Tháng 9 năm 1940 Nhật kéo vào Việt Nam và ngày càng mở rộng sự chiếm đóng. Từ đây nhân dân Việt Nam phải chịu một cổ hai tròng. Mâu thuẫn giữa nhân dân với bọn cướp nước trở nên gay gắt. Trước tình hình trên, Trung ương Đảng chủ trương đưa nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật lên hàng đầu. Chủ trương này đã kịp thời đến với Đảng bộ Thanh Hoá. - Tháng 11 năm 1940 tại làng Thuần Hậu (Hậu Lộc), các đồng chí Đảng viên lãnh đạo khu vực đã tiến hành Hội nghị, thành lập cơ quan lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ và đề ra biện pháp phát triển phong trào cách mạng. Để tập hợp quần chúng tham gia phong trào cứu quốc, mặt trận phản đế cứu quốc đã được thành lập. - Mặt trận phản đế cứu quốc nhanh chóng phát triển ở nhiều địa phương trong tỉnh như Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định. Các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở các tổng, xã và trở thành lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh. - Năm 1941 cao trào phản đế cứu quốc đã dâng lên cuồn cuộn. Phong trào chống thuế diễn ra ở nhiều nơi như: Phong Lộc, Xá Lê, Long Linh (Thiệu Hoá) Trường Xuân (Hậu Lộc). Tiêu biểu nhất là Ngọc Trạo, phong trào phản đế cứu quốc phát triển đã lôi cuốn mọi người dân nơi đây tham gia, trở thành cơ sở, thành chiến khu- trái tim cách mạng của tỉnh nhà. Đêm ngày 19 tháng 9 năm 1941 tại hang Treomột địa điểm nằm sâu trong rừng Ngọc Trạo, đội du kích Ngọc Trạo đã ra đời với 21 đội viên. Từ đây trở đi công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền càng thêm khẩn trương. - Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8, mặt trận Việt Minh được xây dựng ở nhiều phủ, huyện. Các đoàn thể cứu quốc phát triển sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân. Phong trào cách mạng diễn ra rầm rộ ở các địa phương: Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, nhằm chống thuế, chống bắt phu bắt lính, chống thu thóc, thu bông. Tháng 6 năm 1944 công nhân nhà máy diêm Hàm Rồng đình công đòi chủ phải giải quyết yêu sách. Phối hợp với phong trào sôi nổi rộng lớn ở bên ngoài, cuộc đấu tranh của tù chính trị ở nhà lao Thanh Hoá cũng quyết liệt. 8 - Năm 1945 phong trào đấu tranh càng được đẩy lên đỉnh cao khi Đảng bộ và các quần chúng quán triệt chỉ thị Trung ương về việc phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói. Phong trào đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng nên đã lôi cuốn hàng ngàn, hàng vạn người tham gia. Phong trào chuyển dần thành một cuộc vận động chính trị rộng lớn và những cuộc khởi nghĩa từng phần. - Tại Hoằng Hoá ngày 24 tháng 7, phát xít Nhật cho lính bảo an phối hợp với chi phủ tiến hành khủng bố, đánh phá cơ sở cách mạng. Chi bộ Đảng ở đây đã tổ chức và lãnh đạo quần chúng và lực lượng tự vệ chặn đánh địch. Bị truy kích, địch bỏ chạy, tri phủ Hoằng Hoá bị bắt. Phát huy thắng lợi của cuộc đấu tranh chống khủng bố, Nhân dân Hoằng Hoá tiến về bao vây, giải tán triệt để bộ máy chính quyền bù nhìn ở các tổng, làng xã. Uỷ ban dân tộc giải phóng được thành lập quản lý mọi công việc ở địa phương. - Thắng lợi ở Hoằng hoá đã mở đầu cho các cao trào khởi nghĩa giành chính quyền và đưa phong trào cách mạng toàn tỉnh phát triển đến đỉnh cao. 3- Khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hoá tháng 8- 1945. - Ngày 14 tháng 8 năm 1945 chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh không điều kiện. Lúc này phong trào cách mạng ở Thanh Hoá đang phát triển mạnh mẽ, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Hoằng Hoá đã thắng lợi. - Điều kiện khách quan, chủ quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Thanh Hoá đã chín muồi. - Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ đã triệu tập Hội nghị mở rộng vào ngày 14/8/1945 tại làng Mao Xá (Thiệu Toán). Hội nghị nhận định tình hình cách mạng trong tỉnh, quyết định chủ trương biện pháp sẵn sàng phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền. - Hội nghị Tỉnh uỷ đã quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa và Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh, phủ, huyện. Đồng chí Lê Tất Đắc được cử làm chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa và Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh. Để hạn chế đổ máu và nhanh chóng khởi nghĩa giành thắng lợi. Hội nghị đã sử dụng sách lược khôn khéo: Gửi thư của mặt trận Việt minh cho Nhật, yêu cầu chúng không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam, rút hết quân đội ở các đồn bốt, cơ sở về nhà Giòng thị xã Thanh Hoá để hồi hương an toàn. - Ngày 17 tháng 8, Chỉ thị khởi nghĩa của tỉnh được triển khai rộng khắp cơ sở. Bọn Nhật đã chấp thuận yêu cầu của mặt trận Việt Minh. Bộ máy chính quyền địch ở tỉnh lị tan rã từng mảnh. - Dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng và mặt trận Việt minh, quần chúng nhân dân các huyện đã rầm rộ xuống đường khởi nghĩa giành chính quyền. - Tính đến rạng sáng ngày 19-8-1945, quần chúng khởi nghĩa đã làm chủ các huyện Hậu Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Thiệu Hoá, Yên Định, Thọ Xuân. - Chiều ngày 19 tháng 8 cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở Đông Sơn. - Ngày 20 tháng 8 lực lượng khởi ở Tĩnh Gia giành chính quyền về tay nhân dân. - Ngày 21 tháng 8 hai huyện Nông Cống và Cẩm Thuỷ cũng giành được thắng lợi trong khởi nghĩa. - Đúng 8 giờ sáng, lực lượng quần chúng tuần hành cùng bốn chiếc xe khách chở Ban chỉ đạo và lực lượng tự vệ. Từ Lò Chum, lên đến Trường Thi, lực lượng khởi nghĩa đổ về chùa Hai Voi và toả đi chiếm trại Bảo an binh, dinh tỉnh trưởng... đi tới đâu lực lượng khởi nghĩa thu hút thêm lực lượng nhân dân tới đó, kẻ thù hoàn toàn bị 9 áp đảo trước sức mạnh của quần chúng khởi nghĩa. Chiều ngày 20 tháng 8 thị xã Thanh Hoá hoàn toàn thuộc về cách mạng. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời thị xã Thanh Hoá ra mắt nhân dân. - Đến ngày 21- 8 về cơ bản cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hoá đã giành được thắng lợi. - Đối với 6 châu miền núi, tỉnh uỷ chỉ đạo giành chính quyền bằng phươn pháp hoà bình. - Ngày 23 tháng 8 năm 1945, trong không khí tưng bừng phấn khởi của hàng vạn nhân dân thị xã và các phủ huyện lân cận, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã ra mắt đồng bào, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của tỉnh nhà. - Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 ở Thanh Hoá là kết quả của sự vận dụng linh hoạt chủ động sáng tạo những chủ trương nghị quyết Trung ương Đảng của Đảng bộ Thanh Hóa vào tình hình cụ thể trong tỉnh. - Đảng bộ đã xây dựng được một đội quân cách mạng đông đảo ở nhiều địa phương, bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang qua các thời kỳ mặt trận phản đế cứu quốc, mặt trận Việt minh và cao trào kháng Nhật cứu nước. Nhờ vậy khi thời cơ cách mạng đến, nhân dân Thanh Hoá nhanh chóng vùng dậy giành chính quyền. Thắng lợi to lớn này là kết quả của truyền thống đấu tranh yêu nước của nhân dân được Đảng lãnh đạo. - Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng tám (1945) đã diễn ra nhanh chóng và kết thúc thắng lợi. Chính quyền cách mạng nhân dân đã được thành lập. Thắng lợi to lớn này đã đưa nhân dân các dân tộc Thanh Hoá từ địa vị nô lệ, thoát khỏi ách thống trị của bọn thực dân phong kiến và trở thành người chủ thực sự của quê hương. Cuộc khởi nghĩa tháng tám ở Thanh Hoá đã góp phần cùng với nhân dân cả nước làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng tám, đưa tới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Chủ đề 4: Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) 1- Xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. - Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, quân đội các nước trong phe đồng minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã lũ lượt kéo vào nước ta. Nền độc lập bị đe doạ nghiêm trọng, chính quyền cách mạng còn non trẻ. - Ngày 20-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thăm Thanh Hoá và người đã căn dặn: “Thanh Hoá phải trở thành một tỉnh kiểu mẫu...phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu” làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến. - Thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đã quyết tâm “xây dựng Thanh Hóa thành hậu phương vững mạnh để kịp thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường, đồng thời tổ chức chiến đấu tốt để bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống”. - Về chính trị, coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là ở miền núi và khu vực trọng yếu. Đảng bộ Thanh Hoá đã tiến hành 4 kỳ đại hội. Đại hội I vào tháng 2- 1948, Đại hội II vào tháng 4- 1949, Đại hội III vào tháng 6- 1950, Đại hội IV vào tháng 5- 1952 xác định phương hướng, chủ trương, giải pháp lãnh đạo toàn dân xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện cho kháng chiến thắng lợi. - Về quân sự, tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân: tiêu thổ kháng chiến, rào làng kháng chiến, đào đắp chiến hào, xây dựng lực lượng vũ 10 trang, xây dựng các xưởng quân giới... Tỉnh uỷ quyết định chuyển chi đội Đinh Công Tráng thành trung đoàn chủ lực, xây dựng các đại đội chủ lực huyện, đại đội du kích xã, lập quỹ cấp dưỡng bộ đội địa phương nuôi quân ăn no đánh thắng. - Về kinh tế, Đảng bộ phát động toàn dân khai hoang, phục hoá, chống thiên tai, xây dựng tổ đổi công, thực hiện giảm tô tức 25% tiến tới giảm tô triệt để và cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng. Các ngành thủ công nghiệp mở rộng, xây dựng nhiều cơ sở thương nghiệp Nhà nước. - Về văn hoá, Tỉnh uỷ phát động phong trào bình dân học vụ và mở rộng hệ thống giáo dục phổ thông các cấp. Năm 1953, toàn tỉnh đã có 453 trường phổ thông cấp I, 85 trường phổ thông cấp II, 3 trường phổ thông cấp 3 gồm 7 vạn học sinh. Toàn tỉnh xây dựng 1 bệnh viện đa khoa, 4 bệnh viện khu vực và hàng chục trạm xá tuyến huyện. Hoạt động văn hoá- nghệ thuật hướng vào xoá bỏ tàn dư văn hoá phản động, lạc hậu. Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới làm thay đổi bộ mặt nông thôn Thanh Hoá. 2. Nhân dân Thanh Hoá đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù - Được sự giúp đỡ của quân Anh tháng 9- 1945 thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau khi chiếm đóng các đô thị ở nam Bộ và cực Nam Trung Bộ thực dân Pháp chuẩn bị tiến quân ra Bắc thôn tính nước ta, trong đó Thanh Hoá là một vùng trọng điểm. - Sang năm 1948, thực dân Pháp tấn công vào Thanh Hoá toàn diện và ác liệt hơn. - Từ năm 1950- 1953, bị thua đau ở Tây Bắc và đồng bằng Bắc Bộ, địch hung hãn phá hoại Thanh Hoá trên mọi phương diện: Kinh tế, chính trị, quân sự. - Pháp tiến hành đổ bộ tấn công và chiếm giữ một số điểm ở Nga Sơn, Hậu Lộc, Hòn Mê, dùng lực lượng phản động, thổ phỉ nổi dậy chống phá ta ở Ba làng (Tĩnh Gia), vùng biên giới Việt - Lào (Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh). Các tuyến giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, Kim Tân- Vĩnh Lộc, Yên Định- Cẩm Thuỷ, các cửa lạch, bến sông Mã, sông Chu, các cầu cảng...đều bị địch dùng máy bay ném bom oanh tạc. Các đập dự trữ nước tưới tiêu như: Bái Thượng, Bàn Thạch và đê Phong Lạc bị giặc Pháp dùng máy bay phá huỷ hoàn toàn. - Trước tình hình đó quân và dân Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ, của Uỷ ban kháng chiến đã kiên quyết giáng trả mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù. Lực lượng vũ trang chủ lực của Tỉnh, lực lượng tự vệ của các huyện, xã với vũ khí ít ỏi đã sát cánh bên nhau lập nên những chiến công oanh liệt ngay trên quê hương. Cuộc chiến đấu ác liệt của nhân dân Nga Sơn trong những năm 1951, 1952, 1953 thực sự là tinh thần “Ba Đình” quật khởi. Điển hình là trận đánh chìm chiến hạm Ô- đanh vin diệt 200 viên sĩ quan và binh lính trên biển Sầm Sơn. - Chín năm kháng chiến, quân dân Thanh Hoá luôn chắc tay súng bảo vệ vững chắc quê hương, giữ yên “kho hậu cần” cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. 3. Những đóng góp của nhân dân Thanh Hoá trong 9 năm kháng chiến - Trong 9 năm kháng chiến gian khổ, ác liệt, Thanh Hoá đã thực hiện xuất sắc vai trò hậu phương kháng chiến theo lời căn dặn của Bác. - Thanh Hoá đã giúp đỡ hàng vạn đồng bào tản cư, các đơn vị bộ đội, các cơ quan Trung ương, các cơ quan khu 3, khu 4, bộ đội Pa Thét, Chính phủ kháng chiến và vùng giải phóng Bắc Lào. 11 - Nhân dân Thanh Hoá đã chi viện cho miền Nam 2 đại đội bộ đội địa phương, bổ sung cho bộ đội chủ lực 2 tiểu đoàn, 36 đại đội, 6 trung đội, 500 chiến sĩ du kích, huy động gần 57 ngàn thanh niên tham gia bộ đội và thanh niên xung phong, huy động hàng triệu dân công phục vụ các chiến dịch. -Trong những năm 1948-1950: Thanh Hoá đã quyên góp và thu mua luá khao quân, ủng hộ bộ đội địa phương được 26.612 tấn. -Từ năm 1951 đến năm 1954, Thanh Hoá đã thu góp được 261.728 tấn thóc thuế nông nghiệp góp phần cung ứng cho cuộc kháng chiến. - Năm 1953 Thanh Hoá cung cấp cho Việt Bắc 3000 thếp giấy và hàng vạn tấn giấy in báo. - Năm 1953 Thanh Hoá nhập kho nhà nước 1495 tấn muối. - Từ năm 1951- 1953 lò cao Như Xuân đã sản xuất được 500 tấn gang phục vụ công cuộc kháng chiến. - Dù ở đâu và trên chiến trường nào, con em Thanh Hoá cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Do vậy, 5 chiến sĩ ưu tú đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. - Vào thăm Thanh Hoá lần thứ 2 (1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện biên phủ đến đó; tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó”. Chủ đề 5: Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 -1975) 1. Thanh Hoá khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh - Thực hiện đường lối chung của toàn Đảng, Đảng bộ Thanh Hoá đã tổ chức, lãnh đạo toàn dân trong tỉnh khắc phục hậu quả chiến tranh và thiên tai, khôi phục phát triển kinh tế- văn hoá đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá. Tháng 9- 1954, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các địa phương tu sửa nâng cấp đê Bái Thượng, hệ thống thuỷ nông sông Chu, tu sửa đường 1A, đường thị xã- Bái Bái Thượng- Eo Lê- Bá Thước và làm mới 460 km đường nội tỉnh, 340 cầu, 34 phà. Tháng 11-1955, xây dựng tuyến đường 217A, sau đó xây dựng tuyến đường 217B giúp nước bạn Lào... khôi phục lại thị xã Thanh Hoá và các trung tâm huyện, thị trong tỉnh. - Sau 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế- văn hoá, tính