Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận quan niệm nghệ thuật về con người trong một số truyện ngắn của nguyễn ...

Tài liệu Tiểu luận quan niệm nghệ thuật về con người trong một số truyện ngắn của nguyễn ngọc tư

.PDF
42
138
72

Mô tả:

I. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Hiện nay trên văn đàn Việt Nam, trong số những gƣơng mặt tiêu biểu của truyện ngắn đƣơng đại, Nguyễn Ngọc Tƣ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Chị trở thành một trong những nhà văn nổi bật nhất thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, góp phần đƣa truyện ngắn đƣơng đại lên một tầm cao mới. Nhà văn khẳng định mình ngay từ tập truyện đầu tay và đã có rất nhiều giải thƣởng cao quý nhƣ: Ngọn đèn không tắt giải Nhất – Cuộc vận động sáng tác văn học tuổi hai mƣơi lần II năm (2000). Giải B – Hội văn học Việt Nam với tập truyện: Ngọn đèn không tắt năm (2001)…Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tƣ còn đƣợc bình chọn là một trong mƣời gƣơng mặt trẻ tiêu biểu (2003) do Trung ƣơng đoàn trao tặng. Truyện ngắn Cánh động bất tận đƣợc Hội nhà văn Việt Nam trao giải A (2006). Và cũng riêng truyện ngắn này đã đƣa tên tuổi Nguyễn Ngọc Tƣ leo lên đỉnh cao vinh quang trong lao động nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu lí luận văn học, phê bình văn học đã ghi nhận: “từ sau hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam chờ đợi rất lâu mới có lại một cây bút tài hoa và làm nên dư luận, tên tuổi ấy là Nguyễn Ngọc Tư”. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là một vấn đề rất quan trọng của sáng tạo nghệ thuật, nếu không có quan niệm nghệ thuật về con ngƣời thì sẽ không có tác phẩm nghệ thuật. Vì từ khi con ngƣời xuất hiện trên trái đất cho đến nay, con ngƣời luôn đƣợc coi là vấn đề số một. Bản thân con ngƣời vốn vô cùng phức tạp, đa sắc, đa màu và đa diện, nhà văn chỉ chạm đến nó chứ không sờ nắn, nắm bắt đƣợc bản thể con ngƣời trọn vẹn. Vì vậy, nhà văn cũng không thể nào khám phá tận cùng cái bí ẩn bên trong con ngƣời. Văn học lấy con ngƣời làm điểm tựa để nhìn ra thế giới và nhìn vào chính mình. Có vô số cách để thăm dò con ngƣời, thế nhƣng con ngƣời vẫn mãi mãi là một bí mật, vì “con người là tận cùng của cái tận cùng” và “tận cùng biến đổi”. Nhìn chung Nguyễn Ngọc Tƣ là một nhà văn phức tạp, phức tạp bắt nguồn từ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời đƣợc chị phá vỡ nên đã gây ra “hiệu ứng” của hai luồng ý kiến khen chê dữ dội. Với truyện ngắn Cánh đồng bất tận, chị bị kiểm điểm và bị đòi trục xuất ra khỏi quê hƣơng. Nhƣng bạn đọc hôm nay 1 thật công bằng, họ đánh giá chính xác, không a dua, không ăn theo. Vì họ biết chừng nào chƣa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời thì sự tái hiện các hiện tƣợng đời sống khác nhau, chỉ có ý nghĩa mở rộng về lƣợng trên cùng một chiều sâu. Thật khó nói đến sự phát triển của tƣ duy nghệ thuật mà thiếu sự mở rộng, đào sâu các giới hạn trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Mặc dù tuổi đời còn trẻ nhƣng Nguyễn Ngọc Tƣ đã tỏa sáng rực rỡ trong nền văn học, điều này không phải cây bút trẻ nào cũng có đƣợc. Chính vì thế mà chị có một vị trí không thể thiếu đƣợc khi nhắc đến truyện ngắn đƣơng đại. Xuất phát từ lí do trên cho nên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Quan niệm nghệ thuật về con người trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” để nghiên cứu và có thêm cái nhìn mới mẻ về khía cạch nghệ thuật này. 1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nguyễn Ngọc Tƣ là cây bút trẻ đƣợc biết đến nhiều trong thời gian khoảng một thập niên trở lại đây, với những truyện ngắn đầu tiên đƣợc đăng trên tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau, sau đó là một loạt những giải thƣởng cao mà nhà văn nhận đƣợc. Cho đến nay, Ngọc Tƣ đã có nhiều truyện ngắn và tập truyện ngắn đƣợc xuất bản nhƣ: Ngọn đèn không tắt (2000), Nước chảy mây trôi (2005), Cánh đồng bất tận (2005), Gió lẻ (2008)…và gần đây nhất là tập Khói trời lộng lẫy mới đƣợc ra mắt bạn đọc vào tháng 11/2010 cùng với sự kiện chuyển thể thành công bộ phim Cánh đồng bất tận từ tác phẩm cùng tên của mình. Có thể nói ngay từ khi ra mắt bạn đọc những tác phẩm đầu tay của mình, “những đứa con đẻ” của Ngọc Tƣ đã nhận đƣợc rất nhiều sự đánh giá, phê bình của độc giả. Nhìn chung truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ đƣợc nghiên cứu và phê bình, đánh giá dƣới nhiều góc độ khác nhau. Có nhà nghiên cứu gọi cô là “Đặc sản miền Nam” sau khi đã đi tìm hiểu về giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh trong tác phẩm của cô (Trần Hữu Dũng – Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam – diễn đàn vietstudies.info, 2/2004). Hay Hồ Anh Thái – Tuổi trẻ (22/11/2003), “Văn học hôm nay: trẻ trung đâu cần mỹ phẩm”. Hạ Anh – Thanh niên (19/1/2006), “Đọc tạp văn Nguyễn Ngọc Tư – Quen mà lạ”. Nguyễn Thị Hồng Hà – Công an nhân dân (3/2/2006), “Đằng sau thành công là gánh nặng”. Nguyễn Văn Tám (2006), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học sƣ 2 phạm Huế. Thảo Vy (2005), Nỗi đau trong cánh đồng bất tận, Tạp chí văn hóa Phật giáo số 11 Không gian trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ cũng là đối tƣợng cho nhiều nhà nghiên cứu hƣớng đến. Có thể kể đến những bài đăng tải trên webside: www.viet-studies.info nhƣ Nguyên Ngọc với: “Không gian…của Nguyễn Ngọc Tư”, Đoàn Nhã Văn với bài: “Nắng, gió, vịt và đàn bà giữa những cánh đồng bất tận”, Thụy Khê với