HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
BỘ MÔN LUẬT TỔ CHỨC QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
ỦY BAN THAM MƯU QUÂN SỰ: TỪ HIẾN CHƯƠNG
ĐẾN THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Tùng Lâm
Lớp: LQT39E
Hà Nội 1/2015
LỜI NÓI ĐẦU
Trong hai năm đầu của thế kỉ XX, thế giới đã phải trải qua hai cuộc chiến lớn nhất và
tàn khốc nhất trong lịch sử loài người . Bước ra sau cuộc chiến, cả bên bại trận lẫn bên
thắng trận đều phải chịu những hậu quả vô cùng nặng nề về mọi mặt. Nhân dân thế
giới đã nhận ra sự vô nghĩa của chiến tranh , cũng như sự lo sợ về nguy cơ bùng phát
một cuộc chiến tranh quy mô toàn thế giới như vậy. Vì thế , Liên Hiệp Quốc đã ra đời
như một tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, đóng vai trò duy trì hòa bình và an ninh
trên toàn thế giới , “ phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến
tranh, đã xảy ra hai lần trong đời chúng ta, gây cho nhân loại đau thương không kể
xiết”1 . Để thực hiện tốt điều này, Liên hiệp quốc đã thành lập nên những cơ quan
chuyên trách để giám sát các hoạt động giữ gìn hòa bình , hướng đến việc hạn chế vũ
trang cũng như giải trừ quân bị trên quy mô toàn thế giới. Ủy ban tham mưu quân sự
là một cơ quan như thế. Ra đời và được ghi nhận ngay trong Hiến chương Liên Hiệp
Quốc , Ủy ban tham mưu quân sự được kì vọng trở thành một cơ quan giúp việc cho
Liên hợp quốc về tất cả những vấn đề liên quan đến các yêu cầu quân sự của Liên
Hiệp Quốc, bao gồm cả việc quản lý, chỉ huy, chỉ đạo chiến lược của bất kỳ lực lượng
vũ trang đặt dưới sự chỉ huy của Liên Hiệp Quốc, cũng như các quy định về vũ khí và
giải trừ vũ khí chiến lược . Tuy nhiên, trên thực tế, vì những lý do chủ quan cũng như
khách quan mà cơ quan này từ lâu đã đi dần vào quên lãng và buộc phải chuyển
những nhiệm vụ của mình cho những cơ quan khác của Liên Hợp Quốc. Thế nhưng ,
thời gian gần đây, do những biến động lớn của thế giới, đe dọa đến nền hòa bình an
ninh toàn cầu và tranh luận xung quanh việc “can thiệp nhân đạo”, vấn đề về việc có
nên thành lập một lực lượng thường trực để thực thi các biện pháp hòa bình hay
không đã khiến cho người ta lại đặt mối quan tâm đến cơ quan này. Trong bài tiểu
luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu về lịch sử hình thành nên cơ quan này, cách thức hoạt
động của Ủy ban tham mưu quân sự , tại sao cơ quan này lại rơi vào quên lãng cũng
như tương lai của cơ quan này trong thời đại hiện nay.
Trong quá trình thực hiện tiểu luận này không tránh khỏi những sai sót , vì thế em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để em có thể hoàn thiện
tốt hơn kĩ năng của bản thân cũng như bổ sung thêm những thiếu sót .
Hà Nội, ngày 29 tháng 1 năm 2015
Nguyễn Tùng Lâm
1
Lời mở đầu Hiến chương Liên hiệp quốc
I.Tổng quan về Ủy ban tham mưu quân sự
1. Lịch sử hình thành và hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự
1.1.Nguyên nhân thành lập
Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan khá đặc biệt của Liên Hiệp Quốc khi nó là cơ quan
hỗ trợ duy nhất được ghi nhận ngay tại Hiến chương Liên Hợp Quốc , với những điều
khoản quy định chi tiết vai trò, nhiệm vụ. cách thức hoạt động, của nó. Năm 1945, các nhà
soạn thảo Hiến chương Liên Hợp Quốc thành lập một hệ thống an ninh tập thể, dựa trên tiền
đề rằng việc đạt được hòa bình và an ninh quốc tế cần đến một phản ứng chung của cả cộng
đồng các quốc gia thành viên thông qua kênh chỉ đạo của Hội đồng Bảo an. Điều này đã
được hệ thống trong Hiến chương và được coi như là một yếu tố quan trọng của tổ chức này.
Cụ thể, theo Chương VII của Điều lệ, sau khi đánh giá tình hình phù hợp với Điều 39 (hành
động xâm lược, phá hoại hòa bình hoặc một mối đe dọa đối với hòa bình), Hội đồng Bảo an
có thể thực hiện song song việc áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế theo Điều 41trước, trong hoặc
sau khi thực hiện Điều 42, "áp dụng các lực lượng hải, lục, không quân mà Hội đồng bảo an
xét thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế "; bao gồm "các cuộc
biểu tình, phong tỏa và các hoạt động khác của lực lượng hải, lục, không quân do các thành
viên Liên Hợp Quốc thực hiện ", với sự hỗ trợ có thể của hiệp định hoặc tổ chức khu vực2;
Điều 45 cũng quy định việc thi hành các biện pháp quân sự khẩn cấp . Về mặt này, theo
Điều 43, tất cả các nước thành viên "có nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực
lượng vũ trang, sự yểm trợ và mọi phương tiện khác, kể cả việc cho phép quân đội Liên Hiệp
Quốc đi qua lãnh thổ của mình” Để đảm bảo sự phối hợp cần thiết các lực lượng mang bởi
tính chất rất khác nhau, nhưng trên tất cả phải đảm bảo vai trò lãnh đạo hàng đầu của Liên
Hiệp Quốc, tổ chức này đã lập nên một cơ quan mang vai trò tham vấn trong những trường
hợp này. Và Ủy ban tham mưu quân sự đã ra đời từ đó. Hiến chương đã ghi nhận rằng "các
kế hoạch cho việc sử dụng các lực lượng vũ trang sẽ do Hội đồng bảo an đề ra với sự giúp đỡ
của Ủy ban tham mưu quân sự 3". Ủy ban này bao gồm tham mưu trưởng của các thành viên
thường trực của Hội đồng bảo an hoặc người đại diện của họ, có nhiệm vụ tham vấn một
cách hiệu quả cho Hội đồng Bảo an về tất cả các vấn đề liên quan đến quân sự, việc tuyển
dụng và chỉ huy của các lực lượng, các quy định về vũ khí và giải trừ quân bị 4. Nhưng trên
tất cả, các Ủy ban tham mưu quân sự phải chịu trách nhiệm cho các định hướng chiến lược
của tất cả lực lượng quân sự hiện có, dưới quyền của Hội đồng bảo an . Ủy ban này được đặt
bên dưới các cơ quanvà chức danh chính được liệt kê cụ thể trong Hiến chương : Hội đồng
Bảo an, Đại hội đồng, Tòa án Công lý Quốc tế, Tổng thư ký, Hội đồng Kinh tế và Xã hội,
Hội đồng Ủy thác. Như đã nói ở trên, Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan khá đặc biệt
khi việc phân định loại cơ quan của nó có vẻ hơi mơ hồ vì nó dường như Ủy ban tham mưu
2
Theo điều 53 của Hiến chương
Theo điều 46 của Hiến chương
4
Theo điều 47 của Hiến chương
3
quân sự không được coi là một cơ quan giúp việc trong phạm vi ý nghĩa của Điều 29 của
Hiến chương, cũng như trong quy định của khoản 2 Điều 75. Tuy nhiên, khi nghiên cứu Hiến
chương, ta có thể coi Ủy ban tham mưu quân sự như một cơ quan kỹ thuật (un organe
technique) cho Hội đồng Bảo an trong việc thẩm định và trình bày ý kiến, đưa ra ý kiến
tham vấn. Nói cách khác , theo câu chữ của Hiến chương, ta có thể hiểu rằng , Hội đồng Bảo
an có trách nhiệm duy trì hòa bình, an ninh thế giới bằng cách sử dụng lực lượng được cung
cấp bởi các quốc gia thành viên. Và Ủy ban tham mưu quân sự sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy
chiến lược cho tất cả các lực lượng vũ trang thuộc quyền điều hành của Hội đồng bảo an6
1.2.