đến cuối năm 1960, toàn tỉnh đã xây dựng được 4.930 HTX nông nghiệp (chiếm 915 tổng số hộ nông dân) và 313 HTX tiểu thủ công nghiệp (chiếm 70% hộ thủ công và tiểu thương toàn tỉnh), đưa 96 hộ tư sản công- thương vào các công ty hợp doanh. Xây dựng quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng được một số cơ sở sản xuất công nghiệp mới trong tỉnh. - Kinh tế tổ chức các phong trào thi đua làm thuỷ lợi, phân bón, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. - Năm 1964, tổng sản lượng lương thực toàn tỉnh đạt 562 ngàn tấn, ngư nghiệp đánh bắt được từ 20- 30 ngàn tấn cá, lâm nghiệp khai thác được hàng vạn m3 gỗ, luồng, tre, nứa. Xây dựng được 106 cơ sở sản xuất quốc doanh và công ty hợp doanh, 1.241 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, 149 điểm cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp. - Văn hoá xây dựng, nâng cấp 598 trường phổ thông cấp I, 293 trường cấp II, 13 trường cấp III, xoá mù chữ cho 95% đồng bào miền xuôi và 74% đồng bào miền núi. Xây dựng 95 bệnh viện tuyến huyện và tỉnh, 500 trạm xá xã. - Phong trào xây dựng nếp sống mới và văn hoá - văn nghệ phát triển mạnh phục vụ đời sóng tinh thần cho nhân dân. 12 2. Chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ và chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. a. Giữ vững mạch máu giao thông Bắc- Nam - Ở vào vị trí chiến lược quan trọng, là địa bàn nối liền khúc ruột miền Trung, Thanh Hoá đã trở thành mục tiêu trọng điểm bắn phá của đế quốc Mỹ. - Trong 2 ngày 3 và 4 - 4 – 1965 Mỹ đã huy động 455 lượt máy bay các loại, năm 627 quả bom phá và 58 bom nổ chậm, bắn hàng trăm tên lửa, rốc két xuống các trọng điểm ở Thanh Hoá. Riêng Hàm Rồng, Mỹ ném 350 quả bom, bắn 149 tên lửa, rốc két nhằm cắt đứt mạch máu giao thông, chặn đường chi viện cho miền Nam. - Phát huy thắng lợi Lạch Trường, trong 2 ngày 3 và 4-4-1965, được sự phối hợp của bộ đội phòng không và không quân, quân và dân Thanh Hoá đã dũng cảm chiến đấu bắn rơi 47 máy bay phản lực của Mỹ, bảo vệ vững chắc cầu Hàm Rồng, cầu Lèn. - Kết thúc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), quân dân Thanh Hoá đã bắn rơi 276 máy bay, bắn cháy 26 tàu chiến, bắn chìm 5 tàu biệt kích, góp phần cùng quân dân miền bắc buộc Mỹ phải ngừng leo thang chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. b. Chi viện sức người sức của cho cách mạng miền Nam - Nằm trong vùng trọng điểm ném bom bắn phá của đế quốc Mỹ, Thanh Hoá là một trong những địa phương thiệt hại nhiều nhất ở miền Bắc. Trong hai lần leo thang bắn phá miền Bắc, Mỹ đã ném bom xuống Thanh Hoá 20 vạn tấn bom các loại, 34.809 qủa đạn của hải quân Mỹ bắn phá trên biển. Bình quân mỗi km2 phải chịu 19,7 tấn bom, mỗi người dân phải chịu 220 kg. - Nhưng bom đạn Mỹ không làm nhụt chí người xứ Thanh. Dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ Thanh Hoá, nhân dân tỉnh ta đã vươn mình đứng dậy làm tròn nghĩa vụ cứu quốc một cách vẻ vang. - 21 năm kháng chiến, Thanh Hoá đã có 227. 082 người gia nhập quân đội, bằng 10,15% dân số toàn tỉnh. - Những người con ưu tú của nhân dân Thanh Hoá với truyền thống “Lam Sơn”, “Hàm Rồng” đã hiến cả tuổi thanh xuân và máu xương của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Dọc theo Trường Sơn, trên khắp các chiến trường miền Nam đều có mặt những người con quê Thanh. - Để động viên sức người, sức của cho tiền phương, Thanh Hoá đã dấy lên nhiều phong trào thi đua kháng chiến. Các cụ phụ lão với tinh thần “tuổi cao chí càng cao” luôn luôn mẫu mực trong chiến đấu, trong sản xuất và đóng góp ủng hộ kháng chiến. Phụ nữ với phong trào “ba đảm đang”, tay cuốc, tay cày, tay súng vừa sản xuất, bảo vệ quê hương vừa động viên chồng con tòng quân cứu quốc. - Thanh niên với phong trào “ba sẵn sàng” luôn xung phong đi đầu trong lao động sản xuất và chiến đấu. Tuổi nhỏ với phong trào “Trần Quốc Toản” đã hăng hái “mang mũ rơm đi học đường dài” lại tích cực tham gia gieo cấy, chăm bón, gặt hái, giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sĩ... - Với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, “thóc không thiếu một cân”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt” ... nhân dân Thanh Hoá đã chắt chiu để góp sức mình cho kháng chiến. Góp gió thành bão, chính công sức của đồng bào Thanh Hoá đã góp phần làm nên cơn bão táp cách mạng cuồn cuộn triều dângthác đổ cuốn phăng đồn bốt MỹNguỵ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chủ đề 6: Đảng bộ Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tiến hành xây dựng CNXH và thực hiện công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay 13 1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (19761980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985). a. Thanh Hoá thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (từ 1976 - 1980) Từ ngày 19 đến 28-5-1975 Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII được triệu tập. Đại hội chỉ ra những thiếu sót tồn tại và đề ra phương hướng nhiệm vụ mới: - Thực hiện Nghị quyết đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ VIII, từ miền biển đến miền rừng, từ đồng bằng đến trung du, người người, nhà nhà đều hăng hái thi đua lao động sản xuất. - Nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp...được sắp xếp theo hướng “sản xuất lớn XHCN”. - Những thành tựu trên đã tạo nền cho nhân dânThanh Hoá tiếp tục bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976-1980). - Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, toàn thể cán bộ và nhân dân Thanh Hoá ra sức hăng hái tiến lên con đường xây dựng chế độ mới. Nhiều phong trào thi đua đã diễn ra liên tục, sôi nổi như “ba xung kích làm chủ tập thể”, “Định Công hoá”, thuỷ lợi hoá, đồng thời khai hoang phục hoá, trồng cây lương thực, hoa màu... - Trên các mặt trận văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao cũng dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước. Trường học với phong trào “dạy tốt- học tốt”, “làm theo 5 điều Bác Hồ dạy”. Thể dục thể thao với phong trào “khoẻ để bảo vệ Tổ Quốc”. - Những năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần thứ 2, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi: hạn hán, lụt lội liên tiếp xảy ra... đã ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch. Song dưới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ, nhân dân Thanh Hoá đã ra sức khắc phục thiên tai để hoàn thành mục tiêu đã định. b. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981 - 1985) - Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ III (19811985), Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu quan trọng: - Về nông nghiệp trong những năm 1981- 1982, đã chặn được đà giảm sút của những năm 1976-1980. Sản lượng lương thực tăng (năm 1982 đạt 72 vạn tấn tăng 18 vạn tấn so với năm 1978). Các loại cây công nghiệp như lạc, đay, cói, chè vẫn tăng trưởng mạnh. Chăn nuôi trâu, bò, lợn đều tăng vượt bậc so với năm 1978 (trâu tăng 6,6%, bò tăng 6%, lợn lai tăng 250%). Công tác thu mua lương thực của Nhà nước luôn vượt kế hoạch (năm 1981 thu mua được 137.000 tấn, năm 1982 được 180.000 tấn). - Từ năm 1983 đến năm 1985, nông nghiệp Thanh Hoá vẫn tiếp tục đạt thành tích đáng khích lệ. Năm 1985 Thanh Hoá đạt chỉ tiêu 80 vạn tấn. Đây là một con số đánh dấu sự vươn lên không mệt mỏi của nhân dân Thanh Hoá. Bằng sự nổ lực của mình Thanh Hoá đã tự cung cấp được nhu cầu lương thực, thực phẩm cho địa phương và còn đóng góp cho Trung ương 40 vạn tấn lương thực. - Về công nghiệp và thủ công nghiệp trong điều kiện thiếu thốn về nguyên liệu vật tư và kỹ thuật, nền công nghiệp và thủ công nghiệp Thanh Hoá vẫn từng bước đi lên. Nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, giá trị sản lượng công nghiệp Thanh Hoá năm 1985 đạt 1.6 tỷ đồng (tăng 11% so với năm 1978). Sự tăng trưởng về kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trong tỉnh. Năm 1985, bình quân lương thực đạt 305 kg/người, vải mặc:4,14m/người, nhiều gia đình đã bước đầu có tích luỹ. - Bên cạnh những thành tích về kinh tế, nhân dân Thanh Hoá còn đạt nhiều thành tích trong đời sống văn hoá, giáo dục, y tế và sự ổn định về chính trị, an ninh, quốc phòng. 14 - Những thành tích quan trọng mà Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá đạt được trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981- 1985) là cơ sở vững chắc để Thanh Hoá bước vào thời kỳ đổi mới đầy thử thách. 2. Những thành tựu chủ yếu về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại của Thanh Hoá từ 1986-2005 a. GĐ 10 năm đầu từ 1986 - 1896 *. Những thành tựu về kinh tế - Thanh Hoá đã mạnh dạn thực hiện chính sách “khoán hộ” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nồng nghiệp. - Diện tích gieo trồng hoang hoá được phát quang để thay vào đó là màu xanh của lúa, khoai, sắn...Năng suất của các loại cây lương thực, hoa màu vượt trội hơn hẳn những năm 1985 về trước. Sản lượng các loại cây công nghiệp ổn định và nâng cao tạo điều kiện cho sự phát triển một số ngành công nghiệp chế biến như giấy Mục Sơn, đường Lam Sơn, thuốc lá LO TA BA... - Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng tăng trưởng nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong tỉnh. - Trong 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu rực rở về sản xuất lương thực: + Diện tích cây lương thực năm 1986 là 320.200 ha, đến năm 1994 là 377.801 ha. + Sản lượng lương thực quy thóc năm 1986- 1990 bình quân đạt 794 tấn/1 năm, đến năm 1994 là 924. 