bài “Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư”…Từ đó có những nghiên cứu, đánh giá về phong cách truyện ngắn của chị. Với những bài viết trên, phần đa các tác giả - dù ít dù nhiều đều đề cập đến vấn đề con ngƣời ở một số bình diện nhƣ: Hình tượng người nghệ sĩ, nông dân, thế giới vịt và người, số phận con người trên những cánh đồng bất tận… Tuy nhiên, tất cả những bài viết ấy là những gợi mở quý giá giúp ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Vì vậy, khi chọn đề tài trên, chúng tôi cố gắng lĩnh hội các quan điểm, tiếp thu có chọn lọc những ý tƣởng từ các bài viết của các tác giả đã đề cập, đồng thời mạnh dạn đƣa ra những ý kiến, những cảm nhận riêng để có một cách nhìn hệ thống quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong một số truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ, nhằm góp thêm một cách nhìn mới mẻ về những giá trị trong truyện ngắn của nhà văn. 1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trong khóa luận đối tƣợng mà chúng tôi tập trung hƣớng đến đó chính là: Quan niệm nghệ thuật về con người trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Còn về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu và nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con ngƣời qua 16 truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tƣ, cụ thể nhƣ sau: Bởi yêu thương, Biển người mênh mông, Chuyện vui điện ảnh, Cuối mùa nhan sắc, Cải ơi, Cánh đồng bất tận, Cái nhìn khắc khoải, Chuyện của Điệp, Đời như ý, Đau gì như thể, Làm má đâu có dễ, Một mối tình, Mối tình năm cũ, Ngọn đèn không tắt, Ngày đùa, Qua cầu nhớ người. Ngoài ra ngƣời viết còn tham khảo thêm một số truyện ngắn khác để so sánh, đối chiếu. 3 1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp sau đây: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Phƣơng pháp so sánh Phƣơng pháp thống kê, phân loại 1.5. Đóng góp của khóa luận Về mặt lý luận, Khóa luận là một công trình nghiên cứu có hệ thống quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ. Từ đó, cho thấy tầm quan trọng của quan niệm nghệ thuật về con ngƣời – con ngƣời đóng vai trò trung tâm, không thể vắng mặt trong tác phẩm nghệ thuật. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, chúng ta sẽ hiểu rõ ý đồ mà nhà văn đã gửi gắm vào trong tác phẩm và thông qua tác phẩm ta biết đƣợc tƣ tƣởng nhà văn. Về mặt thực tiễn, Khóa luận góp phần vào việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ. Bên cạnh đó, Khóa luận này có thể là một định hƣớng, một gợi mở đối với việc tìm hiểu và nghiên cứu quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của một tác giả cụ thể hoặc của nhiều tác giả viết truyện ngắn trong dòng văn học đƣơng đại Việt Nam. 1.6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận đƣợc trình bày trong hai chƣơng: Chƣơng 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ TRONG HÀNH TRÌNH TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI Chuơng 2: CÁC KIỂU CON NGƢỜI TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC TƢ 4 II. NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ TRONG HÀNH TRÌNH TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI 1.1. Giới thiệu vài nét về truyện ngắn sau 1975 1.1.1. Đặc điểm truyện ngắn sau 1975 Nhƣ chúng ta đã biết, rƣớc 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh và yêu cầu của Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng mang đặc trƣng “ký hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nƣớc sau 1975, thể loại nhạy cảm này chắc chắn có những thay đổi quan trọng. Giới nghiên cứu cũng nhƣ giới sáng tác hầu nhƣ đều thống nhất sau 1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể loại”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng tiếp theo “những vụ được mùa của truyện ngắn, đây có thể coi là giai đoạn có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam”. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình “Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại” cũng khẳng định sự thành công của truyện ngắn sau 1975: “...truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành của công cuộc đổi mới”. Thật vậy, lịch sử phát triển của nền văn học hiện đại và đƣơng đại Việt Nam gắn liền với truyện ngắn. Thế kỷ XX truyện ngắn Việt Nam phát triển liên tục và vƣợt trội lên trên tất cả các thể loại, bắt đầu từ những năm hai mƣơi với sự đóng góp của Nguyễn Bá Học, Phạm Huy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Kim Lân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Vũ Bằng…Từ sau cánh mạng tháng Tám truyện ngắn có chửng lại nhƣng vẫn chảy liên tục với tên tuổi: Trần Đăng, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Vũ Thị Thƣờng, Lê Minh, Nguyễn Minh Châu…Chiến tranh kết thúc, truyện ngắn vƣợt lên tỏ rõ sự ƣu việt của mình trong sự khám phá nghệ thuật đời sống. Nhất là năm 1986 trở đi, truyện ngắn gần nhƣ đã độc chiếm toàn bộ văn đàn, hằng ngày trên các báo và các tạp chí có trên dƣới hai mƣơi truyện ngắn đƣợc in. Thực tế ấy đã kích thích mạnh đến việc sáng tác, phê bình – lí luận về truyện ngắn những năm gần đây. Nhiều cuộc thi sáng tác truyện ngắn đƣợc khởi xƣớng. Nhiều cuộc 5 hội thảo đã đƣợc mở ra và nhiều ý kiến có khi trái ngƣợc nhau cũng đã đƣợc trình bày. Điều này chứng tỏ, truyện ngắn đang là thể loại đƣợc các nhà văn quan tâm, nỗ lực cách tân bậc nhất. Nguyễn Huy Thiệp đã từng tạo nên một cơn lốc xoáy văn học. Gần đây không khí văn chƣơng đƣợc nóng lên bởi tên tuổi Đỗ Hoàng Diệu – Bóng đè, Nguyễn Ngọc Tƣ – Cánh đồng bất tận. Mỗi nhà văn một bút pháp riêng tạo nên “hiệu ứng” truyện ngắn hay và đƣợc gắn với các tên gọi “bội thu”, “thăng hoa”, “được mùa”, “lên ngôi”, điều đó chứng tỏ truyện ngắn đã đƣợc đổi mới. Nhìn tổng thể, sự vận động của truyện ngắn sau 1975 đã diễn ra giống nhƣ một cuộc nhận đƣờng toàn diện và sâu sắc: từ ý thức nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tƣ tƣởng đến thi pháp. Sự vận động ấy hƣớng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt hình thức, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt nhất ở ba phƣơng diện: dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân ở ba phƣơng diện ấy đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt Nam. 1.1.2. Quan niệm về con ngƣời đa chiều trong truyện ngắn sau 1975 Sau 1975, đất nƣớc chuyển đổi trên nhiều phƣơng diện trong đó có đời sống văn hoá, tƣ tƣởng. Chiến tranh kết thúc, văn học cựa mình thay đổi, bên cạnh tiểu thuyết, thơ, kí, kịch…truyện ngắn dƣờng nhƣ đã trở thành một thể loại rực rỡ của văn học Việt Nam sau 1975. Nó đƣợc xem là một “cú hích” mạnh mẽ có tác dụng “kích nổ” sự phát triển truyện ngắn với rất nhiều gƣơng mặt tiêu biểu nhƣ: Vũ Thị Thƣờng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà, Phùng Văn Khai, Đỗ Bích Thủy, Đỗ Hoàng Diệu, Bích Ngân, Nguyễn Ngọc Tƣ… Nhìn chung ngòi bút của các nhà văn thay đổi trên nhiều phƣơng diện, trong đó đặc biệt chú ý nhất là sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Đây chính là một bƣớc chuyển quan trọng cho truyện ngắn, ứng với mỗi giai đoạn văn học có một cách thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời khác nhau. Văn học chống Pháp và chống Mỹ gắn với cảm hứng ngợi ca, con ngƣời xã thân vì quê hƣơng đất nƣớc, ý nghĩa cuộc đời gắn bó với cộng đồng, con ngƣời sống với cái 6 “Ta” to lớn, không hoặc ít đối diện với cái “Tôi” nhỏ bé của chính mình, không gian cộng đồng chiếm ƣu thế hơn cả. Sau năm 1975, con ngƣời bắt đầu có ý thức nhìn ngắm lại chính mình. Văn học không còn hô hào, nói về cái lớn lao mà đào sâu vào cái “Tôi”, cái lẫn khuất bên trong đƣợc khui mở. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn đã hƣớng vào thế giới nội cảm, khám phá chiều sâu tâm linh, thấy đƣợc ở mỗi cá nhân những cung bậc tình cảm. Cho nên, nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời ở nhiều chiều hƣớng khác nhau, chuyển hƣớng cách nhìn nhận, cách cảm nhận và cách đánh giá con ngƣời đƣợc coi là tự làm mới mình về mặt nhận thức, tƣ duy bản thể con ngƣời. Con ngƣời luôn phải tự đấu tranh, tự dò dẫm trong muôn ngàn ngả rẽ của xã hội bởi con ngƣời bao giờ cũng tồn tại hai mặt: đẹp – xấu, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, yêu – ghét, vui – buồn, trong sáng – tối tăm, hạnh phúc – khổ đau, tự nhiên – xã hội. Nguyễn Minh Châu, nhà văn quân đội, ngƣời từ trong cuộc chiến đi ra, một trong những tác giả tiên phong thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Ông không còn nhìn con ngƣời một chiều mà nhìn con ngƣời trong nhiều mối quan hệ bộn bề phức tạp. Con ngƣời tự thú, con ngƣời thức tỉnh, con ngƣời sám hối, con ngƣời bản năng tính dục. Con ngƣời luôn khát khao vƣơn tới chân – thiện – mỹ, tiêu biểu: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát, Dấu chân người lính, Khách ở quê ra… Nhắc tới văn học đƣơng đại ta không thể không nhắc đến tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp, một cây bút độc đáo, một hiện tƣợng văn học đã làm “vang bóng một thời”. Với giọng văn sắc lạnh, gai góc, xƣơng xẩu đến tàn nhẫn đã đào bới xới tung lên những mảng tối, những góc khuất của mỗi thời, của cuộc đời và của xã hội. Nguyễn Huy Thiệp trăn trở nhiều về đời tƣ và thế sự, tình yêu và thù hận, sự sống và cái chết, nhƣng bao giờ cũng để ngõ kết thúc. Chính vì vậy nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn sống trong ốc đảo cô đơn, đau khổ đến tột cùng, đến bất tận, đó là cách thể hiện độc đáo con ngƣời trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Làm nên sự phong phú đa dạng trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, văn học sau năm 1975 còn phải kể đến đội ngũ sáng tác đông đảo nữ giới. Sự 7 đóng góp của các nhà văn nữ này có vai trò vô cùng to lớn, làm cao thêm văn học nƣớc nhà cả về chất lẫn về lƣợng. Nhiều tác phẩm của các nhà văn nữ đã có giải thƣởng cao trong các cuộc thi truyện ngắn. Đạt danh hiệu “thủ khoa” và “á khoa” trong lĩnh vực văn học nhƣ: Người sót lại rừng cười của Võ Thị Hảo, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ…Sự phá cách về phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật của các cây bút nữ đã tạo nên sắc màu mới cho truyện ngắn, trƣớc hết đƣợc thể hiện ở sự phong phú đa dạng về phong cách và cách thể hiện độc đáo về con ngƣời. Ở đó vừa có cái chung của thời đại vừa có cái riêng, cái cá biệt của mỗi tác giả trong cách cảm thụ cuộc sống, tạo ra lối đi riêng trên con đƣờng sáng tạo nghệ thuật. Và sự xuất hiện đông đảo các cây bút nữ đã cho chúng ta thấy ở họ sự cống hiến hết mình trong sự nghiệp sáng tác văn chƣơng. Đội ngũ nhà văn nữ viết nhƣ vắt kiệt sức mình để dâng hiến cái đẹp cho đời. Song chƣa có sự dấn thân quên mình cho nghề nghiệp, âu cũng là do yếu tố khách quan và chủ quan mang lại. Vì vậy, chƣa có nhiều tác phẩm xuất sắc, danh hiệu viết truyện ngắn xuất sắc nhất từ sau 1975 đến nay đƣợc trao tặng cho Nguyễn Huy Thiệp chứ không phải một cây bút nữ nào đó. Nhƣng chúng ta phải thừa nhận rằng, sự đóng góp của đội ngũ viết truyện ngắn nói chung, các nhà văn nữ nói riêng, đặc biệt sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu… đã góp phần làm sống dậy nền văn hóa đọc nƣớc nhà, điều mà chúng ta tƣởng chừng bị teo tóp, vì sau hiện tƣợng Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam chờ đợi rất lâu mới có lại một đỉnh núi cao, tạo dƣ luận xôn xao trên văn đàn Việt Nam. Đó là những nỗ lực đóng góp đáng ghi nhận trong sự làm mới quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của thế hệ viết văn trẻ. 1.2. Tìm hiểu sơ lƣợc về truyện ngắn Nam Bộ sau 1975 1.2.1.Truyện ngắn Nam Bộ - một dòng chảy trầm lặng Nam Bộ đƣợc gọi vùng đất mới của Tổ quốc, hình thành muộn, lƣu dân ngƣời Việt mở cõi từ cuối thế kỷ XVII đến nay đã trên 300 năm. Quá trình khai hoang, mở cõi đã hình thành trên vùng đất này những nét văn hoá cộng cƣ đặc sắc của bốn dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer và Chăm. Khi chữ Quốc ngữ vào nƣớc ta 8 thì ngƣời Nam Bộ có phong cách, nếp sống, lời ăn tiếng nói, suy nghĩ lại có đặc thù riêng biệt; thể hiện ở sự thoáng đạt, sởi lởi, nghĩa khí, hào hiệp, thẳng thắn…đậm hơn những vùng khác kể cả trong chiến đấu cũng đƣợc phô bày một nét rất riêng nhƣng về phƣơng diện văn học nghệ thuật lại không có gì nổi bật. Mặc dù Nam Bộ chính là vùng đất thai nghén và sinh thành nền văn xuôi Việt Nam nhƣ: Trƣơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản,… Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, văn học Nam Bộ có những cây bút tiêu biểu: Sơn Nam, Hoàng Văn Bổn, Trần Kim Trắc, Phạm Tuân,… ngƣời ta nhìn thấy thành tựu ấy qua một giải thƣởng khá quy mô lúc đó, giải thƣởng Văn nghệ Cửu Long Nam bộ năm 1952. Đến chống Mỹ dòng văn học Nam bộ bình lặng chảy cùng văn học cả nƣớc trong không khí hào hùng “tất cả cho tiền tuyến”. Tuy nhiên, đứng trên bình diện khách quan mà xét, văn học Nam Bộ nghèo nàn hơn so với hai miền Bắc, Trung. Tại đây, nhiều ý kiến đƣợc đƣa ra bàn luận, nhà văn Nguyễn Thị Diệp Mai đã bộc lộ chân thật về con đƣờng văn chƣơng: say mê cuồng nhiệt khi nhập hồn vào trang viết cùng trạng thái tâm lý hụt hẩng khi “đẻ” xong một “đứa con tinh thần”. Say mê, háo hức là vậy nhƣng cái gánh nặng áo cơm xƣa nhƣ trái đất đã làm cho giới viết văn trẻ cảm thấy viết là “viết chơi theo kiểu tài tử” vì “chưa thể sống bằng nghề viết văn”. Vũ Hồng phát biểu về đội ngũ viết văn trẻ nhƣ sau: số lƣợng ngày càng phát triển, mỗi cây bút đều tạo đƣợc dấu ấn phong cách riêng, có sự nối tiếp giữa các thế hệ, mà điển hình gần đây nhất có Nguyễn Thị Diệp Mai, Nguyễn Ngọc Tƣ,… Nhiều nhà văn chƣa đào sâu vào miền bí ẩn tâm linh của con ngƣời với những xung đột giữa cái thiện và cái ác giữa cái cao cả và cái thấp hèn, dẫn đến hệ quả, nhiều truyện ngắn miêu tả hiện thực sống sƣợng theo kiểu bút ký, thiếu sự chiêm nghiệm và thăng hoa về cảm xúc, phong cách thể hiện, chƣa xây dựng đƣợc những nhân vật có tính cách, tầm vóc ngang tầm hay cao hơn nguyên mẫu. Do cách nhìn thiển cận này làm ảnh hƣởng nhiều đến sáng tác của nhà văn, dẫn đến độc giả trong cả nƣớc ít biết và xa lạ với những đứa con tinh thần nơi tận cùng của Tổ quốc. Vì thế, truyện ngắn Nam Bộ đang trải qua bƣớc chuyển mình đầy trăn trở trƣớc hiện thực xô bồ của đời sống. Một dòng chảy 9 trầm lặng cần đƣợc khơi thông để đƣa văn học Nam Bộ lên tầm cao mới, sánh vai cùng văn học trong và ngoài nƣớc. Nhìn chung, lĩnh vực truyện ngắn có khởi sắc và phát triển liên tục, hết sức tự nhiên, có đóng góp tích cực vào việc hình thành một mảng văn học vùng miền mang màu sắc Nam Bộ. Đồng thời, hòa quyện và bổ sung vào dòng văn học chung cả nƣớc. Thế nhƣng chƣa có tác giả nào tạo ra sự đột biến, phải đợi đến Nguyễn Ngọc Tƣ văn học Nam Bộ mới thực sự có “đỉnh núi cao”, tạo ra “cú hích” mạnh cho truyện ngắn hôm nay. 1.2.2. Thành tựu của truyện ngắn Nam Bộ Văn học Nam bộ nói chung và truyện ngắn nói riêng trong những năm qua đã thu đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Khi đọc truyện của các tác giả giữa muôn ngàn loài hoa ấy, chúng ta nhận ra họ ngay do chất giọng Nam Bộ không lẫn vào ai. Ngôn ngữ, văn hóa Nam Bộ rất riêng, rất độc đáo và thú vị, nó có giá trị bổ sung cho văn học cả nƣớc, nổi lên: Trƣơng Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng…đến Bình Nguyên Lộc, Ngô Khắc Tài, Dạ Ngân, Hồ Tĩnh Tâm, gần đây có Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Thị Diệp Mai, Nguyễn Ngọc Tƣ…Sự góp mặt đông đảo của đội ngũ nhà văn trẻ đã tạo nên một diện mạo mới sôi nổi và quyết liệt trên dòng chảy bình lặng của nền văn học Nam Bộ. Các cây bút thể hiện mình ở nhiều phong cách độc đáo khác nhau, tạo nên bộ mặt mới cho văn học, nổi bật với ba thành tựu sau: Thành tựu thứ nhất, các nhà văn viết về cái kỳ vĩ, lạ lùng. Cái kỳ vĩ, lạ lùng trong văn chƣơng làm nên sức hấp dẫn, kích thích tính tò mò ở độc giả khi đọc truyện của: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng….Sau 1975, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Diệp Mai, Đỗ Tuyết Mai, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Ngọc Tƣ,... họ đã xây dựng đƣợc những bức tranh Nam Bộ vô cùng phong phú và “đặc sản”. Sông nƣớc, kênh, rạch chằng chịt, xuồng, bè tấp nập, rừng ngập mặn, rừng nguyên sinh, rừng sình lầy, những cánh đồng bát ngát, chợ nổi trên sông, ngƣời và muôn thú cộng sinh nhƣ nƣơng tựa bạn bầu, hiện lên một không gian “vĩ mô” có một không hai. Đọc truyện chúng ta cảm nhận rằng, thiên nhiên nhƣ một đối tƣợng, một hình tƣợng, một nhân vật thực sự chứ không đơn thuần làm