CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ TÁI BẢO HIỂM
1.1. Tổng quan về thị trường bảo hiểm
Có thể nói những hình thức sơ khai nhất của bảo hiểm được hình thành từ khá lâu
trong lịch sử loài người do nhu cầu khách quan của cuộc sống. Ngay từ thời kì cổ đại,
việc hình thành các kho dự trữ lương thực để phòng ngừa khả năng mất mùa hay chiến
tranh được xem như là những nền tảng cơ bản của hoạt động bảo hiểm.
Bảo hiểm hàng hải xuất hiện ở Châu Âu là loại hình bảo hiểm đầu tiên trên thế
giới. Sau khi các công ty bảo hiểm ra đời thì bên cạnh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải,
nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu của các công ty này là bảo hiểm hỏa hoạn do các ngôi nhà
vào đầu thế kỉ XVII hầu hết được xây bằng gỗ. Đến giữa thế kỉ XVII, người ta cũng
lập ra các quỹ tương hỗ để cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân thọ cho công chúng.
Ban đầu, hoạt động bảo hiểm ra đời với nhu cầu ổn định sản xuất kinh doanh với
chức năng chủ yếu là phòng ngừa khắc phục những rủi ro, mọi tai nạn bất ngờ. Người
ta chưa nghĩ tới các tổ chức bảo hiểm như là một tổ chức tài chính trung gian thì nay
các công ty bảo hiểm được coi như là một tổ chức tài chính vừa được coi là một công
ty hoạt động ở đa lĩnh vực.
Bảo hiểm có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, theo luật kinh
doanh bảo hiểm của Việt Nam (ban hành ngày 09/12/2000) thì “Kinh doanh bảo hiểm
là hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Bảo hiểm
được xem là một phương thức để xử lý rủi ro thông qua việc dự trữ đề phòng rủi ro,
chuyển giao, phân tán rủi ro nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất, đời sống và con
người trong xã hội. Ngày nay trên thế giới với một nền kinh tế thị trường phát triển thì
bảo hiểm thực sự đi vào từng lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội với các sản phẩm
hết sức đa dạng và phong phú.
1.2. Các khái niệm chung về nghiệp vụ tái bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm tái bảo hiểm
“Tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một
phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác;
trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm thông qua hợp
đồng tái bảo hiểm.” (Giáo trình nghiệp vụ bảo hiểm (2005), Trương Mộc Lâm, Học
viện Tài chính). Thực tế tái bảo hiểm được hình thành trên cơ sở bảo hiểm gốc nên nó
1
Thang Long University Library
luôn gắn liền với nghiệp vụ bảo hiểm gốc. Nói một cách khác, “Tái bảo hiểm là bảo
hiểm cho các nhà bảo hiểm”
Trong tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc (hay công ty nhượng tái bảo hiểm)
nhận bảo hiểm cho người tham gia, sau đó chuyển giao một phần rủi ro đã nhận bảo
hiểm cho các công ty nhận tái bảo hiểm (hay nhà tái bảo hiểm). Khi tổn thất xảy ra
thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc phải bồi thường cho người được bảo
hiểm trên cơ sở khả năng tài chính của mình, sau đó đòi lại phần trách nhiệm từ công
ty nhận tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm được chia thành hai phần tùy theo góc độ nghiên cứu là: Tái bảo
hiểm đi và Tái bảo hiểm nhận.
Tái bảo hiểm đi (Outward Reinsurance) hay còn gọi là nhượng tái bảo hiểm tức
là một công ty bảo hiểm gốc (là công ty khai thác dịch vụ bảo hiểm trực tiếp từ khách
hàng) phân tán rủi ro cho các công ty tái bảo hiểm. Trong trường hợp này công ty bảo
hiểm gốc phải chuyển bớt một phần phí cho các công ty tái bảo hiểm và nhận được từ
họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của mình.
Quá trình ngược lại được gọi là tái bảo hiểm nhận (Inward Reinsurance) hay còn
gọi là nhận tái bảo hiểm.
1.2.2. Sự cần thiết của tái bảo hiểm
Trước hết phải khẳng định rằng ngay từ khi con người biết sản xuất của cải, tạo
ra giá trị thặng dư đã có nhu cầu bảo đảm cho những rủi ro có thể gặp phải. Do đó
ngành bảo hiểm trên thế giới đã ra đời từ khá lâu. Trong thời kì hiện nay, khi việc sản
xuất ngày càng nhiều với khối lượng ngày càng lớn, những thiên tai, bệnh dịch, bất ổn
chính trị… xảy ra với tần suất nhiều hơn thì nhu cầu được bảo hiểm càng tăng cao.
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, một tổn thất dù xảy ra tại bất kỳ điểm
nào trên thế giới ngày càng phẳng này cũng có thể làm ngưng trệ cả chuỗi giá trị toàn
cầu. Điều đó lý giải tại sao quỹ bảo hiểm tại các nước phát triển nhất thế giới hiện nay
lên đến 10% GDP. Các công ty bảo hiểm được thành lập cũng đóng vai trò như các
doanh nghiệp với một số vốn nhất định và phải chịu những trách nhiệm với phần vốn
của mình đối với mọi hoạt động kinh doanh để đứng vững trên thương trường. Chính
vì thế các công ty bảo hiểm cũng phải gánh chịu những rủi ro khi chấp nhận tham gia
bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Một số những nguyên nhân chính như là:
Có những đối tượng tham gia bảo hiểm với số tiền tham gia bảo hiểm quá lớn
vượt quá khả năng tài chính của công ty bảo hiểm, do đó nếu chấp nhận rủi ro
và khi tổn thất xảy ra chắc chắn công ty sẽ chịu hậu quả nặng nề. Công tác
đánh giá kiểm soát rủi ro không hiệu quả, công tác chi trả, bồi thường cũng
2
không thể làm một cách chặt chẽ khi những rủi ro bảo hiểm xảy ra liên tục
trong thời gian ngắn.
Đối với công ty bảo hiểm mới thành lập, mạng lưới đại lý chưa rộng và thiếu
kinh nghiệm, các khâu chưa hoàn chỉnh cũng dễ bị phá sản.
Có những trường hợp phương pháp tính phí chưa thật chuẩn xác vì có những
rủi ro mới xuất hiện, ngành bảo hiểm chưa có số liệu thống kê đầy đủ hoặc
không đủ khả năng quản lý rủi ro nên chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu.
Do tác động của thiên tai, khí hậu do ảnh hưởng xấu của môi trường gia tăng
nên tiềm ẩn nhiều rủi ro ngày càng khó lường.
Để hạn chế những rủi ro mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể gặp phải mà vẫn bảo
đảm hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có giá trị bảo hiểm lớn thì thường có hai
hình thức cơ bản: Đồng bảo hiểm và Tái bảo hiểm.
So sánh giữa tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm.
Phương pháp thường được sử dụng để san sẻ những rủi ro trong các công ty bảo
hiểm là tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm. Mỗi phương pháp lại có những điểm giống và
khác, ưu và nhược điểm riêng như sau:
Giống nhau: Cả hai phương pháp đều là phương pháp phân tán rủi ro, chuyển
rủi ro có thể xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm sang người bảo hiểm
hoặc các nhà tái bảo hiểm.
Khác nhau:
Bảng 1.1: Bảng so sánh giữa đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm
Hình thức
Tiêu chí
Điểm xuất phát
Tính chịu trách
nhiệm
Các bên tham
gia
Khi có tổn thất
xảy ra
Tái bảo hiểm
Được xuất phát từ người bảo
hiểm.
Chỉ trịu trách nhiệm đối với công
ty bảo hiểm gốc.
Có thể chỉ cần một nhà tái bảo
hiểm hoặc nhiều hơn.
Có thể huy động vốn bồi thường
một cách nhanh chóng, công ty
tái bảo hiểm có thể trích trước để
giải quyết sự cố.
Đồng bảo hiểm
Xuất phát từ người tham gia.
Chịu trách nhiệm trước
người tham gia bảo hiểm.
Phải có ít nhất hai nhà bảo
hiểm trở lên.
Huy động vốn bồi thường rất
khó khăn và mất nhiều thời
gian gây khó khăn cho người
tham gia bảo hiểm.
1.2.3. Các hình thức của tái bảo hiểm
Đầu thế kỷ XIX, ngành Tái bảo hiểm đã bắt đầu phát triển nhanh chóng và nhiều
hình thức tái bảo hiểm mới được thiết lập.Trước đó, các nhà tái bảo hiểm chỉ áp dụng
3
Thang Long University Library
một hình thức tái bảo hiểm duy nhất đó là “Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn cho từng rủi
ro riêng biệt”. Trong lý thuyết cũng như trên thực tế, tái bảo hiểm được phân loại theo
ba hình thức: Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn, Tái bảo hiểm bắt buộc và Tái bảo hiểm lựa
chọnbắt buộc.
1.2.3.1. Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn (Facultative Reinsurance)
Là hình thức tái bảo hiểm đơn giản và cổ điển nhất. Với hình thức này, công ty
nhượng tái hoàn toàn có quyền chọn những rủi ro để đem nhượng tái và dĩ nhiên nhà
Tái bảo hiểm có quyền khước từ tham gia vào hợp đồng nếu họ không muốn.Thủ tục
để tiến hành thực hiện một hợp đồng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn bao gồm:
Trước hết công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó
mà họ cần tái bảo hiểm dưới hình thức một phiếu đề nghị (Slip), trong đó có
ghi các đặc điểm chính của rủi ro cần tái bảo hiểm.
Sau khi nhận được phiếu đề nghị này, nhà tái bảo hiểm có toàn quyền tự do
lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hay bằng một số tiền cố định
trên cơ sở rủi ro được đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của
mình thông thường bằng cách ghi trực tiếp vào bản thứ hai của phiếu đề nghị
và gửi trả lại công ty nhượng.
Nếu như đến ngày mãn hạn hợp đồng bảo hiểm gốc mà không có sự tái lập
hợp đồng dịch vụ tái bảo hiểm này cũng sẽ tự động chấm dứt hiệu lực. Tuy
nhiên trừ khi có sự giao kết nào khác, dù hợp đồng bảo hiểm gốc có tái lập thì
cũng không có nghĩa là nhà tái bảo hiểm buộc phải tiếp tục nhận hợp đồng tái
bảo hiểm cho thời kỳ kế tiếp, mà họ có quyền tự do lựa chọn tiếp tục nhận hay
từ chối không tham gia tiếp nữa.
Ưu điểm của hình thức này:
Giúp công ty nhượng có điều kiện để lùa chọn duy trì kim ngạch bảo hiểm của
mình được cân đối, tức là công ty nhượng có thể cải thiện sự may rủi trong
việc đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện qui định trong các hợp
đồng tái bảo hiểm của họ (như điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm
theo thang luỹ tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi…). Bên cạnh đó, vận may
rủi được chia sẻ giữa các bên là hoàn toàn khách quan, không gò ép bởi vậy
tạo điều kiện quan hệ lâu dài giữa công ty nhượng và tái bảo hiểm.
Giúp công ty nhượng có quyền chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm phục
vụ nhu cầu người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có thể không được
chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc truyền thống của mình,
chẳng hạn như: rủi ro động đất, bão lụt, đình công, bạo loạn, chiến tranh, nội
chiến…
4
Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn:
Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ chi tiết về nghiệp vụ bảo hiểm gốc, có
nghĩa là các nhà tái bảo hiểm có thể biết ý đồ bên trong của các hợp đồng gốc
lẫn kim ngạch bảo hiểm của công ty nhượng dẫn đến có thể bị tiết lộ thông tin
có lợi cho các đối thủ cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm gốc.
Không đảm bảo thời gian trong việc phân tán rủi ro tái bảo hiểm: Công ty
nhượng không có sự đảm bảo chắc chắn của thị trường tái bảo hiểm khi họ
nhận bảo hiểm cho một rủi ro nào đó, có thể giảm khả năng cạnh tranh, tính
năng động cũng như uy tín của họ.
Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được thực hiện với
mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt thủ tục phí tái bảo
hiểm. Ngoài ra khi thị trường tái bảo hiểm thế giới cung cầu đã bão hoà hay
khả năng tiếp nhận rủi ro của thị trường đã gần đạt tới mức tối đa, dày đặc thì
tái bảo hiểm theo hình thức này sẽ rất bị hạn chế.
Do những ưu và nhược điểm trên, hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn thường
được áp dụng trong những trường hợp sau:
Phát sinh các dịch vụ lớn, vượt khỏi giới hạn khống chế bởi hợp đồng nhận tái
bảo hiểm cố định do đó cần thiết phải thu xếp tái bảo hiểm cho phần vượt quá
này.
Tái bảo hiểm tạm thời cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ
nằm ngoài phạm vi khai thác thông thường theo yêu cầu đặc biệt của khách
hàng.
Có những trường hợp người được bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một
loại rủi ro nào đó và phải yêu cầu người nhận tái giúp đỡ. Khi đó người nhận
tái sẽ là người xác định mức phí, các điều khoản.
1.2.3.2. Tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory Reinsurance)
Hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là sự thoả thuận giữa công ty nhượng và nhà tái
bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất
cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy định trước trong hợp đồng cho tới
một hạn mức trách nhiệm ngang với số tiền hạn mức tối đa đã được thoả thuận từ
trước. Ngược lại công ty nhận tái bảo hiểm cũng phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi
ro đó. Với hình thức này công ty nhượng có toàn quyền tự do chấp nhận và định giá
phí bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro mà người được bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm và
không cần tham khảo trước ý kiến của công ty nhận tái bảo hiểm.
5
Thang Long University Library
Thủ tục thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc:
Công ty nhượng gửi cho nhà tái bảo hiểm những số liệu thống kê về những
rủi ro (Số lượng, số tiền bảo hiểm, tổn thất…) thuộc loại hình dịch vụ dự định
tái bảo hiểm bằng hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc.
Các bên sẽ trao đổi đàm phán các chi tiết của hợp đồng: phạm vi bảo vệ, các
điều khoản hợp đồng…Nếu chấp nhận, nhà tái bảo hiểm sẽ xác nhận bằng văn
bản việc nhận tái bảo hiểm cho mọi đơn vị rủi ro mà công ty nhượng tái theo
nghĩa vụ đã thoả thuận.
Ưu điểm:
Hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc phải giảm đáng kể các chi phí hành chính,
đồng thời tạo thuận lợi cho công tác quản lý nghiệp vụ.
Công ty nhượng chủ động trong cung cấp dịch vụ mà không phụ thuộc vào
công ty nhận tái bảo hiểm.
Nhược điểm:
Đối với công ty nhượng còn non trẻ, mới thành lập, khả năng tài chính còn
yếu kém, bao giờ cũng gặp nhiều bất lợi khi thoả thuận. Mặt khác khi tái bảo
hiểm theo hình thức này, công ty nhượng phải đem tái đi mọi đơn vị rủi ro
ngay cả đối với những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ nằm trong khả
năng tài chính cho phép.
Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất trong việc ký kết hợp
đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà tái bảo hiểm rất khó lường
trước được.
Chính từ những ưu nhược điểm trên mà trong thực tế, hình thức tái bảo hiểm cố
định được áp dụng rất phổ biến trong nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau như
trong bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng không.
1.2.3.3. Tái bảo hiểm lựa chọnbắt buộc (Facobli Reinsurance)
Tái bảo hiểm lựa chọnbắt buộc là một hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng
thường cố gắng thu xếp mỗi khi những rủi ro cần tái bảo hiểm trong một ngành kinh tế
lên đến một mức độ nào đó. Trong hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng không
bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình khai thác được, nhưng ngược lại
nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thoả
thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản
đã quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm đã ký kết. Như vậy so với hình thức tái bảo
hiểm tuỳ ý lựa chọn thì nhà tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền từ chối nhận
những rủi ro mà họ không mong muốn.
6
Ưu điểm:
Rất phù hợp với công ty nhượng mới thành lập, khả năng tài chính còn yếu
kém, quan hệ hạn hẹp.
Giúp công ty nhượng có thể lựa chọn những rủi ro vượt quá khả năng tự giữ
lại của mình để đem tái cho một nhà tái bảo hiểm duy nhất hay một số ít các
nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì phải tái đi tất cả mọi đơn vị rủi ro như
trong hình thức tái bảo hiểm bắt buộc.
Do nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng tái
cho nên công ty nhượng luôn có sự đảm bảo chắc chắn trong thu xếp tái bảo
hiểm với chi phí ít tốn kém. Mặt khác, nhà tái bảo hiểm cũng có điều kiện tăng
thu nhập từ nguồn phí nhận tái bảo hiểm lớn.
Nhược điểm:
Nhà tái bảo hiểm bị bất lợi do không có quyền từ chối những rủi ro mà một
khi công ty nhượng đã lựa chọn tái.
Hình thức này đôi khi gây ra trường hợp công ty nhượng cố tình đưa vào hợp
đồng những rủi ro không hợp lý, phí thấp…hoặc có tư tưởng ỷ lại, không chú
trọng trong khâu đánh giá rủi ro, từ đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới kết
quả kinh doanh của công ty nhận.
Nếu công ty nhượng gặp phải nhà tái bảo hiểm mà hoạt động kinh doanh của
họ đang trong giai đoạn khó khăn hoặc thị trường tái bảo hiểm cung vượt quá
cầu thì mức phí cũng như hoa hồng tái bảo hiểm phải thoả thuận lại, do đó
phần nào cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty nhượng.
1.3. Các phương thức tái bảo hiểm.
1.3.1. Tái bảo hiểm theo tỷ lệ
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ hay còn gọi là tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm, là
phương thức tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng tái bảo hiểm
và nhà tái bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo tỷ lệ tham gia
của mỗi bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm. Phương thức này được chia làm hai loại
như sau:
Tái bảo hiểm số thành (phân ngạch)
Tái bảo hiểm mức dôi (thặng dư vốn)
1.3.1.1. Tái bảo hiểm số thành
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất định so
với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Do đó, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm cũng
7
Thang Long University Library
được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm theo tỷ lệ tương ứng. Nếu số
tiền tái đi quá nhiều công ty nhượng có thể tìm kiếm nhiều nhà tái bảo hiểm khác nhau
để đảm bảo phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp công ty ổn định kinh doanh. Trong tái bảo
hiểm số thành các bên tham gia hợp đồng cũng có thể đưa ra một giới hạn nhất định.
Căn cứ vào giới hạn này buộc công ty nhượng phải tìm kiếm những bạn hàng mới
Ưu điểm:
Là phương pháp tái bảo hiểm đơn giản, dễ tính toán, chi phí quản lý tiết kiệm.
Đối với các nhà tái bảo hiểm, phương pháp này có tính cân đối và dễ chấp
nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm khác vì rủi ro phân tán dễ hơn so với các
phương pháp khác. Đặc biệt nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham gia vào mọi
đơn vị rủi ro. Đồng thời công ty nhượng hoàn toàn yên tâm khi khách hàng
tham gia bảo hiểm gốc chuyển giao rủi ro cho mình.
Thủ tục phí tái bảo hiểm (hoa hồng tái bảo hiểm) của dạng này là cao nhất.
Nhược điểm:
Ít nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh thu của công ty nhượng.Vì tất cả
các đơn vị rủi ro đều đem tái đi nên công ty nhượng không giữ lại cho mình
những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm mà khả năng tài chính của mình hoàn
toàn cho phép.
Không lường trước được mức độ biến thiên của số tiền bảo hiểm và số tiền bồi
thường.
1.3.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi
Đặc trưng của của tái bảo hiểm mức dôi là công ty nhượng ấn định mức giữ lại,
phần còn lại đem tái cho công ty khác. Trong tái bảo hiểm mức dôi trách nhiệm của
người nhận được xác nhận theo lớp, tức là bội số của mức giữ lại. Do đó, phí bảo hiểm
và số tiền bảo hiểm bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng giữa công ty
nhượng và nhà tái bảo hiểm.
Ưu điểm:
Phương thức này có nhiều điểm tích cực hơn so với tái bảo hiểm số thành.
Thứ nhất là người nhượng có thể chủ động tính toán và giữ lại được một cách
ổn định số phí cho phù hợp với khả năng tài chính của mình.
Thứ hai là đối với những hợp đồng có số tiền bảo hiểm nhỏ thì người nhượng
có thể được giữ lại toàn bộ. Khác với tái bảo hiểm số thành, người nhận tái
trong tái bảo hiểm theo mức dôi sẽ không tham gia vào mọi đơn vị rủi ro mà
8
chỉ can thiệp khi đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm lớn hơn mức giữ lại của
người nhượng.
Nhược điểm:
Nhìn chung chi phí quản lý tốn kém hơn so với phương pháp số thành.
Những tổn thất nhỏ phần lớn rơi vào công ty nhượng phải gánh vác.
Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà sự biến thiên về số tiền bảo hiểm, số
tiền bồi thường quá lớn thì áp dụng phương pháp mức dôi sẽ có nhiều hạn chế
rơi vào công ty nhượng.
1.3.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành mức dôi
Với hình thức này thì việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên được
tiến hành theo trình tự từng hợp đồng. Trước hết tiến hành phân bổ cho hợp đồng mức
dôi. Kết hợp giữa hình thức tái bảo hiểm số thành và tái bảo hiểm mức dôi có tác dụng
làm giảm nhẹ trách nhiệm của hợp đồng số thành, đồng thời công ty nhượng phải lo
thu xếp tái bảo hiểm tạm thời.
Xét về mặt kỹ thuật, phải phân bổ theo hợp đồng số thành trước sau đó mới phân
bổ theo hợp đồng mức dôi. Nếu số tiền bảo hiểm còn dư thừa, nhìn chung đều quay về
công ty nhượng gánh vác toàn bộ trừ trường hợp công ty nhượng tìm được một đối tác
mới tin cậy và kí kết với họ những hợp đồng tạm thời.
Ưu điểm của phương pháp tái bảo hiểm kết hợp số thành, mức dôi là giúp công
ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo hiểm cho khách hàng
một cách tự do mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân mình. Bên cạnh đó
cũng giúp công ty nhượng kinh doanh ổn định hơn, đặc biệt là quan hệ trên thị trường
tái bảo hiểm rộng lớn để từ đó học tập kinh nghiệm của họ.
Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là chi phí hành chính tốn kém, phức
tạp hơn so với những hợp đồng thuần tuý. Hơn nữa, hoa hồng công ty nhượng thu
được từ hợp đồng mức dôi thường thấp hơn so với hợp đồng số thành trong dạng kết
hợp này và so với hợp đồng mức dôi thuần tuý. Ngoài ra phần đem tái bảo hiểm cho
hợp đồng mức dôi bao giờ cũng phải có bảng thông báo cụ thể.
1.3.2. Tái bảo hiểm phi tỷ lệ
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ hay còn gọi là tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo hiểm,
là một phương thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái bảo hiểm ấn định
giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất, là hậu
quả của từng sự cố đối với một hoặc nhiều loại bảo hiểm mà mình đảm trách, còn phần
tổn thất vượt quá mức giới hạn đó được chuyển cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu. Các
phương thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan đến các mức tỷ lệ của giá trị đối tượng
9
Thang Long University Library
chịu rủi ro. Trong khi các phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ nhìn nhận theo cách khác
và được dựa trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm. Có ba phương thức
tái bảo hiểm cơ bản sau:
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường.
Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.
Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi và vượt mức bồi thường
1.3.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường
Theo phương thức này, công ty nhượng ấn định số tổn thất vượt quá điểm tự bồi
thường chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm, và nhà tái bảo hiểm nhận tái theo từng lớp.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có các dạng sau:
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai hoạ khốc liệt.
1.3.2.2. Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường
Theo phương thức này, công ty nhượng khống chế trách nhiệm bồi thường một
tỷ lệ nhất định, tỷ lệ bồi thường vượt quá mức quy định được chuyển giao cho nhà tái
bảo hiểm. Phương pháp này giúp cho công ty nhượng chống lại sự gia tăng đột biến
của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay một dạng dịch vụ bảo hiểm nào đó
trong một thời gian quy định, bất luận tình trạng đó do nguyên nhân nào xảy ra.
Số tiền bồi thường
Tỷ lệ bồi thường =
x100%
Phí thu
1.3.2.3. Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi và vượt mức bồi thường
Theo phương thức này việc phân chia trách nhiệm ban đầu được tiến hành cho
hợp đồng mức dôi trước. Khi tổn thất xảy ra các nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi
thường sẽ bảo vệ cho công ty nhượng hoặc công ty nhận tái bảo hiểm mức đòi tuỳ theo
yêu cầu, và công ty nào được bảo vệ thì công ty đó phải nộp phí đặt cọc. Nếu năm sau
đó tổn thất không xảy ra, công ty được bảo hiểm không được đòi lại khoản phí này.
Phương pháp này có tác dụng làm giảm nhẹ trách nhiệm cho công ty nhượng hay công
ty nhận tái bảo hiểm mức dôi khi có tổn thất lớn xảy ra. Đồng thời phương pháp này
cũng có tác dụng đối với công ty mới thành lập, ít kinh nghiệm. Hơn nữa phương pháp
này còn rất phù hợp với những nghiệp vụ tái bảo hiểm ngắn hạn, giúp công ty nhượng
tái bảo hiểm mức dôi không phải mở những hợp đồng tạm thời vào dịp cuối năm
nghiệp vụ.
10
1.4. Nội dung thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm trong doanh nghiệp
1.4.1. Định nghĩa hợp đồng tái bảo hiểm
" Hợp đồng tái bảo hiểm” là thoả thuận được ký kết giữa công ty nhượng và nhà
tái bảo hiểm, trong đó nhà tái bảo hiểm cam kết bồi thường phần trách nhiệm mà công
ty nhượng phải gánh chịu trong hợp đồng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với điều kiện
công ty nhượng phải chuyển giao một số phí bảo hiểm tương ứng với mức trách nhiệm
của nhà tái bảo hiểm” (Giáo trình nghiệp vụ bảo hiểm (năm 2005), Trương Mộc Lâm,
Học viện Tài chính).
Nhà tái bảo hiểm cam kết bồi thường cho công ty nhượng với điều kiện công ty
nhượng chuyển giao một số phí tương ứng cho nhà tái bảo hiểm mà không được yêu
cầu bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Có thể bồi thường toàn bộ hoặc một phần
đối với trách nhiệm mà công ty nhượng phải gánh chịu, còn công ty nhượng phải gánh
chịu toàn bộ và duy nhất đối với bên mua bảo hiểm trong trường hợp bảo hiểm gốc.
Như vậy, hợp đồng tái bảo hiểm là hợp đồng riêng biệt giữa nhà tái bảo hiểm và
công ty nhượng còn người được bảo hiểm tham gia vào hợp đồng này và do đó không
được đòi nhà tái bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho mình mà chỉ được đòi người bảo
hiểm (công ty nhượng).
1.4.2. Các hình thức của hợp đồng tái bảo hiểm
1.4.2.1. Hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc (Obigtory reinsurence)
Đây là thoả thuận giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm trong đó công ty
nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm
gốc mà hai bên đã thoả thuận từ trước. Ngược lại nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải nhận
toàn bộ tất cả các đơn vị rủi ro đó. Công ty nhượng toàn quyền trong việc chấp nhận
bảo hiểm gốc, định phí... mà không phải tham khảo ý kiến của nhà tái bảo hiểm. Đây
là tái bảo hiểm ràng buộc các bên một cách chặt chẽ.
1.4.2.2. Hợp đồng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn (Facultative reinsurance)
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản nhất, theo đó công ty nhượng toàn quyền
lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và công ty nhận có quyền được nhận hay từ chối
rủi ro đó.
1.4.2.3. Hợp đồng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn bắt buộc (Fucultative –Obligatory
reinsurance)
Đây là hình thức kết hợp của cả hai hình thức trên. Theo đó công ty nhượng
không bắt buộc phải nhượng tất cả các rủi ro bảo hiểm đã nhận, ngược lại nhà tái bảo
hiểm bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng chuyển giao. Mỗi hình
thức hợp đồng yêu cầu công ty nhượng thông báo những thông tin khác nhau. Nếu
11
Thang Long University Library
người bảo hiểm cung cấp thông tin không chính xác về rủi ro bảo hiểm đã được chấp
nhận trong hợp
iểm.
Thủ tục phí theo thang luỹ tiến: Với loại hình này, thủ tục phí tăng giảm theo
tỷ lệ bồi thường, mỗi công ty đều có đồng tái bảo hiểm gốc và là cơ sở để xây dựng
hợp đồng tái bảo hiểm thì nhà tái bảo hiểm có quyền từ chối trách nhiệm bồi thường
khi phát hiện ra sự thiếu trung thực đó.
1.4.3. Những nội dung cơ bản trong hợp đồng tái bảo hiểm
1.4.3.1. Hoa hồng tái bảo hiểm Thủ tục phí (commision)
Thủ tục phí tái bảo hiểm (hoa hồng tái bảo hiểm) là một khoản tiền tái bảo hiểm
mà người nhận tái bảo hiểm trả cho công ty nhượng khi họ nhận tái bảo hiểm của công
ty nhượng. Thủ tục phí này nhằm mục đích chi phí cho điều hành dịch vụ của công ty
nhượng, nó được tính toán trên cơ sở tỷ lệ bồi thường của dịch vụ bảo hiểm tỷ lệ.
Các loại thủ tục phí thường có 3 loại như sau:
Thủ tục phí cố định: Theo loại hình này nhà tái bảo hiểm trả cho công ty
nhượng theo một tỷ lệ cố định của số phí tái bảo hmột bảng thủ tục phí theo
thang luỹ tiến riêng. Chúng ta có thể tham khảo thang luỹ tiến theo tỷ lệ 12, có
ý nghĩa là tỷ lệ thủ tục phí tăng 1% khi tỉ lệ bồi thường giảm 2%, như sau:
Bảng 1.2: Thủ tục phí theo thang lũy tiến
Tỷ lệ bồi thường
Tỷ lệ thủ tục phí
75%
73%
20%
21%
71%
69%
67%
65%
63%
22%
23%
24%
25%
26%
61%
59%
57%
= <55%
27%
28%
29%
30%
(Nguồn: Phòng tài chính kế hoạch)
Tỷ lệ thủ tục phí thấp nhất là 20%,
12
Cuối mỗi kỳ, thủ tục phí tái bảo hiểm sẽ được tính lại và điều chỉnh lại theo tỷ lệ
của thang luỹ tiến trên cơ sở bồi thường của năm nghiệp vụ.
Tổn thất phải bồi thường
100 %.
Tỷ lệ bồi thường thuần tuý =
Phí thực thu
Thủ tục phí theo lãi:
Đây là phí được tính toán phụ thêm cho hoa hồng cố định. Theo phương pháp
này, nhà tái bảo hiểm phải trả thêm cho công ty nhượng một khoản lợi nhuận nhất định
được tính bằng tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận thực tế mà nhà tái bảo hiểm được hưởng
khi kết quả của hợp đồng tái bảo hiểm có lãi.
1.4.3.2. Phí tạm giữ
Phí tạm giữ là khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng có thuận lợi trong
việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc trước khi quyết toán đòi bồi
thường của nhà tái bảo hiểm. Mức phí tạm giữ là bao nhiêu và thời gian tạm giữ là bao
lâu còn tuỳ thuộc vào luật lệ của từng nước. Thông thường khoản dự phòng này được
tính bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của phí tái bảo hiểm toàn phần ( trong khoảng từ
30 % – 40 %)
Trong trường hợp nhà tái bảo hiểm không tiếp tục tham gia hợp đồng năm sau thì
phí tạm giữ sẽ được giải quyết như sau:
Hoặc tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi ro còn hiệu lực cho đến khi
chấm dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm nghiệp vụ bảo hiểm
đó.
Hoặc chuyển giao toàn bộ phần trách nhiệm còn tồn tại sang cho các nhà tái
bảo hiểm mới cho năm tới.
1.4.3.3. Bồi thường tạm giữ
Đây là khoản tiền mà công ty nhượng tính toán trên cơ sở những vụ tổn thất đã
xảy ra nhưng chưa được giải quyết trong năm. Khoản tiền này công ty nhượng sẽ giữ
lại mà không thanh toán cho người tham gia bảo hiểm vào thời điểm quyết toán năm
tài chính. Mục đích là để thanh toán cho các vụ tổn thất trong các kỳ tiếp theo.
Phần bồi thường tạm giữ cũng phụ thuộc vào 3 yếu tố là khả năng và tiến độ bồi
thường của các nhà tái bảo hiểm cho công ty nhượng, quy mô mức độ tổn thất cũng
như những dự báo tổn thất cho thời gian còn lại của chu kỳ sau, khả năng tài chính và
thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm.
13
Thang Long University Library
1.4.3.4. Bồi thường trả ngay
Đây là khoản tiền bồi thường mà nhà tái bảo hiểm phải thanh toán ngay cho công
ty nhượng. Khoản tiền này không dùng để đối trừ trong các kỳ thanh toán mà phải
thanh toán ngay. Thông thường thời gian thanh toán trong vòng 15 ngày từ khi nhận
được thông báo của công ty nhượng.
Khoản tiền này hoàn toàn phụ thuộc vào các qui định của nội bộ giữa các công ty
bảo hiểm chứ không lệ thuộc vào pháp luật. Tuy nhiên, thông thường các công ty
nhượng quy định từ 50 – 70 % số tiền bồi thường.
1.4.4. Một số nguyên tắc về pháp lý của hợp đồng Tái bảo hiểm
Nguyên tắc đầu tiên được xác lập cho hợp đồng Tái bảo hiểm là: Hợp đồng tái
bảo hiểm chỉ có thể được thực hiện và tồn tại khi có một hợp đồng bảo hiểm đang có
hiệu lực hay nói cách khác là không thể có hợp đồng tái bảo hiểm nếu không có hợp
đồng bảo hiểm gốc. Có một định nghĩa rất cổ điển về tái bảo hiểm do luật gia nổi tiếng
Lord Man Field’s đưa ra vào năm 1807: “Tái bảo hiểm là một sự đảm bảo mới, bị chi
phối bởi một đơn bảo hiểm mới, cho cùng một rủi ro đã được bảo hiểm trước, nhằm
bồi thường cho người bảo hiểm theo mức thoả thuận và cả hai đơn bảo hiểm phải tồn
tại đồng thời”. Định nghĩa này chỉ rõ rằng:
Hợp đồng tái bảo hiểm cũng mang đầy đủ tính chất như một hợp đồng bảo
hiểm.
Người được bảo hiểm gốc là bên thứ ba trong hợp đồng tái bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm gốc và hợp đồng tái bảo hiểm phải tồn tại song song.
Như vậy có nghĩa là nếu công ty nhận tái bảo hiểm bị phá sản thì công ty nhượng
tái bảo hiểm vẫn có trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên đơn bảo
hiểm. Nhưng nếu công ty nhượng tái bị phá sản thì người được bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm gốc không có quyền khiếu nại đối với công ty nhận tái bảo hiểm. Tuy
nhiên, hệ thống luật AnhMỹ vẫn cho phép người được bảo hiểm gốc có quyền được
hưởng bồi thường trực tiếp từ người nhận tái bảo hiểm trong một số trường hợp đặc
biệt nhưng phải có điều khoản “Cutthrough clause” trong hợp đồng tái bảo hiểm.
Điều khoản này cho phép người được bảo hiểm gốc có thể yêu cầu một cách trực tiếp
với công ty nhận tái bảo hiểm thanh toán một phần tổn thất trong trường hợp công ty
bảo hiểm gốc không có khả năng thanh toán hoặc bị phá sản.
Mọi nguyên tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng Bảo hiểm cũng đều được áp dụng
tương tự cho hợp đồng tái bảo hiểm giữa công ty nhượng và công ty nhận tái bảo
hiểm.
14
Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối (The atmost of good faith): Đây là nét cơ bản
đặc trưng trong tái bảo hiểm. Trong hợp đồng Tái bảo hiểm, nguyên tắc này
phải đặc biệt được tôn trọng. Cụ thể là công ty nhượng tái phải cung cấp đầy
đủ mọi thông tin liên quan tới đối tượng bảo hiểm cho công ty nhận tái biết,
nếu có rủi ro xảy ra thì phải thông báo và tính toán tổn thất một cách trung
thực. Ngược lại công ty nhận tái cũng phải trung thực trong việc đưa ra những
thống kê tổn thất trên thị trường thế giới để tính đúng phí Tái bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường (Principle of indemnity): Chỉ trừ khi có quy định khác
trong hợp đồng tái bảo hiểm, thì nguyên tắc này cho phép công ty nhượng tái
được toàn quyền hành động trong việc giải quyết khiếu nại. Kết quả của việc
giải quyết khiếu nại đó sẽ được các công ty nhận tái chấp thuận. Tuy nhiên
theo nguyên tắc này khi công ty nhượng tái muốn đòi bồi thường từ công ty
nhận tái thì phải chứng minh được tổn thất rơi vào phạm vi hợp đồng tái bảo
hiểm. Cách thức tính toán và thanh toán bồi thường tuỳ thuộc vào từng
phương thức tái bảo hiểm và điều khoản thanh toán được quy định trong hợp
đồng.
1.4.5. Quy trình đòi bồi thường giữa công ty nhượng tái bảo hiểm và công ty nhận
tái bảo hiểm
Khi có phát sinh tổn thất trong những rủi ro xảy ra, việc đòi bồi thường của công
ty nhượng tái bảo hiểm với công ty nhận tái bảo hiểm được tiến hành như sau; trong
đó công ty nhượng tái bảo hiểm phải tiến hành bồi thường.
Khi xảy ra sự cố đối với đối thượng được bảo hiểm, công ty nhượng tái nhanh
chóng gửi thông báo sơ bộ về sự cố cho công ty nhận tái bảo hiểm được biết. Sau đó,
công ty nhượng tái bảo hiểm phải chuyển cho công ty nhận tái bảo hiểm biên bản giám
định điều tra sự cố của giám định viên xác nhận sự cố đối với đối tượng được bảo
hiểm của chính quyền nơi xảy ra sự cố.
Trong quá trình tiến hành giám định đối với những thiệt hại của đối tượng được
bảo hiểm, công ty nhượng tái bảo hiểm phải thường xuyên báo về kết quả điều tra tính
toán tổn thát, tính toán phần thu hồi, cũng như gửi các biên bản giám định cho công ty
nhượng tái bảo hiểm được biết. Sau khi kết thúc giám định, công ty nhượng tái bảo
hiểm gửi một văn bản thông báo cuối cùng cho công ty nhận tái bảo hiểm trong đó bao
gồm đầy đủ các thông tin về đối tượng bảo hiểm, sự cố, tính toán tổn thất, số tiền bồi
thường, phần thu hồi...Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ bao gồm toàn bộ hồ sơ thông báo
và biên bản, cũng như đối chiếu với các điều kiện trong hợp đồng tái bảo hiểm, công
ty nhận tái bảo hiểm sẽ quyết định chấp nhận thanh toán và bồi thường cho công ty
nhượng tái bảo hiểm hay không.
15
Thang Long University Library
Thông thường, đối với hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời, hoặc các vụ tổn thấn có
số tiền bồi thường lớn, các công ty nhận tái bảo hiểm sẽ thanh toán số tiền bồi thường
ngay sau khi hoàn thành các thủ tục liên quan đến việc đòi bồi thường. Đối với những
tổn thất nhỏ, dưới mức đòi bồi thường được quy định trong hợp đồng tái bảo hiểm cố
định, số tiền bồi thường sẽ được hai bên tính toán và thanh toán vào cuối mỗi quý.
1.4.6. Các bước ký kết hợp đồng tái bảo hiểm
1.4.6.1. Ký kết hợp đồng tái bảo hiểm qua môi giới
Hoạt động chủ yếu trên thị trường tái bảo hiểm hiện nay đều thực hiện thông qua
môi giới, do vậy các bước thu xếp hợp đồng đều do môi giới đảm nhận. Bao gồm các
bước như sau:
Bước 1: Công ty nhượng tái bảo hiểm gửi đơn chào tái cho môi giới hoặc gửi nội
dung để môi giới thảo đơn chào. Đơn chào tái bảo hiểm phải bao gồm những điều
khoản cơ bản nhất của hợp đồng tái bảo hiểm. Điều quan trọng là môi giới có chấp
nhận mức phí tái bảo hiểm và hoa hồng tái bảo hiểm đưa ra hay không. Vì nếu hoa
hồng cao cộng với phí môi giới sẽ không hấp dẫn đối với với các công ty nhận tái bảo
hiểm. Ở đây, môi giới thay mặt cho công ty nhận tái bảo hiểm quyết định có đồng ý
với đơn chào hay phải thoả thuận lại.
Bước 2: Môi giới tái bảo hiểm sẽ chào tái bảo hiểm tới nhiều công ty bảo hiểm
và tái bảo hiểm khác trên thị trường. Môi giới tái bảo hiểm phải là người có quan hệ
rộng rãi thì mới biết được ai là người có khả năng đứng đầu nhận tái bảo hiểm vì một
người đứng đầu nhận tái bảo hiểm có kinh nghiệm và có uy tín sẽ dễ dàng cho việc thu
xếp hoạt động khác trong đơn chào. Sau đó môi giới sẽ tiếp tục chào tái bảo hiểm tới
nhiều công ty khác, công ty nào đồng ý với các điều khoản của đơn chào thì sẽ nhận
một phần trách nhiệm thông báo danh sách các công ty nhận tái bảo hiểm cùng với
mức trách nhiệm của họ cho người đứng đầu nhận tái bảo hiểm và cho công ty nhượng
tái bảo hiểm biết. Nếu đồng ý thì công ty nhượng tái bảo hiểm sẽ xác nhận lại.
Bước 3: Môi giới tái bảo hiểm sẽ lập ra bản ghi chú trong đó ghi lại tất cả những
điều khoản trong đơn chào đã được các bên đồng ý và gửi lại bản ghi chú này cho tất
cả các bên có liên quan.
Bước 4: Môi giới sẽ thảo ra một văn bản hợp đồng tái bảo hiểm (Reinsurance
Contract) bao gồm tất cả các điều khoản như trong bản ghi chú hoặc đã được sửa đổi
và gửi cho công ty nhượng và các công ty nhận tái bảo hiểm. Các công ty này đều ký
tên vào trang cuối cùng của hợp đồng và gửi lại môi giới. Như vậy, hợp đồng tái bảo
hiểm đã có hiệu lực.
16
1.4.6.2. Ký kết hợp đồng tái bảo hiểm trực tiếp
Việc kí kết hợp đồng tái bảo hiểm trực tiếp hiện nay ở nước ta diễn ra khá ít, do
các bên tự quy định với nhau trong hợp đồng và chịu trách nhiệm rủi ro theo tỉ lệ quy
định.
1.5. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động tái bảo hiểm
Trong hoạt động bảo hiểm có những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của
dịch vụ. Đó là những nhóm chỉ tiêu về hoạt động khai thác nghiệp vụ ( tỉ lệ duy trì hợp
đồng, khai thác mới, về tỉ lệ đại lý bảo hiểm…), nhóm chỉ tiêu về dự phòng và biên
khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về tài chính đầu tư... Đối với nghiệp vụ tái bảo
hiểm thì các tiêu chí đánh giá thông qua những chỉ số về doanh thu phí bảo hiểm
nhượng tái, mức thu phí bảo hiểm giữ lại, tỷ lệ phí nhượng tái.
Theo thông tư TT 98/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 quy định chi tiết về việc
việc thu xếp tái bảo hiểm ra nước ngoài, các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được phép
TBH với những công ty đáp ứng yêu cầu có năng lực tài chính và khả năng hoạt động
trên thị trường, công ty nhận tái bảo hiểm phải được xếp hạng tối thiểu BBB theo
Standard & Poor‘s , B++ theo A.M .Best, “Baa” theo Moody‘s hoặc các kết quả xếp
hạng tương đương tại năm tài chính gần nhất so với thời điểm giao kết hợp đồng tái
bảo hiểm.
Thông tư 155/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 – NĐ 45/2007/NĐ- CP quy định
lãnh đạo doanh nghiệp phải phê chuẩn chương trình tái bảo hiểm và giữ lại mức trách
nhiệm tối đa trên mỗi rủi ro, trên mỗi tổn thất riêng lẻ không quá 10% vốn chủ sở hữu
Phần trách nhiệm vượt quá tỉ lệ 10% nói trên phải nhượng tái bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm không được nhận tái bảo hiểm đối với những rủi
ro đã nhượng tái bảo hiểm tránh việc tạo doanh thu phí tái bảo hiểm ảo, tạo số
liệu thống kê.
Hiện nay, một trong những công thức được sử dụng nhiều trong hoạt động đánh
giá về chất lượng nghiệp vụ tái bảo hiểm được sử dụng hiện này là:
1.5.1. Chỉ tiêu tỷ lệ tái bảo hiểm
Công thức tính:
Doanh thu nhận tái bảo hiểm (1)
Tỷ lệ tái bảo hiểm =
=
Doanh thu phí bảo hiểm (2)
Nguồn số liệu:
(1) Doanh thu nhận tái bảo hiểm trên kết Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
(2) Doanh thu phí bảo hiểm trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
17
Thang Long University Library
Ý nghĩa:
Việc đánh giá chỉ tiêu này nhằm xem xét mức độ tái bảo hiểm của doanh nghiệp
trong năm, mức độ trợ vốn từ nhà tái bảo hiểm, từ đó thấy được năng lực tài chính của
doanh nghiệp, sự thay đổi của chính sách tài chính, cơ cấu sản phẩm của doanh
nghiệp.