Lịch sử hoạt đông của Ủy ban
Nghị quyết đầu tiên của Hội đồng bảo an đưa ra việc chỉ đạo hoạt động cho Ủy ban tham
mưu quân sự được thông qua ( mặc dù không có việc bỏ phiếu thông qua nào) vào ngày
1/2/1946. Tuân thủ theo đúng nghị quyết này, Ủy ban tham mưu quân sự đã mời các đoàn
đại biểu của lực lượng không quân , hải quân và lục quân của các nước thành viên thường
trực Liên Hiệp Quốc ( Anh, Liên Xô, Mỹ , Pháp ,Trung Quốc) họp với nhau tại London vào
tháng Hai năm 1946 để bàn về thủ tục hoạt động cũng như các nguyên tắc chung của cơ
quan này. Ủy ban tham mưu quân sự đã thống nhất được thủ tục hoạt động của mình thông
qua nghị quyết S/10( bị hạn chế). Các quốc gia tham dự hội nghị cũng đã thống nhất việc
nghiên cứu điều 43 trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc về nghĩa vụ đóng góp lực lượng của
các quốc gia thành viên , Liên Hợp Quốc , từ đó đề ra những quy định cụ thể, các biện pháp
chung khi thực hiện việc này.
Từ ngày 9 tháng 4 đến 24 tháng 7 năm 1946, Ủy ban tham mưu quân sự đã tích cực nghiên cứu ,
phát triển những nguyên tắc chung dựa vào điều 43 của Hiến chương . Tuy nhiên, thời điểm này,
tổng thư kí Liên hiệp Quốc Tryve Lie đã có những động thái phản đối những dự thảo của Ủy ban.
Tổng thư kí đã cho rằng những dự thảo điều lệ và quy tắc về thủ tục của Ủy ban tham mưu quân
sự không công nhận đầy đủ những quyền hạn ,trách nhiệm quan trọng cũng như những đặc quyền
cơ bản của chức vụ Tổng thư kí . Chính vì vậy, vào ngày 1 tháng tám năm 1946, Ủy ban tham
mưu quân sự phải đưa ra một văn bản sửa đổi cho Quy định thủ tục (S/10) ban hành trước đó
bằng một văn bản khác , trong đó quy định thêm những thẩm quyền đặc biệt của Tổng thư kí Liên
Hiệp Quốc ( S/115)
Sau khi đã thống nhất thông qua được thủ tục hoạt động của mình , Ủy ban tham mưu quân sự
đã bắt đầu thực hiện các hoạt động mang tính thực tiễn của mình. Cơ quan này đã nghiên cứu về
việc giải trừ quân bị trên phạm vi toàn cầu. Vào năm 1947, Đại hội đồng đã thông qua một số
nghị quyết quan trọng về việc giải trừ quân bị, và một trong các nghị quyết ấy đã kêu gọi Hội
đồng bảo an Liên Hiệp Quốc trao cho Ủy ban tham mưu quân sự quyền hạn trong hoạt động này
5
Theo khoản 2 điều 7 Hiến chương: “ những cơ quan giúp việc nếu xét thấy cần thiết, có thể được thành lập
theo Hiến chương này. Nếu như Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan giúp việc như vậy , nó sẽ không
được trích dẫn và nêu tên trong Hiến chương mà sẽ được thành lập trong quá trình thực hiện theo Hiến chương
này
6
Xem thêm điều 47 Hiến chương
và công nhận những kết quả thảo luận về vấn đề giải trừ quân bị của Ủy ban này, được thực hiện
vào tháng Tư năm 1947. Đáp lại những lời kêu gọi này, Hội đồng bảo an đã thông qua một nghị
quyết để tạo hiệu lực cho các nghị quyết về giải trừ quân bị của Đại hồi đồng trước đó, cũng như
chính thức yêu cầu Ủy ban tham mưu quân sự phải gửi báo cáo về vấn đề này. Cũng trong nghị
quyết này, Hội đồng bảo an cũng nói đến việc thành lập nên một Ủy ban về vũ khí thông thường
(Commission for Conventional Armaments) và hỏi ý kiến của Ủy ban tham mưu quân sự về kiến
nghị này, vì có thể những mục đích cũng như đối tượng của các cơ quan này có thể tương đương
nhau và có thể gây ra chồng chéo trong việc thực hiện quyền hạn. Sau khi nhận được yêu cầu của
Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, Ủy ban tham mưu quân sự đã đệ trình ngay sau đó bản báo
cáo của mình vào ngày 30 tháng Tư với 10 chương 41 điều7, trong đó Ủy ban thể hiện sự đồng ý
về đa số những điều ghi nhận trong nghị quyết này.
Cũng trong thời gian này, Ủy ban tham mưu quân sự đã có những quan tâm đến vấn đề có nên
thiết lập một lực lượng quân sự thường trực hay không. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới
vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát nên những cuộc chiến tranh mới, vì thế có ý kiến cho rằng
Liên Hiệp Quốc nên duy trì một lực lượng quân sự thường trực , có nhiệm vụ giám sát và ứng
phó nhanh đối với các thế lực có khả năng làm tổn hại đến hòa bình và an ninh thế giới. Trên thực
tế, mặc dù đã có những nguyên tắc về đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, nhưng
ban đầu, việc sử dụng vũ lực của Liên Hiệp Quốc không được quy định rõ ràng . Liên Hiệp Quốc
mặc dù chưa bao giờ thể hiện ý định sẽ có một lực lượng quân sự riêng của mình, nhưng thay vào
đó, các quốc gia thành viên, kể cả là những thành viên ngoài Hội đồng bảo an sẽ phải có nghĩa vụ
đóng góp quân đội, trang thiết bị , khí tài nếu như Hội đồng bảo an có yêu cầu, phù hợp với điều
42 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Trong những trường hợp như vậy, các lực lượng này sẽ đặt
dưới sự định hướng chiến lược của Ủy ban tham mưu quân sự. Trước khi các nguyên tắc hoạt
động chung của Ủy ban tham mưu quân sự được thống nhất và thông qua, cơ quan này đã thiết
lập một tiểu ban vào tháng Năm năm 1947 để dự trù sức mạnh của các lực lượng quân sự khi các
quốc gia đóng góp và sự phân bổ của các lực lượng này. Ủy ban này cho rằng lực lượng không
quân sẽ là lực lượng thích hợp nhất cho các trường hợp khẩn cấp. Điều này đã được ghi nhận tại
điều 45 Hiến chương Liên Hiệp Quốc : “ Với mục đích đảm bảo cho Liên Hiệp Quốc có thể áp
dụng những biện pháp quân sự khẩn cấp , các thành viên phải báo động cho một số phi đội không
quân vào tư thế sẵn sàng chiến đấu nhằm phối hợp với các hành động quốc tế có tính chất cưỡng
chế. Số lượng, mức độ chuẩn bị và kế hoạch phối hợp hành động của các phi đội này sẽ được Hội
đồng bảo an, với sự giúp đỡ của Ủy ban tham mưu quân sự , ấn định theo những hiệp ước đặc
biệt nói ở điều 43” . Từ các tài liệu viết về các MSC, các tham mưu trưởng Vương quốc Anh cho
biết các quốc gia thuộc các thành viên thường trực Liên Hiệp Quốc (P5) cam kết sẽ đóng góp
phần lớn lực lượng quân sự cho Liên Hiệp Quốc. Các tham mưu trưởng này giải thích thuật ngữ
"phần lớn" có nghĩa là những P5 sẽ đóng góp hai phần ba của một lực lượng Liên Hiệp Quốc, và
dựa trên tính toán của họ trên tổng số sức mạnh của một lực lượng Liên Hiệp Quốc mà có thể bao
gồm
7
"Report of the Military Staff Committee", UN Security Council Official Records, Second Year, Special
Supplement No. i, New York: 1947
Lực lượng không quân - 600 máy bay ném bom, máy bay chiến đấu 400, 200 máy bay khác
Hải quân - 2 thiết giáp hạm, 4 tàu sân bay, tàu tuần dương 6, 24 tàu khu trục, 48 tàu khu trục, 24
tàu quét mìn, 12 tàu ngầm, vũ khí chiến đấu cho 2 lữ đoàn
Lục quân : 8 đến 12 quân đoàn
Tới năm 1947, các đề xuất khác nhau của P5 chỉ ra rằng các lực lượng có thể được tăng lên:
Không quân - 750 máy bay ném bom, máy bay chiến đấu 500, 25 người khác, tổng số 1.500
Lực lượng Hải quân - 3 tàu chiến, 6 tàu sân bay (4 đội, 2 ánh sáng), 12 tàu tuần dương, tàu khu
trục 33, 64 tàu khu trục, 24 tàu quét mìn, 14 tàu ngầm, cuộc sống tấn công cho bốn nhóm lữ đoàn
(16.000 người)
Lục quân - 15 sư đoàn (375.000 - 450.000 người)8
Tuy nhiên, đó chỉ là những dự tính ban đầu khi thành lập nên Ủy ban tham mưu quân
sự. Còn trên thực tế, chỉ vỏn vẹn hai mươi chin tháng sau khi được thành lập, vào
ngày 2 tháng Bảy năm 1948, cơ quan này đã báo cáo lên Hội đồng bảo an rằng Ủy ban
không thể thực hiện được chức năng của nó. Liên Hiệp Quốc đã có những nỗ lực để
giúp duy trì hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự , nhưng không đạt được những
kết quả khả quan nào. Năm 1950, Đại hội đồng đề nghị Hội đồng Bảo an, trong Nghị
quyết Achesoncó đề cập về việc " phát triển các biện pháp được thực tiễn chứ không
phải các Điều 43, 45, 46 và 47 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, đặc biệt là liên quan
đến các hoạt động hiệu quả của Ủy ban tham mưu quân sự "9. Tuy nhiên, hoạt động
của Ủy ban này vẫn trì trệ và dân đi vào quên lãng, hoặc có chăng cũng chỉ là những
cuộc gặp gỡ của các thành viên trong Ủy ban, nhưng không được ghi nhận chính thức.
Cơ quan này dường như chỉ tiếp tục hoạt động sau một quãng thời gian dài vào năm
1990, khi Hội đồng Bảo an kêu gọi các nước hữu quan phối hợp các hoạt động của họ
trong lĩnh vực thực hiện các lệnh cấm vận đối với Iraq bằng cách sử dụng các cơ chế
phù hợp của Ủy ban tham mưu quân sự. Ngoài ra Ủy ban tham mưu quân sự cũng
nhận nhiệm vụ điều phối các lực lượng quân sự để chống lại Iraq.10 Năm 1992, Tổng
thư kí Liên Hiệp Quốc, trong một chuyến công du của mình , đã kêu gọi Ủy ban tham
mưu quân sự thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình khuôn khổ của Chương VII và
không nằm trong các hoạt động gìn giữ hòa bình 11. Cũng trong năm 1992, Đại hội
8
Số liệu theo “ The Military Staff Committee: A Possible Future Role in UN Peace Operations?”
https://www.globalpolicy.org/component/content/article/199-peacekeeping/40932-the-military-staff-committeea-possible-future-role-in-un-peace-operations-.html truy cập ngày 20/1/2015
9
Nghị quyết 377 (V) Ngày 3 tháng 11 năm 1950
10
Nghị quyết 665 (1990) ngày 25 tháng 8 năm 1990. Liên Xô đã đề nghị Liên Hiệp Quốc trao nhiệm vụ này cho
Ủy ban tham mưu quân sự. Tuy nhiên, nhiệm vụ của Ủy ban tham mưu quân sự lúc đó chỉ tập trung chính vào
việc thực hiện việc cấm vận, vì đã có những biện pháp với quy mô lớn buộc Iraq phải rút quân ra khỏi Kuwait
11
Báo cáo của Đại hội đồng ngày 30 tháng 6 năm1992
đồng đã được phê duyệt, về cơ bản, những lời phát biểu của Tổng thư kí12. Việc này
vô hình trung đã làm hạn chế khả năng của Ủy ban tham mưu quân sự, khi tách biệt
hai nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và nhiệm vụ hành động trong trường hợp hòa bình bị đe
dọa, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Tuy nhiên, Hội đồng bảo an hay thậm chí
là các thành viên chính thức của Ủy ban tham mưu quân sự lại không thể hiện thái độ
phản đối một cách mạnh mẽ với các nghị quyết và tuyên bố này. Điều này thể hiện
rằng các quốc gia P5 dường như đang thờ ơ , hoặc phớt lờ đi việc tái hoạt động của
Ủy ban tham mưu quân sự. Nhưng vấn đề này vẫn được đưa ra thảo luận hoặc nhận
được sự quan tâm bởi một số các quốc gia khác Ví dụ, Canada, Malaysia, Úc nêu vấn
đề tại các cuộc họp của Ủy ban gìn giữ hòa bình (Département des opérations de
maintien de la paix (DOMP)).Một tuyên bố khác Ngày 12 tháng năm 1995, Đan Mạch
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Hans Haekkerup, phát biểu rằng một nhóm các quốc gia
(chủ yếu là phương Tây) mong muốn LHQ thành lập một đội quân thường trực , có
khả năng phản ứng nhanh với những tình huống khẩn cấp. Trong số này, có Na Uy,
Phần Lan, Canada, Bỉ, Hà Lan, Ba Lan,Cộng hòa Séc, Áo, Argentina, Ireland, New
Zealand vàĐan Mạch, đều bày tỏ nguyện vọng đóng góp để tạo thành một lữ đoàn
phản ứng nhanh thường trực bao gồm 4000-5000 người13. Thật không may, những vị
trí này đã không được theo dõi.
Như vậy , từ một cơ quan được được kì vọng sẽ thực hiện những vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ nền hòa bình và an ninh thế giới, Ủy ban tham mưu quân sự đã trở
thành một cơ quan kém hiệu quả , bế tắc và dần dẫn đến việc không hoạt động trong
thời gian dài. Theo như giáo sư Eric Grove thì Ủy ban tham mưu quân sự chỉ là một
“công trình vô nghĩa cho những hi vọng mờ nhạt của những người sáng lập nên Liên
Hiệp Quốc”14 Tất nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khiến cho cơ quan này đã không
thể thực hiện được những nhiệm vụ của mình
II. Nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Ủy ban tham mưu quân sự
2.1 Nguyên nhân khách quan
a. Các điều khoản trong hiến chương
Có thể nói rằng việc hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự đã vấp phải những khó
khăn ngay từ khi bắt đầu quá trình làm việc của mình.
12
Nghị quyết 47/71 ngày 14 tháng 12 năm 1992
InterPress Service, 12 tháng 5 năm 1995.
14
GROVE E., "U.N. Armed Forces and the Military Staff Committee: A Look Back"International Security,
XVII, n° 4 (1993) pp. 172-182
13
Trước hết, các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc khó có thể thực hiện được
theo những điều khoản liên quan đến việc hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự.
Cụ thể là , không phải quốc gia nào cũng có đủ tiềm lực quân sự hay kinh tế để “ cung
cấp lực lượng vũ quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình”. 15 Việc đóng
góp quân đội sẽ phải đi kèm theo các hiệp ước đã được kí kết từ trước, nó có thể dẫn
đến sự rắc rối trong việc kí kết các điều ước quốc tế giữa các quốc gia và Liên Hiệp
Quốc . Các hiệp ước này sẽ tạo ra sự ràng buộc với các quốc gia , tạo ra nghĩa vụ bắt
buộc các quốc gia phải trích một phần quân số hoặc các phương tiện khác, hoặc kinh
phí để hỗ trợ hoạt động…Nó sẽ gây ra thêm áp lực cho các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia còn khó khăn, khi mà đã phải tham gia đóng góp những khoản phí bắt buộc
khi gia nhập Liên Hiệp Quốc. Mặt khác, ngay cả khi đã quy định việc đàm phán ký
kết những hiệp định đã được quy định tại điều 43 của Hiến chương thì những từ ngữ
được sử dụng trong điều khoản này cũng không rõ ràng. Điều khoản không nêu rõ
ràng được thời gian ký kết ( trong Hiến chương sử dụng từ “càng sớm càng tốt theo
sáng kiến của Hội đồng bảo an ). Việc ký kết các hiệp ước được thực hiện thông qua
biện pháp đàm phán và không giới hạn về mức thời gian như vậy có thể sẽ khiến cho
các quốc gia có thể đưa ra những lý do khác nhau để trì hoãn việc đàm phán cũng như
việc ký kết điều ước. Thực tế đã cho thấy kể từ khi bắt đầu hoạt động cho đến nay, ta
chưa ghi nhận được một hiệp ước quân sự đáng kể nào giữa quốc gia và Liên Hiệp
Quốc có nội dung liên quan đến điều 43 của Hiến chương.
Tương tự như vậy, điều 45 quy định về việc sử dụng lực lượng không quân của các
quốc gia cho những biện pháp quân sự khẩn cấp của Liên Hiệp Quốc, dưới sự giúp đỡ
của ủy ban tham mưu quân sự . Tuy nhiên, việc này chỉ đạt được khi các quốc gia
thành viên ấy ký kết với Liên Hiệp Quốc những hiệp ước đặc biệt theo quy định của
điều 43 của Hiến chương, và các điều khoản trong các hiệp ước này sẽ quy đinh mức
độ chuẩn bị, số lượng và kế hoạch phối hợp hành động của các phi đội này. Như đã
trình bày ở trên, sẽ có rất ít các quốc gia mong muốn và thiện chí duy trì một lực
lượng tác chiến chiến lược, luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu nhưng không
được sử dụng để phục vụ các nhiệm vụ của quốc gia mà phải phụ thuộc theo lệnh của
một tổ chức
Sự bất hợp lý tại hai điều khoản trên cũng ảnh hưởng đến khả năng tuân thủ theo
những điều khoản khác của Hiến chương. Mặc dù trên danh nghĩa , việc sử dụng lực
lượng vũ trang quốc tế sẽ do Hội đồng bảo an đề ra và quyết định, Ủy ban tham mưu
quân sự chỉ là một cơ quan giúp đỡ cho cơ quan này mà thôi16. Tức là các quyết định
này sẽ được thông qua sau khi có sự xem xét của cả các thành viên thường trực lẫn
không thường trực. Tuy nhiên, cơ quan đưa ra những ý kiến chuyên môn lại là Ủy ban
tham mưu quân sự. Xét về mặt cơ cấu tổ chức của Ủy ban này, ta có thể thấy nó bao
15
16
Điều 43 của Hiến chương
Điều 46, 47 của Hiến chương
gồm các Tham mưu trưởng của các ủy viên thường trực Hội đồng bảo an hoặc là địa
diện của họ. Các quốc gia khác, kể cả trong hay ngoài Hội đồng bảo an chỉ đóng vai
trò là những “đối tượng hợp tác” với cơ quan này. Nói cách khác, nếu như Ủy ban
tham mưu quân sự tiếp tục hoạt động một cách thuận lợi như đã đề ra, nó sẽ là một cơ
quan thể hiện sức mạnh quân sự to lớn của các quốc gia là thành viên thường trực của
Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc(P5) – những quốc gia vốn dĩ đã sở hữu những đặc
quyền , tiêu biểu là quyền phủ quyết (véto) trong Hội đồng bảo an. Giả sử có một
trường hợp khẩn cấp nảy sinh, lúc đó, ý kiến của Ủy ban tham mưu quân sự sẽ chính
là ý kiến của nhóm P5, và nó sẽ có ảnh hưởng rất to lớn đến quyết định chung của Hội
đồng bảo an
Xét trên phương diện của một quốc gia không thuộc P5, chắc chắn sẽ không có một ai
mong muốn có một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào đó có đặc quyền quá lớn
về cả chính trị lẫn quân sự và chi phối những quyết định quan trọng của Liên hợp
quốc. Điều này cũng đi ngược hoàn toàn so với mong muốn, quyết tâm của Liên hợp
quốc là “tin tưởng vào quyền bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ”17
Như vậy, việc thiết lập và duy trì hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự đã vấp
phải những bất cập ngay trong quá trình tạo dựng cơ sở pháp lý cho ủy ban này. Đó là
lí do vì sao các quốc gia các quốc gia đã bỏ qua Ủy ban này trong suốt thời gian từ
những năm bốn mươi đến thập kỉ chin mươi của thế kỉ trước
b. Việc duy trì một lực lượng quân sự thường trực
Khi thành lập nên Ủy ban tham mưu quân sự, Liên Hiệp Quốc đã cân nhắc đến ý
tưởng sẽ có một lực lượng quân sự thường trực , sẵn sàng với những trường hợp khẩn
cấp. ủy ban tham mưu quân sự thậm chí đã thành lập một tiểu ban để dự trù số lượng
quân đội của Liên Hiệp Quốc như đã giới thiệu tại phần đầu của bài tiểu luận. Trong
trường hợp các quốc gia chấp nhận sẽ thành lập nên một lực lượng quân sự của Liên
Hiệp Quốc thì khi ấy những vấn đề nan giải mới sẽ nảy sinh. Trước hết là vấn đề đồn
trú. Quân đội của Liên Hiệp Quốc sẽ được đồn trú tại một địa điểm cố định hay sẽ đặt
luôn tại các quốc gia cam kết gửi quân? Nếu như lực lượng quân sự vẫn đóng tại quốc
gia cam kết gửi quân thì quân đội Liên Hiệp Quốc sẽ tương đối phân tán , gây khó
khăn cho việc ứng phó xử lí những trường hợp cần nhiều nhân lực, cũng như việc
đồng bộ hóa quân đội và sự phối hợp hành động giữa các lực lượng này. Nhưng nếu
như lực lượng này tập trung tại một địa điểm thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng bị động
khi xảy ra một tình huống khẩn cấp xảy ra ở xa địa điểm đồn trú. Các quốc gia cũng
khó có thể chấp nhận chia sẻ một phần không nhỏ lãnh thổ của mình để phục vụ cho
lực lượng này
17
Lời mở đầu của Hiến chương
Mặt khác việc duy trì lực lượng quân đội thường trực sẽ gặp phải những khó khăn
trong quá trình đào tạo , bảo dưỡng , thay mới vũ khí và yêu cầu can thiệp, tăng số
lượng quân đội khi có yêu cầu. Một điều đáng nói nữa là lực lượng này được hưởng
những đặc quyền tương đối lớn , đặc biệt là các quốc gia phải cho phép quân đội Liên
Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình, theo điều 43 của Hiến chương. Điều này có thể
coi là không thể thực hiện được, vì chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia là hoàn toàn,
đầy đủ và tuyệt đối và nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ còn bao
gồm việc không sủ dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự đồng ý của quốc gia đó18
2.2. Nguyên nhân chủ quan
c. Do bất đồng nội bộ trong Ủy ban
Thành viên của Ủy ban tham mưu quân sự chỉ bao gồm năm đại diện của các quốc gia
là thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Việc phân chia công việc
hay quyền hạn cho các thành viên này gặp vấn đề khó khăn, bởi vì chức vụ của các
thành viên này đều là người lãnh đạo cao nhất trong quân đội mỗi nước. Quan điểm
của các thành viên trong Ủy ban tham mưu quân sự trong việc đóng góp lực lượng ,
quân bị của các quốc gia, kể cả các quốc gia không thuộc P5 cũng có sự bất đồng
mạnh mẽ. Liên Xô cho rằng việc đóng góp của nhóm nước P5 nên giống hệt nhau,
điều này xuất phát từ việc Liên Xô là nước chịu thiệt hại nhiều nhất từ sau cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ hai, vì thế Liên Xô không thể bỏ ra quá nhiều nhân lực hay kinh
phí để đảm bảo duy trì lực lượng quân sự và giữ được tầm ảnh hưởng của mình trong
ủy ban. Liên Xô cũng cho rằng các lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc chỉ cần đồn
trú trên lãnh thổ của nước cam kết gửi quân, nhằm tránh việc các lực lượng quân sự
sẽ sử dụng các căn cứ trên lãnh thổ nước ngoài. Ngoài ra Liên Xô còn cho rằng nên
để giới hạn thời gian tái thiết sau khi chiếm đóng cũng như thời gian rút quân khi
thực hiện xong nhiệm vụ từ 30-90 ngày, trong khi các nước khác cho rằng nên rút
quân càng sớm càng tốt19 .. Trong khi đó, Pháp lại muốn cho phép việc sử dụng lãnh
thổ được ủy thác tại nước ngoài . Anh, Mỹ , và Trung Quốc lại mong muốn các lực
lượng quân đội thường trực của Liên Hiệp Quốc có thể được sử dụng vào trong các
trường hợp khẩn cấp của quốc gia20. Thế nhưng điều này lại đi trái với các quy định
về lực lượng này được ghi nhận trong Hiến chương ( điều 46, 47..). Điều này đã gây
nên những ý kiến trái chiều trong nội bộ của Ủy ban tham mưu quân sự. Ngoài ra,
18
Lê Mai Anh(2013) Giáo trình luật quốc tế ( lần thứ 13 có sửa đổi), NXB Công an nhân dân , Hà Nội ,tr165,
167
19
Goldman, Ralph M, Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”, Cal State Uni, Center for the
Study of Armament and Disarmament, 1990, trang 9
20
"Report of the Military Staff Committee", UN Security Council Official Records, Second Year, Special
Supplement No. i, New York: 1947, trang 7
Anh và Pháp còn cho rằng lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc cần nhận được sự
chỉ huy thống nhất, và sẽ có một chức danh Chỉ huy tối cao thực hiện điều này, chứ
không phải là năm đại biểu của mỗi quốc gia. Nhiều ý kiến cho rằng việc này sẽ giúp
Anh và Pháp có thêm nhiều cơ hội để đạt được ảnh hưởng trong việc kiểm soát quân
đội của Liên Hợp Quốc . Tất nhiên, việc này không đạt được sự đồng ý của các thành
viên khác của Ủy ban, bởi vì nhiều lí do chính trị hay danh dự của quốc gia, các Tổng
tham mưu trưởng , đại diện cho quốc gia sẽ không bao giờ đồng ý cho một Tổng tham
mưu của một quốc gia khác có chức vụ và quyền hạn cao hơn mình. Việc bất đồng
trong quan điểm của các bên và không hề có sự nhượng bộ có thể là một nguyên nhân
dẫn đến sự thất bại của cơ quan này
Một bất đồng khác dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự
chính là căng thẳng trong quan hệ Liên Xô – Mỹ trong thời kì Chiến tranh lạnh(19471989) . Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới có sự thay đổi một cách mạnh
mẽ. Từ một trật tự thế giới đa cực, thế giới dần chuyển sang một trật tự hai cực, đứng
đầu là Liên Xô và Mỹ. Lúc này, mối liên kết giữa hai cường quốc là kẻ thù chung
phát xít đã không còn nữa, những vấn đề bất đồng trước đó giữa Liên Xô và Mỹ trước
đó một lần nữa lại nảy sinh. “Mối quan hệ giữa Liên Xô và các nước phương Tây (mà
đại diện là Mỹ) không còn là quan hệ đồng minh mà là quan hệ xuất phát trên những
lợi ích hoàn toàn khác nhau, luôn đấu tranh không khoan nhượng , làm cho tình hình
thế giới có lúc rất căng thẳng”. Quan hệ giữa hai cường quốc dần trở thành đối đầu
trên toàn bộ các lĩnh vực , “ mâu thuẫn và đấu tranh luôn nổ ra trên các vấn đề chính
trị, kinh tế, ngoại giao nhưng không dẫn đến chiến tranh trực tiếp giữa hai siêu
cường”21. Trong khi đó, Ủy ban tham mưu quân sự có sự tham gia của cả Liên Xô và
Mỹ ,lại liên quan đến việc điều phối các hoạt động quân sự , giúp đỡ về việc phối hợp
hành động của của các lực lượng quân đội Liên Hiệp Quốc. Một điều có thể dễ dàng
nhận thấy là sẽ không có chuyện hai quốc gia đang căng thẳng trong quan hệ lại cùng
nhau phối hợp hành động trong một lĩnh vực tham mưu quân sự - một lĩnh vực tương
đối nhạy cảm trong quan hệ quốc tế. Căng thẳng giữa hai cường quốc này cũng chính
là nguyên nhân chính dẫn đến sự quên lãng của Ủy ban tham mưu quân sự trong nhiều
thập kỉ
Như vậy, ta có thể thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc Ủy ban tham mưu quân
sự dần trở thành một cơ quan không hoạt động của Liên Hiệp Quốc. Ngoài những
thiếu sót trong việc soạn thảo các điều khoản quy định về cơ quan này, ta có thể thấy
yếu tố chính trị có ảnh hưởng không nhỏ đên việc hoạt động của Ủy ban tham mưu
quân sự. Đó không chỉ là những bất đồng trong quan hệ Liên Xô- Mỹ , mà còn là thái
độ của các quốc gia khác khi không muốn quyền lực của những cường quốc có thể
hoàn toàn lấn át ý kiến của họ bằng quyền phủ quyết véto
21
Trần Văn Đào-Phan Doãn Nam(2001)Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế 1945-1990, Học viện quan hệ quốc
tế , Hà Nội 2001, trang 129,130
III. Tương lai của Ủy ban tham mưu quân sự
3.1 Bối cảnh mới
Vai trò của Ủy ban tham mưu quân sự tưởng chừng như đã khép lại sau một thời gian
dài không hoạt động. Thế nhưng sau khi thời kì Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới dần
chuyển từ đối đầu sang đối thoại và có những hiện tượng mới , vấn đề mới nảy sinh
thì người ta lại một lần nữa nhắc đến nhiệm vụ của cơ quan này. “ Sự hồi sinh” của
Ủy ban tham mưu quân sự được thể hiện vào năm 1990, khi Liên Xô đã đề nghị với
Liên Hiệp Quốc về việc cho phép Ủy ban tham mưu quân sự tham gia vào việc xử lý
hình giữa Iraq và Kuwait. Cơ quan này được nhận nhiệm vụ phối hợp các hoạt động
của các quốc gia trong lĩnh vực thực hiện các lệnh cấm vận đối với Iraq bằng cách
sử dụng các cơ chế phù hợp của Ủy ban tham mưu quân sự và điều phối các tàu chiến
trong việc kiểm soát các tàu bè đến Iraq theo Nghị quyết 665(1990). Tuy chỉ là một
hoạt động nhỏ trong hàng loạt những biện pháp ngăn chặn Iraq và yêu cầu Iraq rút
quân khỏi Kuwait, nhưng Ủy ban tham mưu quân sự cũng đã thể hiện vai trò của mình
trong việc giải quyết các tranh chấp xung đột, khi hòa bình bị đe dọa.