bối cảnh hoặc nguyên cớ để phát triển tính cách nhân vật. 10 Thành tựu thứ hai, truyện đậm dấu ấn địa văn hoá đƣợc bàn đến rất nhiều trong các tác phẩm. Đọc Nhà không có đàn ông của Dạ Ngân, một truyện ngắn đầy đặn tập tục văn hoá. Chị viết về tục dựng vợ gã chồng, một tập tục bình thƣờng có ở khắp mọi miền đất nƣớc và trên toàn thế giới, cái không bình thƣờng ở đây lại xảy ra trong một gia đình toàn phụ nữ. Họ không phải những phụ nữ xấu, cái chuyện muốn lấy chồng đƣợc bàn cãi rất nhiều trong ngôi nhà toàn quá lứa lỡ thì. Thế nhƣng sức hấp dẫn không phải dừng ở văn hoá vùng miền mà nó cộng cƣ lan tỏa ở cách khám phá tâm trạng con ngƣời, ở chiều sâu tƣ tƣởng, triết lý nhân sinh. Cô đơn, con ngƣời cần phải nƣơng tựa vào nhau để sống, nhƣng rồi lại làm cho nhau đau khổ, cô đơn hơn. Con ngƣời không ý thức đƣợc sự khốn cùng ấy nên con ngƣời sa vào hết bi kịch này lại đến bi kịch khác. Viết về tục lệ thế sự đời tƣ mà khui mở ra cái trớ trêu bất bình thƣờng. Nhà không có đàn ông nói lên sự khập khiểng, gia đình thiếu đi một giới bao giờ cũng có sự “lệch pha” trong cuộc sống. Thành tựu thứ ba, ngôn ngữ nổi lên trong tác phẩm là một bộ phận rất dễ nhận thấy bởi tính đa diện, đa sắc và rất trẻ của vùng đất Phƣơng Nam. Tác giả nắm lấy nhƣ một lợi thế nghệ thuật làm nên phong cách riêng. Nhà văn, ngƣời trăn trở và đau đời nhất, vì thân phận của nhà văn là thân phận bút mực, số kiếp nhà văn là số kiếp câu chữ. Cùng với sự phát triển kinh tế chóng mặt buộc nhà văn thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời để bắt nhịp với cuộc sống. Vì vậy, nhà văn không chỉ viết về cái nghĩa khí, hào hiệp mà lẫn cả trong mỗi con ngƣời có tốt - xấu, có khát vọng cao cả - dục vọng thấp hèn…Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ, dƣờng nhƣ mọi cái đều đi đến tận cùng, yêu thƣơng, thù hận, tội ác và trừng phạt đều diễn ra đến tận cùng oan nghiệt. Văn học Nam Bộ chảy theo dòng chung văn học cả nƣớc, sau 1975, văn học bắt đầu cách tân và thu đạt nhiều thành tựu đáng kể về nội dung và hình thức. Điều này cho thấy truyện ngắn Nam Bộ đang có sự chuyển mình rõ nét, đội ngũ những cây bút truyện ngắn đƣợc bổ sung ngày một đông đảo hơn, truyện ngắn phần nào đã đáp ứng đƣợc tâm lý thị hiếu của ngƣời đọc nhờ sự chuyển tải nhanh nhạy những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội. Đạt đƣợc điều này là do thế hệ 11 đội ngũ nhà văn trẻ kế thừa những thành tựu ở lớp đàn anh đi trƣớc, cùng với kế thừa có cách tân phát triển. Nhà văn thay đổi dẫn đến cách thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong tác phẩm đa chiều, đa diện và nhiều cung bậc, con ngƣời không còn nhất phiến, đơn trị mà đa trị, phân mảnh. Vì vậy, đòi hỏi các cây bút tìm tòi cho mình một lối đi riêng, từ cách chọn đề tài, xây dựng cốt truyện, quan niệm con ngƣời, cho đến sáng tạo ngôn từ. Bƣớc đi của truyện ngắn hôm nay không còn nhƣ trƣớc nữa, ngƣời viết truyện cô đọng, tinh tế, mang bản sắc và giọng điệu riêng của tác giả. Nhà văn xoáy sâu vào tâm trạng nhân vật giúp cho ngƣời đọc thấy thích thú nhƣ: Giọt đắng của Bích Ngân, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ..v.v.. 1.3. Nguyễn Ngọc Tƣ - luồng gió mới của truyện ngắn Nam bộ 1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ Nguyễn Ngọc Tƣ sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một gia đình nghèo. Năm lớp 9, gia đình Ngọc Tƣ xảy ra biến cố lớn: Ông nội mất, điều kiện gia đình lại khó khăn nên nhà văn phải dừng việc học của mình ở đây. Tuy nhiên, điều này không hề làm sức sáng tạo của nhà văn dừng lại mà trái lại, càng trong khó khăn sức sáng tạo ấy càng trở nên mãnh liệt và giàu giá trị. Dƣới sự động viên của cha, Nguyễn Ngọc Tƣ đã Viết những gì mà mình nghĩ, viết những gì mà cô đã trải qua. Sau ba truyện ngắn đƣợc đăng trên Tạp chí văn nghệ Cà Mau, Nguyễn Ngọc Tƣ đã đƣợc nhận làm văn thƣ và học làm phóng viên báo tại đây. Ngoài đời, Nguyễn Ngọc Tƣ là một ngƣời phụ nữ chân chất, hồn nhiên và rất có bản lĩnh. Ngọc Tƣ lập gia đình với một ngƣời là thợ kim hoàn và đến nay đã có hai bé trai. Hiện Nguyễn Ngọc Tƣ đang sống tại thành phố Cà Mau và làm việc cho Tạp chí Cà Mau. Tác phẩm đầu tiên đánh giá sự thành công của Ngọc Tƣ, đƣa Ngọc Tƣ chính thức bƣớc vào làng văn đó là tập kí sự “Nỗi niềm sau cơn bão” đạt giải ba toàn quốc báo chí năm 1997. Từ đó, độc giả bắt đầu biết đến tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tƣ qua các tác phẩm đã đƣợc xuất bản nhƣ: Ngọn đèn không tắt ( Tập truyện ngắn – Nxb Trẻ năm 2000). Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi – Nxb trẻ năm 2001). Biển người mênh mông ( Tập truyện ngắn – Nxb Kim Đồng năm 2003). 12 Giao thừa (Tập truyện ngắn – Nxb trẻ năm 2003). Nước chảy mây trôi (Tập truyện ngắn và ký – Nxb Văn nghệ Tp. HCM năm 2004). Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện ngắn – Nxb Văn hóa Sài Gòn năm 2005). Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (tạp bút – Nxb Trẻ năm 2005). Cánh đồng bất tận (Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ năm 2005). Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện ngắn – Nxb Trẻ năm 2008). Biển của mỗi người (tạp bút, 2008). Yêu người ngóng núi (Tản văn – Nxb Trẻ năm 2009). Khói trời lộng lẫy (Tập truyện ngắn – Nxb Thời Đại năm 2010). Gáy người thì lạnh (tản văn – Nxb Trẻ năm 2012). Bánh trái mùa xưa ( tản văn – Nxb Trẻ năm 2012). Sông (tiểu thuyết – Nxb Trẻ năm 2012),… Có thể nói, nếu coi tập kí sự Nỗi niềm sau cơn bão của Nguyễn Ngọc Tƣ là tác phẩm đánh dấu bƣớc khởi đầu trong hành trình trên con đƣờng tiến vào làng văn Việt Nam thì truyện Cánh đồng bất tận đƣợc xem nhƣ một ngã rẽ đầu tiên đƣa nhà văn bƣớc vào một con đƣờng dài rộng hơn. Với sự thành công mang một tiếng vang lớn, Cánh đồng bất tận đã một lần nữa khẳng định tên tuổi của nhà văn trong giới văn nghệ trẻ một thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI. Tiếp sau Cánh đồng bất tận, với Gió lẻ và Khói trời lộng lẫy, Nguyễn Ngọc Tƣ đã thu hút bạn đọc với những bƣớc đi mạnh dạn, thể hiện những nét mới lạ trong sáng tác của mình. Có thể kể đến tặng thƣởng dành cho tác giả trẻ do Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam trao tặng cho tập truyện Ngọn đèn không tắt vào năm 2000. Ngoài ra, chị còn là một trong “Mƣời gƣơng mặt trẻ tiêu biểu năm 2003” do Trung ƣơng Đoàn trao tặng. Đặc biệt với tác phẩm Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tƣ đã thực sự gây sóng gió trên văn đàn văn học Việt Nam, và giải thƣởng ASEAN năm 2008 là phần thƣởng xứng đáng cho những đóng góp của chị với tác phẩm xuất sắc này. Cánh đồng bất tận không chỉ đạt doanh số bán ra cao nhất trong năm 2005 mà sau này còn đƣợc chuyển thể thành một tác phẩm điện ảnh ăn khách, ở các rạp chiếu phim trong cả nƣớc. Sự 13 thành công ở “Cánh đồng bất tận” không chỉ đƣa tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tƣ trở nên gần gũi hơn với công chúng yêu văn chƣơng Việt Nam mà còn là “tấm vé thông hành” đƣa nữ nhà văn này sang xứ sở kim chi và từng bƣớc chinh phục trái tim của những ngƣời dân nơi đây. Với hàng loạt những thành công liên tiếp ấy Nguyễn Ngọc Tƣ ngày càng khẳng định đƣợc tài năng và vị trí của mình trên văn đàn. Với một sức trẻ dồi dào và đầy nhiệt huyết, chắc chắn trong thời gian sắp tới Nguyễn Ngọc Tƣ sẽ còn mang đến cho bạn đọc nhiều bất ngờ hơn nữa về “những đứa con đẻ” của mình. 1.3.2. Sự khẳng định phong cách “Phong cách là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách độc đáo”. Nguyễn Ngọc Tƣ có duyên nợ với truyện ngắn, chị phô niềm đam mê ở thể loại này. Vì vậy, chị có đƣợc thành công rực rỡ, đƣợc bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt nhất, ƣu ái nhất, cùng với sức viết thần tốc cộng với thái độ nghiêm túc trong nghề nghiệp, chị đã cho ra đời bảy tập truyện ngắn đắc địa và hai tập tạp văn. Giai đoạn này, đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện một số cây bút nữ tiêu biểu, đặc biệt bộ ba rất đƣợc yêu thích: Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Thị Diệp Mai và Nguyễn Ngọc Tƣ. Đặc biệt hơn Nguyễn Ngọc Tƣ nổi bật lên trong năm 2005 - 2006, đƣợc xem là năm có biến thiên, chấn động trong văn học, đặc biệt thể loại truyện ngắn. Truyện của chị đã mang đến một “hơi gió mát” (chữ dùng của nhà văn Nguyên Ngọc) cho văn xuôi đƣơng đại. Xu hƣớng các nhà văn đi sâu khai thác mảng hiện thực đang bày ra trƣớc mắt, một hiện thực đang đƣợc rung chuông báo động, ở đó đầy những va chạm, bụi bặm và ngột ngạt của cuộc sống đời thƣờng. Chị dùng ngòi bút viết về những con ngƣời chân lấm tay bùn, những mối tình buồn hết biết trong: Cuối mùa nhan sắc, Hiu hiu gió bấc, Mối tình năm cũ, Thương 14 quá rau răm…Thế nhƣng, đến Cánh đồng bất tận, nhân vật không còn cái vẻ hiền hiền, cam chịu mà, nhân vật nổi loạn. Nguyễn Quang Sáng nhận xét: “Cổ có phong cách riêng. Mà phong cách đó, bắt nguồn từ vốn sống độc đáo, do chính cổ tìm được. Tôi ngẫm ra, Tư có cái cốt của người viết văn, nhưng lại theo cái nghề làm báo. Nghề bắt cổ phải lăn lộn, đi nhiều, thấy nhiều. Tất cả những hiểu biết đó biến thành vốn sống, trộn với tài năng riêng, mới cho ra tác phẩm ấn tượng. Tui đọc Tư nhiều và kỹ. Làm văn chương mà có cá tính không phải dễ tìm. Chất Nam bộ trong văn cổ đậm đặc, từ hình dáng thân thể con người, cách sống, tính cách cho tới ngôn từ. Thoại trong văn Tư không hề bị lai, rặt Nam bộ mà người ta đọc vẫn hiểu và cảm thấu trọn vẹn. Cái lớn nhất mà Tư làm được ở chỗ cổ có công nâng ngôn ngữ bình dân của người miền Tây thành ngôn ngữ văn học” (Đắc Quý, phỏng vấn - Báo Sinh viên Việt Nam - Tết Đinh hợi 2007). So với Ý Anh, Diệp Mai thì Ngọc Tƣ Nam bộ hơn cả, chị viết rất tự nhiên thoải mái, không câu nệ. Vì vậy, ngƣời đọc choáng váng một cách thích thú với nồng độ phƣơng ngữ. Phƣơng ngữ đó tích tụ của một thính giác tinh nhạy, chị nghe âm thanh trong trẻo xung quanh và chuyển âm thanh đó vào trong tác phẩm của mình một cách tự nhiên. Nguyễn Ngọc Tƣ trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề nhƣng chị chinh phục đƣợc độc giả bởi phong cách đặc sệt Nam bộ vừa quen mà rất lạ. Cái mới trong truyện chính là cái cũ, cái quen thuộc, cái lạ ở tài khui mở những sinh hoạt, những phong tục và những con ngƣời sống thân thuộc bên hông nhà mình. Chị đƣa ra một tấm gƣơng sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt hàng ngày. Lạ thay, qua tấm gƣơng lại nhìn thấy sự cộng hƣởng văn chƣơng và cuộc đời, ở đó ta khám phá mọi ngõ ngách tâm hồn của chính cuộc đời ta. Đặc biệt khi Cánh đồng bất tận ra đời, ngay lập tức chị rực sáng, rộ lên mọi lời khen chê. Khen chê nó nhƣ một thuộc tính của mỗi con ngƣời, chẳng một ai sống mà không nhận đƣợc lời khen chê dẫu là trực tiếp hay gián tiếp, chỉ có điều với chị độc giả đã đúng. Từ nông thôn đến thành thị, từ trí thức đến dân cày, từ già đến trẻ… tất cả đều mua sách vì họ “bắt được sóng” từ trái tim và tài năng của chị. Chị lao tâm khổ tứ trên con đƣờng nhà văn - nhà báo không ngừng nghĩ. Vì vậy, tác phẩm đều đặn ra đời đƣợc các nhà chuyên môn đánh