1.5.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tái bảo hiểm
Công thức tính
Thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm + Thu hoa hồng
Tỷ lệ đánh giá hiệu
quả tái bảo hiểm
=
nhượng tái bảo hiểm trong năm (1)
Phí nhượng tái bảo hiểm (2)
Nguồn số liệu:
(1) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
(2) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Ý nghĩa
Việc đánh giá chỉ tiêu này nhằm đánh giá hiệu quả tái bảo hiểm của Công ty, cho
thấy việc quản lý chương trình tái bảo hiểm có đem lại hiệu quả cho Công ty hay
không.
18
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ TÁI BẢO HIỂM TẠI CÔNG TY C
HIỂM NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP ( ABIC)
PH N BẢO
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
2.1.1. Giới thiệu chung về công ty
Tên giao dịch tiếng Việt: Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp
Tên giao dịch tiếng Anh: Agriculture Bank Insurance JointStock Corporation
Tên gọi tắt: Bảo hiểm Ngân Hàng Nông Nghiệp
Viết tắt: ABIC
Trụ sở chính: Tầng 6, tòa nhà 29T1, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, Hà Nội.
ĐT: 04.37622555Fax: 04.37622055
Mã số thuế :
0102183722
Giấy phép hoạt động Số 38GP/KDBH ngày 18/10/2006 do Bộ Tài Chính cấp.
Website: www.abic.com.vn
Slogan: “Giữ uy tín để vươn tới thành công”
Vốn điều lệ: 380.000.000 (Ba trăm tám mươi tỷ đồng chẵn) tính đến ngày
31/12/2013
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Thực hiện chiến lược đưa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt
Nam trở thành một tập đoàn tài chính Ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam và lớn mạnh
trong khu vực với cấu trúc đa sở hữu, hoạt động kinh doanh đa dạng và có khả năng
cung cấp hệ thống sản phẩm dịch vụ tài chính ngày càng hoàn hảo cho nền kinh tế xã
hội. Ban lãnh đạo NHNN& PTNT Việt Nam đã quyết định mở rộng kinh doanh sang
lĩnh vực Bảo hiểm phi nhân thọ bằng việc đề xướng thành lập công ty Bảo hiểm Ngân
hàng Nông nghiệp (ABIC) chủ trương này đã được chấp nhận của bộ tài chính, Ngân
hàng Nhà nước. Ngày 18/10/2006, Bộ trưởng Bộ tài chính đã cấp phép thành lập và
hoạt động số 38 GP/KDBH về việc thành lập Công ty bảo hiểm Ngân Hàng Nông
nghiệp (ABIC).
Sau một thời gian dài chuẩn bị cơ sở vật chất, tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán
bộ và đại lý, sắp xếp hoàn thịên cơ cấu bộ máy, công ty đã long trọng tổ chức lễ khai
trương vào ngày 08/08/2007. Như vậy công ty Bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp đã
chính thức đi vào hoạt động kinh doanh, tham gia vào thị trường bảo hiểm phi nhân
thọ và sẵn sàng phục vụ nhu cầu bảo hiểm Phi nhân thọ của khách hàng trên phạm vi
cả nước.
19
Thang Long University Library
Vốn góp của cổ đông vào ABIC:
Ngân hàng NN& PTNT Việt Nam: 181,678 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 47,81%)
Công ty Tái BH Quốc gia Việt Nam: 38 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 10%)
Công ty cho thuê Tài chính I:
24,7 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 6,5%)
Công ty cho thuê Tài chính II:
24,7 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 6,5%)
Các tổ chức, cá nhân khác:
110,922 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 29,19%)
Với vốn điều lệ 380 tỷ cùng với thế mạnh của các cổ đông sáng lập, ABIC đã
tạo dựng được cơ sở khách hàng tiềm năng về bảo hiểm, tiếp nhận được những kinh
nghiệm trong quản lý kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm, giảm được nhiều khó khăn
ban đầu của một doanh nghiệp mới bước vào kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ trong
bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Với một cổ đông đề xướng sáng lập và chi phối là Agribankmột nền tảng vững
chắc về sức mạnh vật chất và tinh thần, ABIC sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động
kinh doanh trong tương lai. Đó là khai thác và phát huy những tiềm năng và thế mạnh
vượt trội của Agribank so với các nhà đầu tư khác, thế mạnh về mạng lưới phân phối,
tiềm lực tài chính, cơ sở khách hàng, uy tín của thương hiệu Agribank trên thị trường.
Ngược lại, ABIC ra đời sẽ mang lại lợi ích cho một bộ phận không nhỏ khách hàng
đặc biệt là các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và hộ nông
dân sinh sống tại các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Đây là những khách hàng có
nhu cầu tham gia bảo hiểm song khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của các doanh
nghiệp trên thị trường còn hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Hiện tại ABIC đã mở chính thức 15 chi nhánh tại các tỉnh thành trên cả nước.
Hoạt động của trụ sở chính và các chi nhánh đã tạo ra mạng lưới hoạt động rộng khắp,
chăm sóc và quảng bá thương hiệu Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp đến mọi khách
hàng. Mục tiêu của ABIC là đến cuối năm 2015 sẽ mở rộng khoảng 20 chi nhánh trên
cả nước để có thể đáp ứng tốt mọi yêu cầu về các sản phẩm bảo hiểm.
Bên cạnh đó, với sự góp mặt của cổ đông Tổng Công ty CP Tái bảo hiểm Quốc
gia Việt Nam (VINARE) nhà tái Bảo hiểm chuyên nghiệp hàng đầu Việt Nam, ABIC
luôn nhận được sự chia sẻ rủi ro và hỗ trợ về mặt nhận và nhượng trong mọi trường
hợp Tái bảo hiểm ở phạm vi trong và ngoài nước.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp
(ABIC)
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp là một doanh nghiệp lớn, do
đó muốn tồn tại trong môi trường cạnh tranh như hiện nay thì bộ máy quản lý phải
chặt chẽ, phù hợp với quá trình phát triền của công ty và sự phát triển của thị trường.
Qua quá trình thực tập tại công ty, em đã tìm hiểu cơ cấu tổ chức của ABIC như sau:
20
- Xem thêm -