833 tấn/năm. Đặc biệt đến năm 1995 đạt 1 triệu tấn lương thực. - Sau 10 năm đổi mới, Thanh Hoá đã chấm dứt được căn bệnh thiếu lương thực triền miên, trở thành 1 trong 5 tỉnh có tổng sản lượng 1 triệu tấn và Thanh Hoá cũng bắt đầu xuất khẩu gạo. Đó là thành quả to lớn nhất sau 10 năm đổi mới trên mặt trận kinh tế của Thanh Hoá. - Bên cạnh sự tăng trưởng về sản xuất ngành giao thông vận tải, bưu điện và một số ngành kinh tế dịch vụ, tài chính ngân hàng cũng phát triển mạnh mẽ. Các tuyến đường giao thông quan trọng trong tỉnh thuộc địa bàn thành phố, huyện, xã đều được sửa chữa và nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc vân chuyển giao lưu kinh tế. Ga xe lửa Thanh Hoá được xây dựng khang trang, đẹp đẽ trở thành một ga kiểu mẫu của ngành đường sắt. Mạng lưới điện và thông tin liên lạc, vô tuyến viễn thông trên địa bàn tỉnh đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu đời sống của nhân dân. - Bằng những nổ lực lớn lao của toàn Đảng toàn dân, sau 10 năm thực hiện đổi mới và mở cửa, Thanh Hoá đã khởi sắc về mặt kinh tế, từng bước đi vào thế ổn định và phát triển. *. Những thành tựu về văn hoá xã hội - Sự phát triển và ổn định về kinh tế là nền tảng cho sự phát triển về mặt văn hoá xã hội và chính trị. - Mục đích đổi mới của Đảng ta nhằm làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh”, lý tưởng tốt đẹp ấy đã hiện ra rõ nét trên quê hương Thanh Hóa. - “Theo thống kê của Cục thống kê Thanh Hoá (ngày 1/8/1993) thì toàn tỉnh có 76,4% số hộ có mức sống từ trung bình trở lên đến năm 1995 nhờ có chính sách “Xoá đói giảm nghèo” mà số hộ thiếu đói giảm nghèo đáng kể. Nhìn chung mức sống của nhân dân Thanh Hoá lúc này so với trước năm 1986 đã được nâng cao vượt bậc. Bình quân thu nhập đầu quân đầu người 210 USD (năm 1990 là 172 USD), cứ 3 hộ có 1 radio, cứ 7 hộ có 1 tivi, 58,26% số hộ nông dân có điện dùng sinh hoạt...” 15 - Giáo dục và Đào tạo đạt được thành tựu rực rỡ. Số lượng giáo viên giỏi, học sinh giỏi các cấp ngày một tăng. Đặc biệt hàng năm, trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc và quốc tế Thanh Hoá luôn được coi là tỉnh có thành tích đạt giải cao (năm học 1995- 1996 thành tích của Thanh Hoá xếp thứ nhất). - Chất lượng dạy học ngày một nâng cao, cơ sở vật chất phục vụ dạy học được chú trọng, mạng lưới trường lớp không ngừng được mở rộng, nhiều địa phương đã có trường học khang trang, kiên cố. Phong trào xoá nạn mù chữ đã mang lại hiệu quả ở nông thôn và miền núi. Đến năm học 1994- 1995 đã có 15/23 huyện thị phổ cập giáo dục tiểu học. Tỉ lệ thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp hàng năm đều tăng rõ rệt. - Y tế với nhiều hoạt động chăm lo sức khoẻ cho nhân dân, y tế Thanh Hoá đã góp phần tích cực trong công tác phòng chống dịch bệnh, vận động kế hoạch hoá gia đình. - Các hoạt động Văn hoá, thể dục thể thao cũng gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ. Hoạt động văn hoá nghệ thuật của Thanh Hoá luôn luôn chú trọng đến việc tuyên truyền đường lối của Đảng và giữ gìn bản sắc dân tộc, giữ gìn truyền thống quê hương. Các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa” với việc tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, các tượng đài, các nghĩa trang liệt sĩ trở thành phổ biến ở các địa phương. Hoạt động thể dục thể thao ngày càng mạnh mẽ trong các trường học, cơ quan xí nghiệp và lân cận các làng xã (trong các cuộc đua tài, Thanh Hoá luôn giành được thành tích cao về điền kinh, bắn súng). - Trong 10 năm đổi mới, Thanh Hoá đã từng bước ổn định và phát triển đi lên. Từ một tỉnh đông dân, giàu tài nguyên, lắm thế mạnh...nhưng là một tỉnh nghèo, Thanh Hoá đã vươn lên thành một tỉnh vững mạnh về kinh tế, giàu về thành tích giáo dục. Có được điều đó là nhờ sự lãnh đạo của Đảng bộ Thanh Hoá và nhờ sự vượt khó của nhân dân Thanh Hoá. - Trong sự nghiệp dựng nước cũng như trong sự nghiệp giữ nước xưa và nay, Thanh Hoá luôn xứng đáng với truyền thống quê hương: Cần cù và sáng tạo, chịu đựng và cống hiến. Đó là hành trang lịch sử mà xứ Thanh sẽ tiếp tục trên con đường đổi mới đất nước trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm tiếp theo của thế kỷ XXI. b. GĐ 1996 – 2005 *. Những thành tựu về kinh tế - Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được tăng cường. - Vùng đô thị xây dựng và hình thành các khu công nghiệp tập trung: Lễ Môn, Bỉm Sơn, Lam Sơn, Nghi Sơn, Đình Hương gắn với nâng cấp chỉnh trang các đô thị hiện có và chuẩn bị cho sự ra đời các đô thi mới, tạo sự phát triển nhanh về sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Thành phố Thanh Hoá được công nhận là đô thị loại II. - Vùng ven biển phát huy lợi thế và điều kiện tự nhiên, đã có sự phát triển mạnh, ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch, cảng biển… - Vùng đồng bằng đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, có sự chuyển đổi mạnh cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, tăng năng xuất sản lượng, mở mang phát triển ngành nghề, tiểu thu công nghiệp, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng nhiều. - Vùng miền núi phát huy thế mạnh về đất đai, vốn rừng, hình thành một số vùng cây công nghiệp tập trung, các trang trại nông, lâm kết hợp, có bước chuyển dịch 16 theo hướng sản xuất hàng hoá; tập trung chỉ đạo thực hiện các chương trình 135, dự án 5 triệu ha rừng, quyết định 134… đầu tư làm đường giao thông, điện lưới, thuỷ lợi, bưu điện, y tế, trường học, phát thanh truyền hình… cải thiện và nâng cao hơn đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào miền núi. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Công tác xoá đói, giảm nghèo được quan tâm; cơ bản xoá hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo từ 21,94% năm 2000 giảm xuống 10,6% năm 2005 theo tiêu chí cũ (kết quả điều tra theo tiêu chí mới là 34,7%); xoá nhà tạm bợ, dột nát cho 16 700 hộ; giải quyết việc làm mới cho 190 200 lao động; đưa hơn 16 000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; hơn 80% số hộ dân dùng nước hợp vệ sinh. - Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án quan trọng đã được xây dựng trong như: Cảng Nghi Sơn, đường Mục Sơn-Cửa Đạt, đường Hồ Chí Minh, đường nối cảng Nghi Sơn với đường Hồ Chí Minh, đường Lang Chánh-Yên Khương, đường Hồi Xuân-Tén Tần, công trình thuỷ lợi, thuỷ điện Cửa Đạt, khách sạn Sao Mai, khu công nghiệp Tây Bắc Ga thành phố Thanh Hoá, Trường Đại học Hồng Đức, Bệnh viện đa khoa, Bệnh viện phụ sản, Bệnh viện nhi, Trung tâm Truyền hình kỹ thuật số, hạ tầng các khu dụ lịch, khu di tích, nhà tưởng niệm, tượng đài … - Giao thông thuỷ lợi hoàn chỉnh và nâng cấp các trục giao thông chính, các cầu qua sông lớn được xây dựng nối liền các vùng, miền; nhiều tuyến đường giao thông liên huyện được làm mới; đường giao thông nông thôn ở nhiều nơi thuộc ùng đồng bằng, ven biển được nhựa, bê tông hoá hoặc cấp phối. Hệ thống thuỷ lợi được đầu tư, nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới; các công trình thuỷ lợi đầu mối, hệ thống kênh mương nội đồng được đầu tư kiên cố, đảm bảo tưới chủ động cho hầu hết diện tích lúa nước và một phần diện tích mầu ở các huyện đồng bằng. *. Những thành tựu về văn hoá xã hội Văn hoá – xã hội có chuyển biến, tiến bộ và từng bước được xã hội hoá; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Cơ sở vật chất trường học, y tế được tăng cường. Có hơn 56,5% số phòng học được kiên cố hoá. Đầu tư phát triển lưới điện và trạm điện, chuyển đổi mô hình quản lý điện nông thôn; 100% số huyện, thị xã, thành phố, 100% số phường, thị trấn, 96,6% số xã có điện lưới. Đến năm 2005 có 55 560 xã có điểm bưu điện - văn hoá xã, 100% số xã, phường, thị trấn miền xuôi và nhiều xã miền núi có máy điện thoại, đưa mật độ thuê bao lên 5,9 máy/100 dân. Giáo dục và Đào tạo hệ thống trường lớp, ngành học, cấp học phát triển. Loại hình trường lớp ngoài công lập được mở rộng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu học tập. Sự nghiệp giáo dục miền núi được quan tâm, chăm lo cả về cơ sở vật chất và chất lượng đào tạo. Chất lượng giáo dục toàn diện được chú ý. Học sinh iỏi các cấp học, môn học tăng khá, nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế. Các địa phương, cơ sở đã quan tâm chăm lo cho giáo dục, góp phần xây dựng mội trường giáo dục lành mạnh và huy đông tốt hơn nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học. Có thêm nhiều trường THPT ngoài công lập đáp ứng tốt nhu cầu học tập cho người học, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí chung của cả tỉnh. Truyền thống hiếu học được khơi dậy; nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả cao trong học tập. Đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi ở các huyện, thị, thành phố, xã, phường, thị trấn; 24/27 huyện, thị, thành phố và 89,1% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập THCS. Số trường đạt chuẩn quốc gia từ 80 trường (năm học 1999 – 2000) lên 386 trường (năm học 2005 – 2006). Xã hội hoá giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục -đào tạo được đẩy mạnh; phong trào 17 khuyến học phát triển, việc xây dựng xã hội học tập có nhiều tiến bộ, đến nay có 516 TT HTCĐ. Văn hoá thông tin được đẩy mạnh, từng bước hiện đại hoá với nhiều hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, chuyển tải kịp thời thông tin đến các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; tập trung xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Khai trương xây dựng 4188 làng, bản, khu phố, cơ quan văn hoá, trong đó đã công nhận 506 làng văn hoá cấp tỉnh, 1270 làng văn hoá cấp huyện; 63 % số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; khai trương xây dựng 35 xã phường văn hoá. Tu bổ, tôn tạo một số khu di tích, khu tưởng niệm, phục vụ hoạt động du lịch, giáo dục truyền thống. Sáng tác văn học, nghệ thuật có tiến bộ, phát huy vai trò lực lượng xung kích trên mặt trận văn hoá tư tưởng, góp phần giữ gìn bản sắc, truyền thống văn hoá của dân tộc, của địa phương. Thể dục thể thao tiếp tục phát triển, số người tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên từ 16 % năm 2000 tăng lên 23% năm 2005; gia đình thể thao tăng từ 8% lên 13%; một số môn thể thao thành tích cao tiếp tục giành được nhiều huy chương ở các giải quốc gia, khu vực và quốc tế. Y tế sự nghiệp y tế có nhiều tiến bộ, nhất là trong lĩnh vực y học dự phòng. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người nghèo và các đối tượng chính sách được quan tâm. Hệ thống y tế được củng cố một bước, đặc biệt là y tế cơ sở, đã xóa xã trắng về y tế. Cơ sở vật chất y tế được đầu tư đáng kể, nhất là cho cơ sở và các khâu trọng yếu. Y học cổ truyền dân tộc được khôi phục và phát triển. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân được phát triển đa dạng, từng bước nâng cao chất lượng. Hoạt động bảo hiểm y tế được mở rộng. Nhu cầu thuốc thiết yếu cho phòng và chữa bệnh của nhân dân được đảm bảo. Từng bước nâng cao chất lượng chuyên môn, y đức, tinh thần phục vụ bệnh nhân. Cơ sở vật chất cho khám chữa bệnh từng bước được nâng cấp, tăng cường trang bị kỹ thuật hiện đại; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố. Có 30% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, 62,24% trạm y tế miền xuôi, 50% trạm y tế miền núi có bác sỹ. Y tế ngoài công lập được khuyến khích phát triển. Cung ứng đủ thuốc, thiết bị y tế cho khám, chữa bệnh. Tỷ lệ tăng dân số năm giảm xuống còn 1,03%; mức giảm sinh hàng năm 0,65%. Tuổi thọ trung bình người dân được nâng lên (năm 1999 là 69,4 tuổi, năm 2003 là 72,3 tuổi). Những thành tựu trên là do đường lối đổi mới của đảng, đảng bộ Thanh Hoá đã vận dụng sáng tạo đường lối của đảng vào điều kiện cụ thể của Thanh Hoá, khơi dậy phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù, truyền thống cách mạng, tinh thần làm chủ của các tầng lớp nhân dân tỉnh Than 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Trong năm học vừa qua tôi đã áp dụng việc thực hiện đề tài ở 1 số lớp tại trường THPT Đào Duy Từ và đã đạt được kết quả khả quan:  Đại đa số học sinh được tiếp thu kiến thức đều hiểu được: - Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. - Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công. - Đóng góp của nhân dân Thanh Hóa qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. 18 - Nhân dân Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh thực hiện công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu.  Học sinh hăng hái tham gia cuộc thi: “Tìm hiểu lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hóa”. Kết quả cụ thể: - 1 giải nhất: Em Nguyễn Bá Hà Anh - 2 giải nhì: Em Hoàng Lê Anh Minh Em Khương Khánh Ly - 1 giải ba: Em Hoàng Tiến Đạt - 2 giải khuyến khích: Em Nguyễn Trà My Em Lê Thu Hà  Đề tài có thể giúp đồng nghiệp trong tỉnh áp dụng làm giáo án dạy các tiết lịch sử địa phương của lớp 11 và lớp 12 theo phân phối chương trình hiện hành.  Đề tài cũng có thể sử dụng làm tài liệu ôn luyện cho học sinh, phục vụ kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh môn lịch sử.  Áp dụng đề tài SKKN vào việc tuyên truyền lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng cách mạng của nhân dân Thanh Hóa trong giảng dạy lịch sử và Giáo dục công dân ở các nhà trường theo công văn số 6155/UBND -VX ngày 01/6/2018 của UBND tỉnh về việc thực hiện Kế hoạch 87/KH-TU ngày 15/5/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, đưa nội dung lịch sử đảng bộ, truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hoá lồng ghép vào nội dung giáo dục lịch sử dân tộc, giáo dục công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh.  Đưa đề tài vào thực tế giảng dạy lịch sử địa phương trong nhà trường cũng là triển khai công văn số: 2519/KH- SGDĐT ngày 10 tháng 10 năm 2018 của Sở GD& ĐT Thanh Hóa 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 3.1. Kết luận “Tổ chức dạy lịch sử Đảng bộ và truyền thống cách mạng của nhân dân Thanh Hóa cho học sinh THPT qua tiết học lịch sử địa phương” là một đề tài thiết thực, có thể được đưa vào giảng dạy cho học sinh ở các trường THPT trong toàn tỉnh. 3.2. Kiến nghị - Nên tổ chức thêm các kỳ thi tìm hiểu về lịch sử địa phương cho học sinh. - Tạo điều kiện cho học sinh tham gia trải nghiệm thực tế tại các Di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh. Thanh Hóa, ngày 25 tháng 4 năm XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ. 2019. Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm của tôi là do tôi viết ra, không sao chép của người khác. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan