Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hóa học là một bộ môn khoa học có khối lượng lớn kiến thức cả về
phương diện thực nghiệm lẫn lý thuyết. Trong thời buổi khoa học kĩ thuật phát
triển cao như hiện nay thì việc nắm vững và hiểu rõ về phương pháp thực
nghiệm cũng những kiến thức cơ bản của Hóa học có vai trò rất quan trọng đối
với học sinh, sinh viên và cả giáo viên bộ môn Hóa. Trong đó, bài tập hóa học là
một trong những phương tiện giúp học sinh rèn luyện được tư duy học hóa.
Giải một bài toán hóa học bằng nhiều phương pháp khác nhau là một
trong những nội dung quan trọng trong dạy học hóa học ở trường phổ thông.
Phương pháp giáo dục ở nước ta hiện nay còn nhiều gò bó và hạn chế tầm suy
nghĩ, sang tạo của học sinh. Đa số các em thường có tâm lý hài lòng với một
cách giải nào đó, mà chưa nghĩ đến chuyện tìm cách giải hay nhất, giải quyết bài
toán một cách nhanh nhất.
Trong các cách giải, có những cách chỉ thiên về phương pháp giải nhanh
trắc nghiệm, cũng có những cách thiên về thuần túy theo phương pháp tự luận,
vậy nên có những cách giải rất ngắn nhưng cũng có cách giải rất dài. Tuy nhiên,
dù một cách giải dài hay ngắn cũng thể hiện được sự tìm tòi, sáng tạo của học
sinh, không nên quá lạm dụng phương pháp giải hướng theo hình thức trắc
nhiệm mà quên đi bản chất phương pháp tự luận của bài toán.
Do đó, giải bài toán hóa học bằng nhiều cách khác nhau giúp học sinh rèn
luyện kĩ năng và tư duy học hóa, có khả năng nhìn nhận vấn đề theo nhiều
hướng khác nhau, phát triển tư duy logic và vận dụng tối đa các kiến thức đã
học.
Ngoài ra, việc giải bài tập hóa học bằng nhiều cách giúp giáo viên trau dồi
thêm kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy của mình, đồng thời phát triển được
nhiều bài tập mới và hay cho học sinh. Trên cơ sở đó, với mong muốn đóng góp
một phần nhỏ của mình trong việc phát triển phương pháp giảng dạy hóa học ở
trường phổ thông, trong phạm vi một tiểu luận, chúng tôi chọn đề tài : "Sử dụng
bài tập hóa học có nhiều cách giải để rèn luyện tư duy cho học sinh Trung
Tiểu luận PPDH Hóa học
0
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
học phổ thông".
Hóa học là ngành đặc thù có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực nghiệm,
việc học tập các cơ sở lí thuyết phải luôn đi đôi với việc vận dụng vào việc giải
bài tập mới nắm vững được kiến thức một cách sâu sắc nhất.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Sử dụng bài tập hóa học có nhiều cách giải để rèn luyện tư duy và nâng
cao kết quả học tập môn Hóa học cho học sinh Trung học phổ thông, giúp học
sinh nắm vững và vận dụng hiệu quả các phương pháp giải bài tập Hóa học.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể nghiên cứu : quá trình dạy học hóa học ở trường THPT
- Đối tượng nghiên cứu :
+ Nghiên cứu các phương pháp giải bài tập Hóa học.
+ Sử dụng bài tập hóa học có nhiều cách giải để rèn luyện tư duy cho
học sinh Trung học phổ thông
4. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tư duy, về phương pháp dạy học tích cực và
phương tiện dạy học.
- Nghiên cứu, giới thiệu và phát triển các bài tập hóa học có nhiều cách
giải theo chương trình hóa học THPT.
- Đề xuất phương pháp sử dụng các bài tập hóa học có nhiều cách giải
một cách có hiệu quả trong rèn luyện tư duy cho học sinh THPT.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học hóa học.
- Nghiên cứu các tài liệu tham khảo phục vụ cho dạy học hóa học ở các
trường THPT.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu giáo viên sử dụng hệ thống bài tập có nhiều cách giải một cách hợp
lý và tích cực sẽ giúp cho học sinh mở rộng, đào sâu kiến thức và rèn luyện tư
duy, như vậy sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Hóa học.
Tiểu luận PPDH Hóa học
1
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Việc nghiên cứu các vấn đề về bài BTHH từ trước đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước quan tâm đến như
Apkin G.L, Xereda. I.P. nghiên cứu về phương pháp giải toán. Ở trong nước có
GS. TS Nguyễn Ngọc Quang nghiên cứu lý luận về bài toán; PGS. TS Nguyễn
Xuân Trường, PGS. TS Lê Xuân Thọ, TS Cao Cự Giác, PGS. TS Đào Hữu
Vinh và nhiều tác giả khác đều quan tâm đến nội dung và phương pháp giải
toán... Tuy nhiên, việc nghiên cứu bài toán hóa học có nhiều cách giải còn khá
mới mẻ, chỉ một số ít tác giả nghiên cứu như : PGS. TS Nguyễn Xuân Trường,
TS Cao Cự Giác, Vũ Khắc Ngọc, Lê Phạm Thành..
Xu hướng hiện nay của lý luận dạy học là đặc biệt chú trọng đến hoạt
động và vai trò của HS trong quá trình dạy học, đòi hỏi học sinh phải làm việc
tích cực, tự lực. Đi theo hướng này có các công trình nghiên cứu sau :
- “Phát triển năng lực nhận thức và tư duy cho học sinh trung học phổ
thông qua bài tập hóa học”, Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Văn Dũng năm 2001.
- “Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập nhằm phát triển tư duy cho
học sinh trong dạy học phần hóa học vô cơ lớp 12 nâng cao ở trường trung học
phổ thông”, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Võ Chánh Hoài, ĐHSP Huế, năm
2008.
- “ Phát triển tư duy cho học sinh qua hệ thống câu hỏi và bài tập hóa học
các nguyên tố phi kim ở trường THPT”, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Ngô Đức
Thức, ĐHSP Huế, năm 2002.
Việc giải bài tập hóa học bằng nhiều cách, ngoài cách giải thông thường,
đã biết cũng là một biện pháp hữu hiệu, kích thích học sinh tìm tòi, làm việc một
cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
Tiểu luận PPDH Hóa học
2
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
1.2. Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy và học hóa học
1.2.1. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người
(nhận thức, tình cảm, ý chí). Nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có quan
hệ chặt chẽ với chúng và các hiện tượng tâm lý khác. Hoạt động nhận thức bao
gồm nhiều quá trình khác nhau. Có thể chia hoạt động nhận thức thành 2 giai
đoạn lớn:
- Nhận thức cảm tính: Cảm giác và tri giác.
- Nhận thức lý tính: Tư duy và tưởng tượng.
Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy và học hóa học
cũng nằm trong quy luật chung ấy.
1.2.1.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là một quá trình tâm lý, là sự phản ánh những thuộc
tính bên ngoài của sự vật và hiện tượng thông qua tri giác của các giác quan.
Cảm giác: là hình thức khởi đầu trong sự phát triển của hoạt động nhận
thức, nó phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Tri giác:
được hình thành và phát triển trên cơ sở những cảm giác, nhưng tri giác không phải là
những phép cộng đơn giản của cảm giác, tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách
trọn vẹn và theo cấu trúc nhất định.
Cảm giác và tri giác có vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức. Nếu
như cảm giác là hình thức nhận thức đầu tiên của con người thì tri giác là một
điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của con người
trong môi trường xung quanh. Sự nhận thức cảm tính được thực hiện thông qua
hình thức tri giác cao nhất, có tính chủ động tích cực, có mục đích đó là sự quan
sát, đó chính là sự phản ánh sự vật, hiện tượng bằng nhận thức cảm tính.
1.2.1.2. Nhận thức lí tính
Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ánh những điểu chưa từng có
trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ
sở những biểu tượng đã có.
Tiểu luận PPDH Hóa học
3
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của tư duy là tính “có vấn đề”.
Tư duy chỉ xuất hiện khi con người gặp và nhận thức được tình huống “có vấn
đề”. Tức là tình huống chứa đựng một mục đích, một vấn đề mới mà những hiểu
biết cũ, hành động cũ tuy còn cần thiết nhưng không đủ sức giải quyết. Và muốn
giải quyết vến đề mới đó, con người phải tư duy.
1.2.2. Quá trình nhận thức
Quá trình nhận thức liên quan chặt chẽ với tư duy, năng lực nhận thức
được xác định là năng lực trí tuệ của con người. Nó được biểu hiện dưới nhiều
góc độ khác nhau. Các nhà tâm lý học xem trí tuệ là sự nhận thức của con người
bao gồm nhiều năng lực riêng rẽ và được xác định thông qua chỉ số I.Q.
Năng lực nhận thức được biểu hiện ở nhiều mặt cụ thể là:
- Mặt nhận thức: Như nhanh biết, nhanh hiểu, nhanh nhẹ, biết suy xét và
tìm ra các quy luật trong các hiện tượng một các nhanh chóng.
-Về khả năng tưởng tượng: Óc tưởng tượng phong phú, hình dung ra
được những hình ảnh và nội dung theo đúng điều người khác mô tả.
- Qua hành động: Sự nhanh trí, tháo vát, linh hoạt, sáng tạo.
- Qua phẩm chất: Óc tò mò, lòng say mê, hứng thú làm việc.
1.2.3. Sự phát triển năng lực nhận thức cho học sinh
Việc phát triển năng lực nhận thức thực chất là hình thành và phát triển
năng lực suy nghĩ linh hoạt, sáng tạo mà bước đầu là giải các bài toán nhận thức,
vận dụng vào bài toán thực tiễn, trong hành động một cách chủ động và độc lập
ở các mức độ khác nhau.
Hình thành và phát triển năng lực nhận thức được thực hiện thường
xuyên, liên tục, có hệ thống, điều này đặc biệt quan trọng đối với HS.
Hình thành và phát triển năng lực nhận thức được thực hiện từ việc rèn
luyện năng lực quan sát, phát triển trí nhớ và tưởng tượng, trau rồi ngôn ngữ,
Tiểu luận PPDH Hóa học
4
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp nhận thức và phẩm chất nhân
cách. Những yếu tố này ảnh hưởng đến năng lực nhận thức.
Để phát triển năng lực nhận thức cho học sinh cần đảm bảo các yếu tố
sau:
- Vốn di truyền về tư chất tối thiểu cho HS.
- Vốn kiến thức tích luỹ phải đầy đủ và có hệ thống.
- Phương pháp dạy và phương pháp học phải thực sự khoa học.
- Chú ý đến đặc điểm lứa tuổi và sự đảm bảo về vật chất và tinh thần.
Trong quá trình tổ chức học tập ta cấn chú ý đến các hướng cơ bản sau:
- Sử dụng phương pháp dạy học mang tính chất nghiên cứu, kích thích
được hoạt động nhận thức, rèn luyện tư duy độc lập sáng tạo.
- Hình thành và phát triển ở HS năng lực giải quyết vấn đề tăng cường
tính độc lập trong hoạt động. Người GV cần dạy cho HS biết cách lập kế hoạch
làm việc, phân tích các yêu cầu của nhiệm vụ học tập và đề ra các phương pháp
giải quyết vấn đề một các hợp lý, sáng tạo.
- Cần chú ý tổ chức các hoạt động tập thể trong dạy học. Trong các hoạt
động này mỗi HS thể hiện cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề của mình và nhận
xét, đánh giá được cách giải quyết của bạn. Điều đó sẽ thúc đẩy sự mở rộng và
phát triển tư duy, các quan hệ xã hội, tình bạn bè, trách nhiệm của mình đối với
tập thể.
Như vậy năng lực nhận thức liên quan trực tiếp với tư duy. Năng lực nhận
thức, năng lực trí tuệ được phát triển khi tư duy phát triển.
1.3. Phát triển vấn đề năng lực tư duy
1.3.1. Tư duy là gì ?
Là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách
quan mà trước đó ta chưa biết.
Như vậy, tư duy là một qúa trình tâm lý có sự tìm kiếm và phát hiện cái
mới về chất một cách độc lập. Là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc
tính bản chất, những mối liên hệ bên trong.
Tiểu luận PPDH Hóa học
5
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
Nét nổi bật của tư duy là tính "có vấn đề " tức trong hoàn cảnh có vấn đề
tư duy được nảy sinh.
Tư duy là mức độ lý tính nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm
tính. Nó có khả năng phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng.
Như vậy, tư duy là khâu cơ bản của quá trình nhận thức. Nắm bắt được
quá trình đó, GV sẽ hướng dẫn HS tư duy khoa học trong suốt quá trình học tập .
1.3.2. Những phẩm chất của tư duy
Sự phát triển tư duy nói chung được đặc trưng bởi sự tích luỹ các thao tác
tư duy thành thạo vững chắc của con người.
Những phẩm chất cơ bản của tư duy là:
- Tính định hướng: thể hiện ở ý thức được nhanh chóng và chính xác đối
tượng cần lĩnh hội, mục đích phải đạt được và con đường tối ưu để đạt được mục
đích đó.
- Bề rộng: có khả năng vận dụng nghiên cứu các đối tượng khác.
- Độ sâu: nắm vững ngày càng sâu sắc bản chất của các sự vật hiện tượng.
- Tính linh hoạt: nhạy bén trong việc vận dụng những tri thức và cách thức
hành động vào những tình huống khác nhau một cách sáng tạo.
- Tính mềm dẻo: thể hiện hoạt động tư duy được tiến hành theo các hướng
xuôi và ngược chiều.
- Tính độc lập: thể hiện ở chỗ tự mình phát hiện ra vấn đề, đề xuất cách
giải quyết và tự giải quyết được vấn đề.
- Tính khái quát: khi giải quyết một loạt vấn đề nào đó sẽ đưa ra được mô
hình khái quát, trên cơ sở đó có thể vận dụng để giải quyết các vấn đề tương tự
cùng loại.
1.3.3. Rèn luyện thao tác tư duy
Tư duy là mức độ cao nhất của nhận thức, nó phản ánh những thuộc tính
bản chất của sự vật hiện tượng. Vì vậy trong quá trình học tập cần phải coi trọng
phát triển tư duy cho HS thông qua việc rèn luyện các thao tác tư duy. Các thao
tác cơ bản của tư duy gồm :
Tiểu luận PPDH Hóa học
6
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
1.3.3.1. Phân tích tổng hợp
Tổng hợp : là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các “bộ phận”, những
thuộc tính, những thành phần đã được tách ra nhờ phân tích thành một chỉnh thể.
Phân tích : là quá trình dùng trí óc để phân tích đối tượng nhận thức thành
những “bộ phận”, những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ giữa chúng
để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn, trọn vẹn hơn.
Ví dụ : khi dạy bài về chất (sau lí thuyết chủ đạo), để hiểu sâu sắc về tính
chất của một chất bất kỳ, cần hướng dẫn HS viết và phân tích công thức cấu tạo
của chất đó rồi rút ra các kết luận cần thiết (tổng hợp). Cụ thể đối với bài axit
nitric :
+1
+5
H O N
O
HNO3 võa cã tÝnh axit,
võa cã tÝnh oxi ho¸ m¹nh
O
ThÓ hiÖn tÝnh axit ThÓ hiÖn tÝnh oxi ho¸ m¹nh
Sau đó, hướng học sinh vào tình huống “có vấn đề” ion NO3- trong môi trường axit
(tổng hợp).
Từ đó có thể thấy rằng, phân tích và tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với
nhau, bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất không tách rời. Phân tích là
cơ sở của tổng hợp, tổng hợp diễn ra trên cơ sở của phân tích.
1.3.3.2. So sánh
Là sự xác định những điểm giống nhau và khác nhau của sự vật, hiện
tượng và những khái niệm phản ánh chúng.
Thao tác so sánh phải kèm theo sự phân tích và tổng hợp. Như vậy so sánh
không những phân biệt và chính xác hóa khái niệm mà còn giúp hệ thống hoá chúng
lại.
Trong giảng dạy hóa học thường dùng hai cách so sánh: So sánh tuần tự
và so sánh đối chiếu.
* So sánh tuần tự
Là so sánh trong đó nghiên cứu xong từng đối tượng rồi so sánh với nhau.
Tiểu luận PPDH Hóa học
7
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
Ví dụ: So sánh các hiđrocacbon với nhau: ankan, anken, ankin.
* So sánh đối chiếu
Nghiên cứu hai đối tượng cùng một lúc hoặc khi nghiên cứu đối tượng thứ
hai người ta phân tích thành từng bộ phận rồi đối chiếu với từng bộ phận của đối
tượng thứ nhất.
Ví dụ: So sánh axit và bazơ, kim loại và phi kim …
1.3.3.3. Trừu tượng hóa, khái quát hóa
Trừu tượng hóa là quá trình con người dùng trí óc gạt bỏ những mối liên
hệ, quan hệ thứ yếu của sự vật, hiện tượng và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho
tư duy.
Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những mối quan hệ nhất định.
Những thuộc tính chung này bao gồm hai loại : những thuộc tính giống nhau và
những thuộc tính bản chất.
Ví dụ : phân loại phản ứng hóa học theo tiêu chí “có sự thay đổi số oxi hóa”
(khái quát hóa) cần hướng dẫn HS gạt bỏ (trừu tượng hóa) các dấu hiệu không bản
chất như : số chất tham gia phản ứng, số chất tạo thành, có sự cho – nhận proton…
Qua đó để thấy rằng, trừu tượng hóa và khái quát hóa có mối quan hệ mật
thiết với nhau, chi phối và bổ sung cho nhau, giống như mối quan hệ giữa phân tích
và tổng hợp nhưng ở mức độ cao hơn.
1.3.4. Những hình thức cơ bản của tư duy
1.3.4.1. Khái niệm
Khái niệm phản ánh những thuộc tính chung, bản chất của sự vật - hiện
tượng, quá trình hiện thực. Là kết quả của sự tổng hợp, khái quát biện chứng các
tài liệu kinh nghiệm, các khái niệm được hình thành từ trong quá trình lâu dài
của con người nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Khái niệm nào cũng có nội hàm và ngoại diên. Nội hàm là những thuộc
tính chung, bản chất, đặc trưng cho các sự vật, hiện tượng, quá trình mà khái
niệm phản ánh. Ngoại diên là toàn bộ những sự vật hay hiện tượng có chung cái
thuộc tính bản chất làm thành nội hàm khái niệm.
Tiểu luận PPDH Hóa học
8
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
Ví dụ: “axit là chất có khả năng cho proton” thì HCO , NH 4 ... là ngoại
3
diên của khái niệm “axit”.
1.3.4.2. Phán đoán
Phán đoán phản ánh những mối liên hệ giữa các sự vật – hiện tượng và
quá trình hiện thực. Trong phán đoán bao giờ cũng thể hiện một ý nghĩa nhằm
khẳng định hay phủ định hiện thực. Phán đoán có tính đúng hoặc sai tuỳ thuộc
vào điều khẳng định hay phủ định có thực hay không có thực ở đối tượng được
phán đoán.
Nếu khái niệm được biểu diễn bằng một từ hay một cụm từ riêng biệt thì
phán đoán được biểu diễn dưới dạng một mệnh đề, gồm ba phần: chủ từ (khái
niệm về đối tượng nhận thức); tân từ (khái niệm về đặc tính của chủ từ); hệ từ
(phản ánh mối liên hệ giữa chủ từ và tân từ).
1.3.4.3. Suy lí
Suy lí là hình thức suy nghĩ liên hệ các phán đoán lại với nhau để tạo
thành một phán đoán mới.
Nhìn chung, suy lí gồm hai bộ phận: các phán đoán có trước (gọi là tiền
đề) và các phán đoán có sau (gọi là kết luận). Suy lí được chia thành ba loại: suy
lí diễn dịch, suy lí quy nạp và loại suy.
* Suy lí diễn dịch: là suy lý đi từ nguyên lý chung, phổ biến đến trường hợp riêng lẻ,
cá biệt.
* Suy lí quy nạp: là suy lí ngược lại của suy lí diễn dịch (nhưng hai loại suy lí
này gắn bó mật thiết với nhau).
* Loại suy: là suy lí đi từ một số thuộc tính giống nhau của hai đối tượng để rút
ra kết luận về những thuộc tính giống nhau khác của hai đối tượng đó.
Ví dụ: trong chương halogen, học sinh chỉ cần nghiên cứu kỹ về clo, còn
các halogen khác học sinh biết nhờ phép loại suy.
1.3.5. Tư duy hóa học
Với tư duy toán học thì 1 + 2 = 3
Nhưng với tư duy hóa học thì A + B không phải là phép cộng thuần túy
của toán học, mà là xảy ra sự biến đổi nội tại của các chất để tạo thành chất mới,
Tiểu luận PPDH Hóa học
9
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
theo những nguyên lí, quy luật, những mối quan hệ định tính và định lượng của
hóa học.
- Cơ sở của tư duy hóa học là sự liên hệ quá trình phản ứng sự tương tác
giữa các tiểu phân vô cùng nhỏ bé của thế giới vi mô (nguyên tử, phân tử, ion,
electron, ....).
- Đặc điểm của quá trình tư duy hóa học là sự phối hợp chặt chẽ, thống
nhất giữa những hiện tượng cụ thể quan sát được với những hiện tượng cụ thể
không quan sát được, ngay cả khi dùng kính hiển vi điện tử, mà chỉ dùng kí hiệu,
công thức để biểu diễn mối liên hệ bản chất của các hiện tượng nghiên cứu.
Vậy bồi dưỡng phương pháp và năng lực tư duy hóa học là bồi dưỡng cho
HS biết vận dụng thành thạo các thao tác tư duy và phương pháp logic, dựa vào
những dấu hiệu quan sát được mà phán đoán về tính chất và sự biến đổi nội tại
của chất, của quá trình.
Như vậy cũng giống như tư duy khoa học tự nhiên, toán học và vật lí, tư
duy hóa học cũng sử dụng các thao tác tư duy vào quá trình nhận thức thực tiễn
và tuân theo quy luật chung của quá trình nhận thức.
Hóa học - bộ môn khoa học lí thuyết và thực nghiệm có lập luận, trên cơ
sở những kỹ năng quan sát các hiện tượng hóa học, phân tích các yếu tố cấu
thành và ảnh hưởng, thiết lập những sự phụ thuộc xác định để tìm ra những mối
liên hệ giữa các mặt định tính và định lượng, quan hệ nhân quả của các hiện
tượng và quá trình hóa học, xây dựng nên các nguyên lí, quy luật, định luật, rồi
trở lại vận dụng để nghiên cứu những vấn đề của thực tiễn.
1.3.6. Hình thành và phát triển tư duy hóa học cho học sinh
Việc phát triển tư duy cho HS trước hết là giúp cho HS nắm vững kiến
thức, biết vận dụng kiến thức vào việc giải bài tập và thực hành qua đó mà kiến
thức HS thu nhận được trở nên vững chắc và sinh động hơn. HS chỉ thực sự lĩnh
hội được tri thức khi tư duy của họ được phát triển và nhờ sự hướng dẫn của GV
mà HS biết phân tích, khái quát tài liệu có nội dung sự kiện cụ thể và rút ra những
kết luận cần thiết.
Tiểu luận PPDH Hóa học
10
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
Tư duy càng phát triển thì càng có nhiều khả năng lĩnh hội tri thức một
cách nhanh chóng, sâu sắc và khả năng vận dụng tri thức càng linh hoạt, có hiệu
quả hơn. Như vậy sự phát triển tư duy của HS được diễn ra trong quá trình tiếp
thu và vận dụng tri thức. Khi tư duy phát triển sẽ tạo ra một kĩ năng và thói quen
làm việc có suy nghĩ, có PP chuẩn bị lâu dài cho HS hoạt động sáng tạo sau này.
Do đó hoạt động giảng dạy HH cần phải tập luyện cho HS khả năng tư duy sáng
tạo qua các khâu của quá trình dạy học. Từ hoạt động dạy học trên lớp thông qua
hệ thống câu hỏi, bài tập mà GV điều khiển hoạt động nhận thức của HS để giải
quyết các vấn đề học tập được đưa ra. HS tham gia vào vấn đề này một cách tích
cực sẽ nắm được cả kiến thức và PP nhận thức đồng thời các thao tác tư duy
cũng được rèn luyện.
Dấu hiệu đánh giá tư duy phát triển:
- Có khả năng tự lực chuyển các tri thức, kĩ năng sang một tình huống
mới: Trong quá trình học tập, HS đều phải giải quyết những vấn đề đòi hỏi liên
tưởng đến những kiến thức đã học trước đó. Nếu HS độc lập chuyển tải tri thức
vào tình huống mới thì chứng tỏ đã có biểu hiện tư duy phát triển.
- Tái hiện nhanh chóng các kiến thức, các mối quan hệ cần thiết để giải
quyết bài toán nào đó. Thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ bản chất giữa các
sự vật hiện tượng.
- Có khả năng phát hiện cái chung của các hiện tượng khác nhau, sự khác
nhau giữa các hiện tượng tương tự.
- Có năng lực áp dụng kiến thức vào thực tế. Đây là kết quả phát triển
tổng hợp của sự phát triển tư duy. Để có thể giải quyết tốt các bài toán đòi hỏi
HS phải có sự định hướng tốt, biết phân tích, suy đoán và vận dụng các thao tác
tư duy để tìm cách áp dụng thích hợp, cuối cùng là tổ chức thực hiện một cách
có hiệu quả.
1.4. Đổi mới phương pháp dạy học
Định hướng đổi mới PPDH đã được nêu trong các Nghị quyết của Đảng
và Luật Giáo dục. Luật Giáo dục, năm 2005 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục
phổ thông phhải phát huy tính tích cực , tự giác , chủ động , sáng tạo của học
Tiểu luận PPDH Hóa học
11
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
- Đổi mới phương pháp là một quá trình liên tục phát huy, kế thừa những
tinh hoa của giáo dục truyền thống và tiếp thu có chọn lọc những phương pháp
hiện đại trên thế giới.
- Cần khuyến khích sự phong phú đa dạng của các phương pháp cũng
như là sự phong phú đa dạng của các ý tưởng.
- Trọng tâm của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là hướng
vào người học
- Cái đích cuối cùng của việc đổi mới phương pháp là nâng cao hiệu quả,
các quá trình dạy học.
- Học là hiểu, ghi nhớ, liên hệ, áp dụng. Người sinh viên, học sinh giỏi là
người sinh viên, học sinh có tư duy tốt chứ không phải người sinh viên, học
sinh chỉ biết học thuộc bài.
- Người giáo viên giỏi không phải là cho sinh viên, học sinh biết nhiều
kiến thức mà là dạy cho sinh viên, học sinh biết cách tư duy, biết cách sử dụng
những kiến thức vào những tình huống mới, vào đời sống thực tế.
- Giáo viên chỉ dạy tốt khi có sự đồng cảm với sinh viên, học sinh.
- Những điều kiện để sinh viên, học sinh học tập có hiệu quả là sức khỏe,
vốn kiến thức, khả năng ghi nhớ, khả năng tư duy sáng tạo, phương pháp học
tập, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho học tập, có thầy giỏi.
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình và SGK phổ
thông mà trọng tâm là đổi mới PPDH. Chỉ có đổi mới căn bản PP dạy và học thì
mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo lớp
người năng động, sáng tạo.
1.5. Bài tập hoá học
1.5.1. Khái niệm
Theo nghĩa chung nhất, thuật ngữ “bài tập” (tiếng Anh) là “Exercise”,
tiếng Pháp là “Exercice” và tiếng Nga là “Uprêjnêniê” dùng để chỉ một hoạt
Tiểu luận PPDH Hóa học
12
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
động nhằm rèn luyện thể chất và tinh thần (trí tuệ). Theo từ điển Tiếng Việt, bài
tập là bài giao cho HS làm để vận dụng kiến thức đã học, còn bài toán là vấn đề
cần giải quyết bằng phương pháp khoa học.
Theo các nhà lý luận dạy học Liên Xô (cũ), bài tập bao gồm cả câu hỏi và
bài toán, mà trong khi hoàn thành chúng HS nắm được hay hoàn thiện một tri
thức hoặc một kỹ năng nào đó, bằng cách trả lời vấn đáp, trả lời viết hoặc có
kèm theo thực nghiệm. Hiện nay, ở nước ta, thuật ngữ “bài tập” được dùng theo
quan niệm này.
BTHH là một vấn đề không lớn mà trong trường hợp tổng quát được giải
quyết nhờ những suy luận logic, những phép toán và những thí nghiệm trên cơ
sở các khái niệm, định luật, học thuyết và phương pháp hóa học.
1.5.2. Phân loại bài tập hóa học
1.5.2.1. Cơ sở phân loại
Có nhiều cơ sở để phân loại BTHH. Có thể dựa vào các cơ sở sau:
- Dựa vào hình thái hoạt động của học sinh khi giải bài tập: BT lí thuyết
và BT thực nghiệm.
- Dựa vào tính chất của BT: BT định tính và BT định lượng.
- Dựa vào kiểu bài hoặc dạng bài: BT xác định công thức phân tử, tính
thành phần phần trăm, nhận biết, tách chất, ...
- Dựa vào nội dung: BT nồng độ, điện phân, áp suất, …
- Dựa vào chức năng: BT kiểm tra sự hiểu và nhớ, BT đánh giá các khả
năng vẽ sơ đồ, tìm tài liệu, bài tập rèn luyện tư duy khoa học (phân tích, tổng
hợp, quy nạp, diễn dịch, …).
- Dựa vào khối lượng kiến thức hay mức độ đơn giản, phức tạp của BT:
BT cơ bản, BT tổng hợp.
- Dựa vào hình thức kiểm tra, đánh giá : BT tự luận, BT trắc nghiệm.
Tuy nhiên các cách phân loại trên không có danh giới rõ rệt, có những bài
tập trong đó vừa có chứa nội dung phong phú, vừa có tính chất đặc trưng nổi bật,
vừa có thuật toán riêng. Với những bài như vậy có thể dùng để ôn luyện, củng
cố sau khi đã phân từng dạng nhỏ. Theo tác giả thì sự phân loại BTHH phải dựa
Tiểu luận PPDH Hóa học
13
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
vào 3 cơ sở chính như sau: dựa vào nội dung cụ thể của bài tập đó, dựa trên cơ
sở tính đặc thù của vấn đề cần nghiên cứu và dựa vào mục đích dạy học.
TỔNG QUÁT VỀ BÀI TẬP HÓA HỌC
BTHH
BTĐG
BTĐT
GhiNCTL
chú
m-ớBTHH:
i
BTNC
BTĐL
HTKT
BTĐT
NCTL
KTĐG
Bài
KNtập hóa học
mớ i
- BTĐL
- BTĐG: Bài tập đơn giản
BTĐL
HTKT
KTĐG
: BàiKNtập định lượng
- NCTLM : Nghiên cứu tài liệu mới
- BTNC: Bài tập nghiên cứu
- HTKTKN: Hoàn thiện kiến thức kĩ
năng
- BTĐT: Bài tập định tính
- KTĐG
: Kiểm tra đánh giá
1.5.2.2. Phân loại chi tiết bài tập hóa học ở trường phổ thông
- Bài tập lí thuyết, định tính bao gồm:
+ Viết công thức electron, công thức cấu tạo, đồng phân, …
+ Viết phương trình phản ứng biểu diễn dãy biến hóa của các chất.
+ Bài tập bằng hình vẽ.
+ Nhận biết hay phân biệt các chất.
+ Tách các chất ra khỏi hỗn hợp.
+ Điều chế một chất.
+ Xác định cấu tạo của một chất dựa vào tính chất của nó.
+ Trình bày tính chất hóa học của một chất.
+ Trình bày các định luật, học thuyết, các khái niệm hóa học cơ bản.
- Bài tập lí thuyết định lượng hay bài tập tính toán:
+ Tính khối lượng phân tử của một chất
Tiểu luận PPDH Hóa học
14
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
+ Tính theo công thức hóa học : tính tỉ lệ khối lượng giữa các nguyên tố,
tính phần trăm khối lượng các nguyên tố trong hợp chất, tính khối lượng nguyên
tử của một nguyên tố, …
+ Tính theo phương trình hóa học.
+ Hoàn thành các phương trình phản ứng hạt nhân, tính chu kỳ bán hủy,…
+ Tính lượng chất tan và lượng dung môi để pha chế một dung dịch.
+ Xác định nguyên tố hóa học.
+ Xác định công thức phân tử của hợp chất.
+ Tính thành phần phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của hỗn hợp.
+ Tính tốc độ phản ứng hóa học.
+ Tính độ điện li; hằng số axit, bazơ.
1.5.3. Tác dụng của bài tập hóa học
BTHH là một trong những phương tiện hiệu nghiệm cơ bản nhất để dạy
học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, sản xuất và
tập nghiên cứu khoa học, biến những kiến thức đã tiếp thu được qua bài giảng
thành kiến thức của chính mình. Kiến thức sẽ nhớ lâu khi được vận dụng thường
xuyên như M.A.Đanilôp nhận định “Kiến thức sẽ được nắm vững thực sự, nếu
HS có thể vận dụng thành thạo chúng vào việc hoàn thành những bài tập lý
thuyết và thực hành” .
1.5.3.1. Tác dụng trí dục
- BTHH có tác dụng giúp cho học sinh hiểu sâu hơn các kiến thức về khái
niệm, tính chất đã học.
- Ôn tập hệ thống hóa kiến thức một cách tích cực nhất, đào sâu, mở rộng
sự hiểu biết một cách sinh động, phong phú và không làm cho học sinh buồn
chán khi làm BTHH.
- BTHH có tác dụng giúp cho học sinh tư duy logic, tư duy sáng tạo và
năng lực giải quyết vấn đề được nâng cao.
- BTHH góp phần làm củng cố kiến thức đã học một cách thường xuyên
và hệ thống kiến thức một cách có hiệu quả.
Tiểu luận PPDH Hóa học
15
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
- BTHH thúc đẩy thường xuyên sự rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết
về hóa học.
- BTHH tạo điều kiện cho học sinh phát triển năng lực tư duy. Khi giải
BTHH, học sinh phải sử dụng các thao tác tư duy như: Phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa, suy luận....
1.5.3.2. Tác dụng đức dục
- Qua việc giải BTHH giúp học sinh rèn luyện được các phẩm chất nhân
cách: tính kiên nhẫn, trung thực, tính khoa học và tính độc lập, sáng tạo khi sử lí
các tình huống bài tập.
- Với việc tự giải các bài tập, còn rèn luyện cho học sinh tinh thần kỹ luật,
tính tự kiềm chế, tính kiên trì dũng cảm khắc phục khó khăn , có tính chính xác
khoa học, kích thích hứng thú bộ môn hóa học nói riêng và học tập nói chung.
1.5.3.3. Tác dụng giáo dục kỹ thuật tổng hợp
- Các BTHH có nội dung về nhũng vấn đề kỹ thuật hóa học, công nghệ
hóa học, sản xuất hóa học, thưc tiễn hóa học,....sẽ lôi cuốn học sinh suy nghĩ về
hóa học, làm học sinh ngày càng say mê và yêu thích hóa học.
Nhưng bản thân một BTHH chưa có tác dụng gì cả: không phải một
BTHH “hay” thì luôn có tác dụng tích cực! Vấn đề phụ thuộc chủ yếu là “
người sử dụng nó”. Làm thế nào phải biết trao đúng đối tượng, phải biết cách
khai thác triệt để mọi khía cạnh của bài toán, để HS tự mình tìm ra cách giải,
lúc đó BTHH mới thật sự có ý nghĩa.
1.5.4. Quan hệ giữa bài tập hóa học với việc phát triển năng lực tư duy của
học sinh
Trong học tập hóa học, một trong những hoạt động chủ yếu để phát triển
tư duy cho HS là hoạt động giải bài tập. Vì vậy GV cần phải tạo điều kiện để
thông qua hoạt động này thì NLTD được phát triển, HS sẽ có những phẩm chất
tư duy mới, thể hiện ở:
- Năng lực phát hiện vấn đề mới.
- Tìm ra hướng mới.
Tiểu luận PPDH Hóa học
16
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
- Tạo ra kết quả học tập mới.
Để có được những kết quả trên, người GV cần ý thức được mục đích của
việc giải BTHH, không phải chỉ tìm ra đáp số đúng mà còn là phương tiện khá hiệu
quả để rèn luyện tư duy hóa học cho HS. BTHH phong phú đa dạng, để giải được
BTHH cần phải vận dụng nhiều kiến thức cơ bản, sử dụng các thao tác tư duy so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trìu tượng hóa,…Qua đó HS thường
xuyên được rèn luyện ý thức tự giác trong học tập, nâng cao khả năng hiểu biết của
bản thân.
Thông qua hoạt động giải bài tập sẽ giúp cho tư duy được rèn luyện và
phát triển thường xuyên, đúng hướng, thấy được giá trị lao động, nâng khả năng
hiểu biết thế giới của HS lên một tầm cao mới, góp phần cho quá trình hình
thành nhân cách toàn diện của HS.
1.5.5. Người học sinh phải làm gì để học giỏi môn hóa học
Theo tài liệu của UNESCO, cho đến những năm 60 chương trình giảng dạy
các môn khoa học vẫn tập trung vào giới thiệu hệ thống khái niệm, định luật học
thuyết của từng môn học. Những năm 70, thế giới gắn việc giảng dạy khoa học với
công nghệ và thực tiễn cuộc sống của toàn xã hội. Từ những năm 80 trở lại đây, nổi
bật lên định hướng là việc giảng dạy khoa học phải đảm bảo cho HS phát triển
thành công dân có trách nhiệm và hành động có hiệu quả. Như vậy mục đích của
học tập đã phát triển từ học để hiểu đến học để hành rồi đến học để thành người,
một con người tự chủ, năng động và sáng tạo. Muốn đạt được điều này, mỗi HS
phải tự xác định được mục đích yêu cầu của việc học tập, từ đó đề ra những biện
pháp thích hợp nhằm phát huy năng lực nhận thức của chính mình.
Muốn học tốt môn hóa học nói riêng và các môn học khác nói chung,
mỗi cá nhân cần phải rèn luyện để đạt được những yêu cầu sau:
- Trước hết: Cần có sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tinh thần ý thức học
tập tự giác, tích cực, có ý thức học hỏi để hoàn thiện kiến thức.
- Thứ hai: Phải có bề dày kiến thức hóa học và xắp xếp một cách có hệ
thống, biết vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong mọi tình huống
có vấn đề.
Tiểu luận PPDH Hóa học
17
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
- Thứ ba: Thường xuyên rèn các thao tác tư duy và năng lực độc lập suy
nghĩ thông qua từng bài giảng, rèn luyện năng lực lập luận đúng đắn, phải sử
dụng ngôn ngữ hóa học chính xác rõ ràng.
- Thứ tư: Có năng lực lao động sáng tạo, thì ngay từ đầu phải tập luyện từng
“sáng tạo” nhỏ thông qua các câu hỏi, bài toán và “vấn đề” học tập thực tiễn, chứ
không phải chi bổ sung tri thức mới vào trí nhớ của mình.
- Thứ năm: Phải có hứng thú học tập bộ môn, người HS phải có ý thức
được lợi ích lao động học tập và động cơ hoạt động học tập của mình.
- Thứ sáu: Có năng lực giải quyết vấn đề, nhất là khi có tình huống phức
tạp, học sinh được đặt vào vị chí chủ thể hoạt động nhận thức thông qua hoạt
động tự lực, tự giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển
năng lực sáng tạo và hình thành quan điểm, đạo đức.
1.5.6. Tình hình sử dụng bài toán hóa học có nhiều cách giải để phát triển
năng lực tư duy cho học sinh hiện nay
Qua tìm hiểu, điều tra chúng tôi thấy rằng: Đa số GV đã chú ý đến việc sử
dụng bài tập trong quá trình giảng dạy nói chung tuy nhiên việc sử dụng bài tập
trong quá trình dạy học hóa học còn có những hạn chế phổ biến sau đây:
- Việc xác định mục đích cần đạt cho bài tập nhiều khi chỉ dừng lại ở bản
thân lời giải của bài tập mà chưa có được mục tiêu nhận thức, phát triển tư duy
cho HS.
- Chưa chú trọng khuyến khích HS tìm lời giải thông minh, sáng tạo cho
bài toán mà bằng lòng với một cách giải đã biết.
Thực tiễn cho thấy bài tập hóa học không chỉ có tác dụng ôn tập, củng cố
kiến thức đã học mà còn có tác dụng để phát triển kiến thức, phát triển năng lực
tư duy và rèn trí thông minh cho HS. Tuy nhiên, việc sử dụng bài tập hóa học
như là một phương pháp dạy học hiệu nghiệm thì chưa được chú ý đúng mức.
Giáo viên và học sinh đều quan tâm đến kết quả của bài toán nhiều hơn
quá trình giải toán. Tất nhiên, trong quá trình giải các thao tác tư duy được vận
dụng, các kĩ năng suy luận, kĩ năng tính toán, kĩ năng viết và cân bằng phương
trình phản ứng được rèn luyện. Thế nhưng, nếu chú ý rèn tư duy cho HS trong
Tiểu luận PPDH Hóa học
18
SVTH : Lê Thanh Phong
Khoa Hóa h ọc
Trường Đại học Sư phạm Huế
quá trình giải thì việc giải để đi đến đáp số của các bài toán sẽ đơn giản hơn rất
nhiều.
Đối với cách dạy thông thường thì chỉ cần tổ chức cho HS hoạt động tìm
ra đáp số của bài toán. Để phát triển tư duy và rèn trí thông minh cho HS thì làm
như thế là chưa đủ, thông qua hoạt động giải bài toán hoá học luôn khuyến khích
HS tìm nhiều cách giải cho một bài tập, chọn cách giải hay nhất, ngắn gọn nhất.
Khi giải bài toán, cần tổ chức cho mọi đối tượng HS cùng tham gia tranh
luận. Khi nói lên được một ý hay, giải bài toán đúng, với phương pháp hay sẽ
tạo ra cho HS niềm vui, một sự hưng phấn cao độ, kích thích tư duy, nỗ lực suy
nghĩ tìm ra cách giải hay hơn thế nữa.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Trong chương này chúng tôi đã trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn của đề
tài bao gồm:
1. Năng lực nhận thức: Khái niệm, quá trình nhận thức, sự phát triển năng
lực nhận thức.
2. Vấn đề phát triển năng lực tư duy: Định nghĩa, phẩm chất của tư duy, rèn
luyện các thao tác tư duy, những hình thức cơ bản của tư duy, tư duy hóa học và
phát triển tư duy hóa học cho HS.
3. Bài tập hóa học: Khái niệm, ý nghĩa và tác dụng của bài tập hóa học,
quan hệ giữa bài tập hóa học với việc phát triển năng lực tư duy của học sinh.
4. Tình hình sử dụng bài toán hóa học có nhiều cách giải để phát triển
năng lực tư duy cho HS hiện nay.
Tiểu luận PPDH Hóa học
19
SVTH : Lê Thanh Phong
- Xem thêm -