Mặt khác, trong thời kì hiện nay, có rất nhiều những vấn đề mới nảy sinh, khiến
người ta quan tâm hơn về vai trò của Ủy ban tham mưu quân sự. Trước hết là hoạt
động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Hiện nay, Liên Hiệp Quốc đang quản lý
một lực lượng gìn giữ hòa bình với một số lượng đông đảo . Những lực lượng này do
các quốc gia tự nguyện đóng góp, và thực hiện theo các mệnh lệnh của Liên Hiệp
Quốc. Trong các trường hợp này, những lính gìn giữ hòa bình vẫn thuộc về các đơn vị
quân đội riêng của họ, chứ không tạo thành một "quân đội của Liên Hiệp quốc" độc
lập, do vậy Liên Hiệp Quốc không có lực lượng riêng. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm
2014, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc bao gồm 89607 lính mũ nồi
xanh, 12436 cảnh sát , 5325 nhân viên quốc tế phục vụ cho lĩnh vực dân sự , 11762
cán bộ địa phương, 1844 tình nguyện viên của Liên Hiệp Quốc đang hoạt đông trong
16 nhiệm vụ trên toàn thế giới22 . Tuy nhiên hiện tại, Liên Hiệp Quốc đang gặp khó
khăn với việc điều phối thực hiện hoạt động với lực lượng gìn giữ hòa bình này. Đây
là lực lượng được đóng góp một cách tự nguyện của quốc gia chứ không phải thông
qua các hiệp ước đặc biệt giữa Liên Hiệp Quốc và quốc gia ấy, với số lượng không
được quy định. Số lượng của lực lượng này vẫn không ngừng tăng lên theo từng năm,
trong khi kinh phí của Liên Hiệp Quốc dành cho hoạt động này chỉ có hạn( khoảng 7
tỷ đô la Mỹ mỗi năm) .
Lực lương gìn giữ hòa bình này được triển khai đến những khu vực không có thỏa
thuận hòa bình trước và phải thực hiện các nhiệm vụ nguy hiểm , bao gồm các hoạt
động giám sát ngừng bắn, bảo vệ thường dân , xây dựng lại hệ thống pháp luật và cải
cách lại hệ thống an ninh, và có rất nhiều trường hợp, lực lượng gìn giữ hòa bình đã
không thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Một số nhà phân tích cho rằng đây là thời kì
“khủng hoảng” trong việc gìn giữ hòa bình mà dẫn chứng là việc thất bại của lực
lượng gìn giữ hòa bình tại Congo(MONUC)- một trong những nhiệm vụ quan trọng
của họ, khi mà Liên Hiệp Quốc đã triển khai tới hơn 22000 người những vẫn không
hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ dân thường. Điều này đã khiến Liên Hiệp Quốc bị chỉ
22
Theo số liệu của United Nations Peacekeeping, http://www.un.org/en/peacekeeping/about/ truy cập ngày 30
tháng 1 năm 2015
trích trong việc gìn giữ hòa bình. Bản thân các quốc gia cũng bày tỏ thái độ không tin
tưởng vào khả năng của lực lượng gìn giữ hòa bình. Ví dụ , tại tháng 9 năm 2014, khi
trả lời báo chí về khủng hoảng tại miền đông Ukraine và xem xét khả năng sử dụng
lực lượng gìn giữ hòa bình trong tranh chấp này, Tổng thống Ukraine Petro
Poroshenko nói: “Sẽ không có đội ngũ gìn giữ hòa bình, bởi vì kinh nghiệm sử dụng
binh lính gìn giữ hòa bình trong Transdniestria và các cuộc xung đột khác cho thấy
một thực tế là các quốc gia mất chủ quyền đối với những vùng lãnh thổ này. Sẽ không
có đội ngũ gìn giữ hòa bình trên lãnh thổ Ukraine”.23
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong công việc gìn giữ hòa bình của
Liên Hiệp Quốc . Khi được cử đến thực hiện sứ mệnh của mình, lực lượng gìn giữ hòa
bình đều được trang bị vũ khí, nhưng không được phép thực hiện các chiến dịch quân
sự cũng như những hoạt động chiến đấu. Việc trang bị vũ khí chỉ mang tính chất tự vệ
chính đáng và đôi khi nó tỏ ra kém hiệu quả trong việc thực thi nhiệm vụ của lực
lượng này , đặc biệt là các nhiệm vụ tại những nơi đang xảy ra xung đột … Mặt khác ,
một số người cho rằng việc thỏa hiệp và trao quyền gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp
Quốc đối với những lực lượng khác như NATO (thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình
ở Kosovo, Bosnia) , Cộng đồng kinh tế các quốc gia Tây Phi ( thực hiện nhiệm vụ tại
Sierra Leone) cho thấy Liên Hiệp Quốc không có đủ khả năng và uy tín để kiêm
nhiệm tất cả các sứ mệnh gìn giữ hòa bình 24
Trước tình hình này, đã có ý kiến cho rằng Liên Hiệp Quốc nên thiết lập một cơ chế
gìn giữ hòa bình một cách có hiệu quả hơn, cũng như việc Liên Hiệp Quốc nên xem
xét việc thành lập nên một lực lượng quân sự thường trực của riêng Liên Hiệp Quốc,
không chỉ có nhiệm vụ thực hiện sứ mệnh gìn giữ hòa bình mà có khả năng chiến đấu
và phản ứng nhanh với những tình huống khẩn cấp. Và người ta đã đặt sự chú ý trở lại
với Ủy ban tham mưu quân sự, cơ quan được tạo ra để thực hiện những sứ mệnh như
thế
Một lí do Ủy ban tham mưu quân sự được chú ý trong thời gian trở lại đây là sự lan
rộng của chủ nghĩa khủng bố trên toàn thế giới. Thực tế thì “khủng bố” là một thuật
ngữ không hề mới, nhưng sau vụ 11/9, chủ nghĩa khủng bố mới được chú ý quan tâm
về sự nguy hiểm của nó. Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc hoạt động khủng bố là:
Huỷ hoại nhân quyền, quyền dân chủ và tự do của cá nhân, uy hiếp sự an toàn và toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia làm chính phủ luôn bị sức ép, phá vỡ văn minh xã hội, có
hành vi phạm tội với việc gây hậu quả bất lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nguyên
nhân sâu xa của những hành động chống đối, phá hoại là sự xung đột về quyền lợi
giữa các thành viên trong cộng đồng, xã hội. Sự xung đột này có cả nhân tố chính trị,
xã hội, lịch sử phức tạp.25
Tuy nhiên , dù cho lí do là gì đi chăng nữa thì chủ nghĩa khủng bố cũng mang tính
chất phi nghĩa , chống lại văn minh và nên hòa bình toàn thế giới. Những năm trở lại
đây, nhiều tổ chức khủng bố mới lần lượt ra đời, với phạm vi hoạt động và phương
23
Theo Ukrinform- cơ quan ngôn luận chính thức của Ukraine,
http://www.ukrinform.ua/eng/news/there_will_be_no_peacekeeping_troops_in_ukraine___president_326299
truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015
24
Felicity Hill, The Military Staff Committee: A Possible Future Role in UN Peace Operations,
https://www.globalpolicy.org/component/content/article/199-peacekeeping/40932-the-military-staff-committeea-possible-future-role-in-un-peace-operations-.html , truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2015
25
http://www.un.org/News/dh/infocus/terrorism/sg%20high-level%20panel%20report-terrorism.htm truy cập
ngày 29 tháng 1 năm 2015
thức khủng bố được mở rộng ra nhiều nơi trên thế giới. Nghiêm trọng hơn, các tổ
chức khủng bố đang ngày càng phát triển và lan rộng , và hoạt động ngày càng tinh vi
, thực hiện các hành động ngày càng nguy hiểm và tàn bạo. Hàng loạt các vụ khủng bố