giá cao, ăn khách đối với nhà xuất 15 bản, lọt vào tầm ngắm các nhà đạo diễn điện ảnh. Bao nhiêu đó cũng đủ để Ngọc Tƣ vƣợt qua các gƣơng mặt văn học lão làng và trở thành gƣơng mặt sáng giá và triển vọng nhất trong đội ngũ các nhà văn đƣơng đại (đứng sau Nguyễn Huy Thiệp). Nhìn chung, truyện ngắn Ngọc Tƣ thể hiện nỗi đau đời mà dẫu vô tình hoặc cố ý khi xây dựng nhân vật Tƣ tạo nên một phong cách không lẫn vào ai. Nhà văn trăn trở rất nhiều về con đƣờng văn nghiệp, cái “khó nhất là vượt qua sự nhàm chán lặp lại chính mình, leo qua những cái đỉnh do mình dựng nên, thoát ra khỏi cái vòng tròn do mình vẽ. Và khó nữa là làm sao thu xếp với bản thân”. Vì chị biết, con đƣờng văn chƣơng “nhọc nhằn khủng khiếp, qua đoạn hoa hồng là đoạn đầy gai. Nhưng tôi vẫn bước về phía trước, tôi tin phía ấy lại có hoa hồng”. Nguyễn Ngọc Tƣ chƣa đi khỏi vùng đất Nam Bộ, song truyện của chị đã vƣợt qua địa hạt vùng miền, đến với bạn đọc trong cả nƣớc và một số nƣớc ngoài. Số lƣợng tác phẩm chƣa đồ sộ nhƣng chị vừa ấn tay vào cánh cửa văn học ngay lập tức có tiếng vang, có chị văn học Nam Bộ đƣợc biết đến nhiều hơn trong cả nƣớc. Đạt đƣợc điều này cũng do chị biết kế thừa và cách tân trong sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Tiểu kết: Nguyễn Ngọc Tƣ đã trở nên khá quen thuộc với công chúng độc giả yêu văn học. Chị là cây bút trẻ đoạt nhiều giải thƣởng cao trong các giải thƣởng thƣờng kỳ cũng nhƣ trong các cuộc thi viết truyện ngắn do các đơn vị có uy tín trong và ngoài nƣớc tổ chức. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ đã đƣợc in ấn với số lƣợng lớn, đƣợc tái bản, đặc biệt số lƣợng tái bản tập truyện Cánh đồng bất tận đã lên tới 32 lƣợt với hàng vạn bản. Trong dòng chảy chung của văn xuôi đƣơng đại Nguyễn Ngọc Tƣ đã tìm cho mình một lối đi riêng, một phong cách riêng để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Cũng nhƣ nhiều nhà văn nữ khác, thế mạnh của Nguyễn Ngọc Tƣ là nói về nỗi đau, về thân phận những ngƣời đàn bà trong cuộc sống hiện đại. Viết bằng sự thấu hiểu, cảm thông của một nhà văn nữ, Nguyễn Ngọc Tƣ ý nhị đƣa ra những khao khát khôn nguôi về bến bờ hạnh phúc, sự bình yên trong tâm hồn mỗi con ngƣời. 16 CHƢƠNG 2: CÁC KIỂU CON NGƢỜI TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC TƢ 2.1. Giới thuyết khái niệm quan niệm nghệ thuật về con ngƣời 2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là nguyên tắc lý giải, cảm thụ của chủ thể “Văn học là nhân học”, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con ngƣời. Con ngƣời là đối tƣợng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con ngƣời. Mặt khác, ngƣời ta không thể miêu tả về con ngƣời, nếu không hiểu biết, cảm nhận và có các phƣơng tiện, biện pháp nhất định. Điều này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tƣợng con ngƣời trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con ngƣời đã đƣợc hóa thân thành các nguyên tắc, phƣơng tiện, biện pháp thể hiện con ngƣời trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tƣợng nhân vật trong đó. Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con ngƣời trong văn học, tuy nhiên trƣớc nay ngƣời ta chỉ chú ý tới phƣơng diện khách thể của nó. Nhân vật mang những phẩm chất gì? Tính cách nhân vật nhƣ thế nào? Ngoại hình đƣợc khắc họa ra sao, tâm lý nhân vật có gì đặc sắc? Ngôn ngữ nhân vật có đƣợc cá tính hóa hay không? Đó là những vấn đề không thể bỏ qua khi phân tích nhân vật nhƣ một khách thể. Từ đó, cũng nhiều khi ngƣời ta phân tích nhân vật nhƣ những con ngƣời có thật ở ngoài đời. Đối với nhân vật trong hệ thống hình tƣợng tự sự, có nhiều cách hình dung về chức năng và cấu tạo. Về loại hình nhân vật, ngƣời ta chia ra nhân vật chính, phụ, nhân vật chính diện, phản diện. Về mặt cấu trúc có ngƣời chia ra nhân vật mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cánh, nhân vật tƣ tƣởng. Sự chú trọng đến hình tƣợng khách thể của con ngƣời là cần thiết, song xem nhẹ việc tìm hiểu các nguyên tắc lý giải, cảm thụ của chủ thể trong hình tƣợng sẽ dẫn đến việc giản đơn hóa bản chất của sáng tác văn học, đặc biệt là vai trò sáng tạo tƣ tƣởng của nhà văn, rút gọn tiêu chuẩn tính chân thực vào một điểm là miêu tả giống hay không giống so với đối tƣợng. 17 Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời hƣớng ngƣời ta khám phá cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con ngƣời giống hay không giống so với đối tƣợng. 2.1.2. Cơ sở lịch sử, xã hội và văn hóa của quan niệm nghệ thuật về con ngƣời Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con ngƣời trong văn học. Nhƣng các nguyên tắc ấy có cơ sở sâu xa trong thực tế lịch sử. Do đó, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là một sản phẩm của lịch sử. Chẳng hạn nhƣ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trƣớc hết gắn liền với thế giới quan Mác-Lênin , với thực tế đấu tranh cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo và nhất là gắn với quan niệm về con ngƣời mới và cuộc sống mới . Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời cũng là sản phẩm của văn hóa tƣ tƣởng. Quan niệm con ngƣời là hình thức đặc thù nhất cho sự phản ánh nghệ thuật, trong đó thể hiện sự tác động qua lại của nghệ thuật với các hình thái ý thức xã hội khác. Cho nên quan niệm nghệ thuật của mỗi thời có thể đa dạng, nhƣng vẫn mang dấu ấn của quan niệm thống trị. Chẳng hạn nhƣ quan niệm về con ngƣời vũ trụ trong văn học trung đại Việt Nam gắn liền với cảm thức xã hội của con ngƣời trung đại. Đó là quan niệm Thiên Địa Nhân hay “ Thiên – Nhân thương cảm”, con ngƣời là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, con ngƣời có mối liên hệ mật thiết với thiên nhiên. Chính vì thế con ngƣời trong văn học trung đại thƣờng cản nhận mình trong mối quan hệ với đất trời với những cái lớn lao cao cả. Quan niệm con ngƣời chính là sự khám phá về con ngƣời. Nó phản ánh cấu trúc của nhân cách con ngƣời và các hình thức phức tạp tƣơng ứng trong quan hệ con ngƣời đối với thế giới. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời tất nhiên cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ.Trong văn học chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong sáng tác của Nam Cao so với Vũ Trọng Phụng hoặc Ngô Tất Tố. Trong các thể loại văn học khác nhau, chức năng và hệ thống phƣơng tiện biểu hiện khác nhau, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời cũng khác nhau. Con 18 ngƣời trong thần thoại là con ngƣời siêu phàm nhƣ năng lực, một sức mạnh để chế ngự thiên nhiên hay thực hiện một công việc nào đó,con ngƣời trong truyện cổ tích là hiện thân của một quy ƣớc xã hội,… 2.1.3. Khái niệm chung Macsxim Gorki từng nói “Văn học là nhân học”. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng quan niệm “Con người chính là điểm xuất phát cũng là đích hướng đến của văn học”. Có thể nói, con ngƣời là tinh hoa của cuộc sống luôn đƣợc văn học hƣớng đến khám phá và thể hiện. Trong bức tranh đa sắc màu của cuộc sống và văn chƣơng, con ngƣời chính là trung tâm của sự phản ánh và thể hiện. Viết về con ngƣời, mỗi nhà văn có một quan niệm nghệ thuật khác nhau. Thế giới nhân vật trong tác phẩm chính là sự thể hiện rõ nhất quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Đó là những nhân vật mang tính quan niệm. Bao giờ, một nhân vật là “con đẻ” của nhà văn cũng thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn ấy. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là một phƣơng diện thi pháp của tác phẩm. Trong giáo trình “Dẫn luận thi pháp học” GS Trần Đình Sử cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người chính là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”. Là một phƣơng diện quan trọng của thi pháp học, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời không chỉ bộc lộ nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tác phẩm mà còn phản ánh chiều sâu cách cảm, cách nghĩ của nhà văn về con ngƣời, về cuộc đời. Do đó, nó là một trong những yếu tố cơ bản, then chốt của một chỉnh thể nghệ thuật chi phối các phƣơng diện nghệ thuật khác của thi pháp và góp phần tạo nên tính độc đáo trong cách thể hiện tác phẩm. Vì vậy, thông qua quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn, ta có thể hình dung đầy đủ tƣ tƣởng nghệ thuật cũng nhƣ dấu ấn sáng tạo của nhà văn ấy. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là con đƣờng dẫn ta khám phá giá trị của tác phẩm, khám phá cá tính sáng tạo, khẳng định phong cách của nhà văn. 2.1.4. Ý nghĩa của quan niệm nghệ thuật về con ngƣời Quan niệm con ngƣời tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tƣợng nghệ thuật. Sự vận động của thực tế 19 làm nảy sinh những con ngƣời mới, và miêu tả những con ngƣời ấy sẽ làm văn học đổi mới. Nhƣng còn một khía khác là đổi mới cách giải thích và cảm nhận con ngƣời cũng làm cho văn học thay đổi căn bản. trong lịch sử văn học sử dụng lại các đề tài, cốt truyện, nhân vật truyền thống là rất phổ biến. Vẫn là con ngƣời đã biết, nhƣng hôm qua đƣợc nhìn ở một góc độ, hôm nay nhìn sang góc độ mới cũng tạo thành sáng tác văn học mới. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời không phải bất cứ cách cắt nghĩa, lý giải nào về con ngƣời, mà là cách cắt nghĩa có tính phổ quát, tột cùng mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con ngƣời. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời luôn hƣớng vào con ngƣời trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của văn học. Nghệ sĩ là ngƣời suy nghĩ về con ngƣời, cho con ngƣời, nêu ra những tƣ tƣởng mới để hiểu về con ngƣời, do đó càng khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về con ngƣời thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu của họ. 2.2. Các kiểu con ngƣời trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ 2.2.1. Con ngƣời nghệ sĩ bế tắc, tuyệt vọng Với tƣ cách là một nghệ sĩ – nhà báo, Nguyễn Ngọc Tƣ đã thực sự tạo nên phong cách độc đáo của riêng mình. Là một nhà văn hiện thực, con mắt nghề nghiệp (nhà báo) đã giúp chị nhìn thấu tƣờng tận và mổ xẻ đúng căn bệnh trầm kha của thời đại. Là một nghệ sĩ trác tuyệt, tâm hồn chị chạm đến miền thẳm sâu, đầy bí ẩn trong tâm trạng và bản thể của mỗi con ngƣời. Trạng thái tâm lí thƣờng xuất hiện trong đời sống của nhân vật là nỗi cô đơn và tuyệt vọng trong tâm hồn. Nhìn một cách thấu triệt, giới nghệ sĩ trong sáng tác của nhà văn say mê cuồng nhiệt với nghề đến hơi thở cuối cùng. Họ sẵn sàng hi sinh cuộc đời mình, bỏ lại sau lƣng mẹ già, con thơ để sống đúng với nghĩa “sinh nghề tử nghiệp”. Cuối mùa nhan sắc, một minh chứng cho thấy, họ đã từng “một thời vang bóng” trên sàn diễn, nay còn lại chút hơi tàn cuối đời cũng trút hết cho nghề. Vì vậy, giới nghệ sĩ lập ngôi nhà chung đặt tên “Buổi chiều”, mỗi ngƣời một việc: bán chè, bán vé số, đi hát rong…để mƣu sinh chung cho cả nhóm. Họ muốn tồn tại để đƣợc hát cho thỏa lòng mong nhớ sân khấu. Mặc dù, nơi họ hát không phải là sân 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Mau 5 datn...
14
666
69