đẫm máu đã nổ ra trên toàn thế giới mà tiêu biểu là vụ khủng bố ngày 11/9 do tổ chức
Al-Qaeda do Osama Bin Laden cầm đầu, khiến 3.000 người mang 90 quốc tịch khác
nhau thiệt mạng và gây chấn động kinh hoàng cho toàn bộ nhân dân yêu chuộng trên
toàn thế giới… Sau thời kì thoái trào Al-Qeada, gần đây, thế giới đã chứng kiến sự
xuất hiện của một tổ chức khủng bố mới với quy mô rất lớn, cách thức tổ chức quy củ
và có những hành động vô nhân tính. Đó là tổ chức Nhà nước hồi giáo tự xưng,( viết
tắt tiếng Anh là IS). Tuy là một tổ chức mới thành lập nhưng IS đã thực hiện những
hành động khủng bố hết sức nguy hiểm trên phạm vi toàn cầu. “Ghê gớm hơn nữa là
IS đã và đang hiện thực hóa được tư tưởng thống nhất đạo Hồi, từ một tổ chức Hồi
giáo cực đoan dòng Sunni trở thành một nhà nước hiện hữu, sẵn sàng chém giết bất cứ
ai trái ý chúng. IS đã biến tướng thành một nhà nước khủng bố, vượt trên tầm 1 tổ
chức Hồi giáo thánh chiến hùng mạnh như Al-Qaeda. “Tư tưởng IS” đã thành công
rực rỡ trong việc gửi đi khắp toàn cầu một thông điệp rằng sự thống nhất của thế giới
Hồi giáo và lý tưởng xây dựng một nhà nước Hồi giáo “hoàn toàn thanh tẩy” là điều
có thể. Dù vô cùng tàn ác, IS vẫn rất khôn khéo và giỏi mị dân, đã sắp xếp cuộc sống
trên lãnh thổ của mình theo cách quy củ và từng bước xâm nhập vào gần như mọi mặt
đời sống người dân. Nhóm IS nổi bật trên truyền thông quốc tế nhờ vào lối hành xử
tàn nhẫn trên chiến trường và cách giải thích đầy khắc nghiệt về đạo Hồi.”26
Việc bành trướng của chủ nghĩa khủng bố trên phạm vi toàn cầu rõ ràng đang đe dọa
hòa bình, phá hoại và có hành vi xâm lược theo chương VII của Hiến chương Liên
Hiệp Quốc. Ủy ban tham mưu quân sự, với các chức năng và quyền hạn được quy
định tại chương này, phải có nghĩa vụ thực thi các biện pháp để giúp đỡ Liên Hiệp
Quốc trong việc ngăn chặn những hành động này. Do vậy, tương lai về một Ủy ban
tham mưu quân sự hoạt động trở lại là không còn xa vời.
3.2 Khả năng hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự trong thời kì mới
Vào năm 1990, trong bài viết “Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”
(California State University, Los Angeles:1990), tác giả Ralph M Goldman đã liệt kê
các chức năng mà Ủy ban tham mưu quân sự có thể đảm nhận khi tái hoạt động . Bài
tiểu luận xin tổng hợp một số quan điểm trong bài viết này về khả năng hoạt động của
Ủy ban tham mưu quân sự có thể đảm nhiệm trong thời kì hiện nay
1. Điều phối các hoạt động quân sự (arms control): Hiến chương LHQ có thể giao cho
Ủy ban tham mưu quân sự nhiệm vụ điều phối trong các cuộc đàm phán về kiểm soát
vũ khí. Nó có thể và nên trở thành một trung tâm chính , có nhiệm vụ hỗ trợ cho việc
chuẩn bị và phục vụ các cuộc đàm phán song phương và đa phương, và để tạo ra một
cơ chế quản lý và tập trung hóa một hệ thống hành chính được điều phối tốt và hiệu
quả. Ủy ban tham mưu quân sự cũng có thể cung cấp thông tin và tư vấn lực lượng gìn
giữ hòa bình
2. Giám sát việc tuân thủ: để giảm gánh nặng cho các cơ quan tình báo quốc gia, các
Ủy ban tham mưu quân sự có thể trở thành quan sát viên trung lập trong các vấn đề
tuân thủ hiệp ước. Do ủy ban này là một thực thể công , trực thuộc Liên Hiệp Quốc,
26
Anh Doãn- Hồng Hạnh, Hình thái chủ nghĩa khủng bố mới: Biến tướng khó lường, http://cand.com.vn/Sotay/Bien-tuong-kho-luong-316250/ truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015
mang tính đa phương và do đó có thể đóng vai trò giám sát cũng như thu thập thông
tin về các bên, có thể khuyến khích giảm ngân sách cho việc tình báo. Điều nãy cũng
giúp cho Ủy ban cũng có khả năng thực hiện thực hiện các nhiệm vụ cảnh báo sớm để
ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ hoặc xung đột quân sự.
3. Giám sát hệ thống hồ sơ quân sự: Ủy ban tham mưu quân sự có thể đảm nhận việc
lưu trữ và duy trì hồ sơ công của tất cả các vụ chuyển giao vũ khí thông thường, thử
hạt nhân và các vụ nổ phi quân sự, thông báo của các thao tác đào tạo, vv trên phạm vi
toàn thế giới. Khi đó , Ủy ban tham mưu quân sự sẽ còn có chức năng phục vụ như
một trung tâm thông tin quân sự - giống như UN Institute for Training and Research
(UNITAR) và Peace International Academy (IPA), Ủy ban tham mưu quân sự có thể
được trao trách nhiệm cho việc nghiên cứu phát triển kiến thức về gìn giữ hòa bình ,
hoạt động chuyên nghiệp trong việc hỗ trợ UNITAR và IPA, và có thể trở thành một
trung tâm nghiên cứu về quân sự ( chiến lược chiến thuận quân sự…) và lưu trữ thông
tin
4. Phối hợp các hoạt động chống khủng bố - là một hình thức thăng hoa của cuộc
chiến tranh quốc tế, đang đe dọa đến hòa bình và an ninh thế giới và khi đó, Liên Hiệp
Quốc phải thể hiện sự chú trọng của mình đến vấn đề này. Ủy ban tham mưu quân sự
sẽ được cung cấp chức năng chống khủng bố, việc mà trước nay chỉ dành cho những
cơ quan an ninh khác
5. Phối hợp các hoạt động phòng chống ma túy – nhóm tội phạm buôn bán ma túy,
một số các nhà lãnh đạo quân sự quốc gia độc tài, đây cũng là một mối đe dọa tiềm ẩn
cho hòa bình an ninh của khu vực cũng như tiềm ẩn nguy cơ xâm lược
6. Trở thành một trung tâm giám sát vũ khí - Ủy ban tham mưu quân sự sẽ nỗ lực để
làm chậm lại quá trình chạy đua vũ trang đang ngày càng nóng lên trên toàn cầu. Ủy
ban tham mưu quân sự có thể là một diễn đàn đàm phán lâu dài cho việc giảm tốc tốc
độ phát minh quân sự và thúc đẩy nghiên cứu về các hệ thống vũ khí mới ít tốn kém
hơn nhưng lại gây sát thương lớn hơn
7. Tham gia vào các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của quân đội. Chắc chắn các cuộc thảo
luận phải trở về các khía cạnh thực thi chức năng của nó. Tất nhiên việc này sẽ vấp
phải nhiều tranh cãi, nhất là khi hiện nay cũng đã và đang tồn tại những lực lượng
gìn giữ hòa bình khác. Các tranh cãi có thể xoay quanh việc gìn giữ hòa bình cần được
phân biệt với thực thi? Ai nên ủy quyền nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và khi nào? Ai nên
tham gia? Có phải đó sẽ là một lực lượng thường trực của Liên Hiệp Quốc, và ai sẽ có
quyền kiểm soát hoạt động trên nó? Ai trả tiền, bao nhiêu?27
Như vậy, ta có thể thấy, trong thời kì hiện nay, Ủy ban tham mưu quân sự hòa vẫn có
những cơ hội để hoạt động trở lại, đóng góp tích cực vào việc ổn định hòa bình, an
ninh toàn thế giới theo đúng như những điều đã quy định trong Hiến chương
3.3 Những đề xuất dành cho Ủy ban tham mưu quân sự
Tất nhiên muốn đưa Ủy ban tham mưu quân sự hoạt động trở lại và trở nên hiệu quả
, Liên Hiệp Quốc sẽ phải có những điều chỉnh, thậm chí thay đổi toàn diện cơ cấu
cũng như quyền hạn của cơ quan này
Trước hết, những nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban này phải được quy định cụ thể
và rõ ràng hơn. Liên Hiệp Quốc cũng nên mở rộng ra giới hạn hoạt động cho cơ quan
27
Xem chi tiết Goldman, Ralph M, Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”, Cal State Uni, Center
for the Study of Armament and Disarmament, 1990, trang 23
này, giúp cho nó có thể thực hiện được đa dạng các hoạt động hơn như đề xuất đã nêu
ở phần trên
Cơ cấu tổ chức hiện nay của Ủy ban tham mưu quân sự vẫn là điều bất cập. Sự hiện
diện của tất cả thành viên P5 và không hề có một đại diện của quốc gia nào khác dẫn
đến sự nghi ngại của các quốc gia khác về tính công bằng cũng như trung lập của cơ
quan này. Hơn nữa số lượng năm thành viên trong một cơ quan là rất ít cho một tổ
chức có phạm vi quyền hạn lớn như vậy. Liên Hiệp Quốc nên cân nhắc việc mở rộng
số lượng thành viên của cơ quan này. Trên thực tế, vấn đề mở rộng số lượng thành
viên là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong quá trình cải tổ Liên
Hiệp Quốc. Từ khi thành lập cho đến nay, số lượng thành viên Liên Hiệp Quốc đã
không ngừng tăng lên . Từ 51 thành viên ban đầu (những nướsc có đại diện dự Hội
nghị tại Xan Phranxixcô hoặc đã ký Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc ngày 1/1/1942,
và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương Liên Hợp Quốc), số thành viên LHQ
cho đến giữa 2004 là 191( hiện nay là 193).28 . Hội đồng bảo an cũng đã có sự thay
đổi số lượng thành viên, từ 6 thành viên luân phiên ban đầu sau đó được mở rộng lên
10 thành viên với định mức cho mỗi khu vực như sau: 2 ghế cho các khu vực châu
Phi, châu Á, châu Mỹ, và Tây Âu, 1 ghế cho Đông Âu, và ghế còn lại luân phiên giữa
châu Phi và châu Á29. Vấn đề mở rộng thành viên thường trực lẫn không thường trực
của Hội đồng bảo an cũng vẫn là một phần quan trong trong chương trình nghị sự của
Liên Hiệp Quốc. Sự tăng thêm số lượng thành viên là một xu thế tất yếu. Giải pháp ở
đây là Liên Hiệp Quốc có thể tăng số lượng thành viên của cơ quan này bằng với số
lượng của Hội đồng bảo an, và các thành viên của Hội đồng bảo an cũng sẽ là những
thành viên của Ủy ban tham mưu quân sự và sẽ đảm nhiệm luôn công việc của cơ
quan này. Khi đó, Ủy ban này sẽ mang tính công bằng hơn, và có khả năng hoạt động
năng động hơn , phục vụ tốt cho việc tham vấn , giúp việc cho Hội đồng bảo an…Tuy
nhiên, tất cả những đề xuất trên đây chỉ là những lý thuyết và mang tính tham khảo .
KẾT LUẬN
Như vậy, qua những trình bày ở trên, bài tiểu luận hi vọng sẽ mang đến những kiến
thức chung về Ủy ban tham mưu quân sự , Ủy ban duy nhất được ghi nhận trong Hiến
chương. Tuy có những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử phát triển của mình, thậm
chí đã có một khoảng thời gian dài chìm sâu trong tình trạng không hoạt động nhưng
thời gian hiện nay,Ủy ban tham mưu quân sự đang dần nhận được sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế . Ngày nay, khi tình hình thế giới luôn có những diễn biến hết sức
phức tạp khó lường, việc Ủy ban tham mưu quân sự có được tái hoạt động và thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình hay không còn là câu hỏi bỏ ngỏ, nhưng chúng ta có
quyền hi vọng rằng một ngày nào ủy ban này sẽ đóng góp một phần không nhỏ trong
28
Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ,
http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ChiTietVeToChucQuocTe?diplomacy
OrgId=123 truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015
29
Nghị quyết 1991(XVII) ngày 17 tháng 12 năm 1963
sứ mệnh bảo vệ nền hòa bình, an ninh của thế giới cũng như sự bình yên của nhân
loại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
Hiến chương Liên Hợp Quốc 1947
Anh Doãn- Hồng Hạnh(2014), “Hình thái chủ nghĩa khủng bố mới: Biến tướng khó
lường”, Báo Công an nhân dân
Lê Mai Anh(2013) Giáo trình luật quốc tế ( lần thứ 13 có sửa đổi), NXB Công an
nhân dân , Hà Nội
Trần Văn Đào-Phan Doãn Nam(2001)Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế 1945-1990,
Học viện quan hệ quốc tế , Hà Nội 2001,
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
An Agenda For Peace", United Nations Secretary-General, 17 June1992
Boulden, Jane. Prometheus Unborn: The History of the Military Staff Committee,
Canadian Center For Global Security, Ontario: 1993.
InterPress Service, 12 tháng 5 năm 1995.
Resolution 665 (1990), 377 (V) (1950), 1991(XVII)(1963) of the Security Council
Resolution 1001 (ES-I)(1956), 47/71(1992) of the General Assembly
Report of the General Assembly June 30, 1992
Report of the Military Staff Committee", UN Security Council Official Records,
Second Year, Special Supplement No. i, New York
Felicity Hill, The Military Staff Committee: A Possible Future Role in UN Peace
Operations
Goldman, Ralph M(1990), Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”,
California State Uni, Center for the Study of Armament and Disarmament,1990
GROVE E. (1993) "U.N. Armed Forces and the Military Staff Committee: A Look
Back"International Security, XVII, n° 4
Jean E. Krasno, "To End the Scourge of War: The Story of UN Peacekeeping." in Jean
E. Krasno, ed.,The United Nations: Confronting the Challenges of a Global Society
(Boulder, CO: Lynne Rienner, 2004)
WILLIAM G. WHEELER(1994) THE UNITED NATIONS SECURITY COUNCIL
MILITARY STAFF COMMITTEE:RELIC OR REVIVAL?
Tài liệu tham khảo tiếng Pháp
Albert Legault, Maintien de la paix et réforme des Nations Unies, Études
internationales, vol. 27, n° 2, 1996
EKOMODI TOTSHINGO Patrice, L’autorisation de recourir à la force accordée par
le Conseil de sécurité des Nations Unies, 2009
Jacques BALLALOUD,(1971) L’ONU et les opérations de maintien de la paix, Paris,
Pedone, 1971
Michel VOELCKEL,(1995) « La coordination des Forces d’intervention de l’ONU
dans le cadre du chapitreVII : bilan, prospective et perspectives », dans SFDI (dir.),
Colloque de Rennes. Le chapitre VII de laCharte des Nations Unies, Paris, Pedone,
1995
Philippe LAGRANGE, « Sécurité collective et exercice par le Conseil de sécurité du
système d’autorisation de la coercition », dans SFDI (dir.), Les métamorphoses de la
sécurité collective, Paris, Pedone
Nguồn Internet
http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/trangchu
http://www.ukrinform.ua/eng/
http://www.un.org/en/peacekeeping/about/
http://www.un.org/french/secureworld
http://www.globalpolicy.org/security/peacekpg/reform/2001/msc.htm
-
- Xem thêm -