Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
MỤC LỤC
A. NGUỒN GỐC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
B. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
NGŨ HÀNH TRONG TƯ TƯỞNG CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC
C. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
D. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
1. Ứng dụng vào một số lãnh vực đời sống
2. Ứng dụng vào Y học
3. Lịch vạn niên
4. Học thuyết Âm dương Ngũ hành và võ thuật Việt Nam
5. Phong Thủy học
TRANG
2
14
17
21
21
21
22
22
24
2
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
LÔØI NOÙI ÑAÀU
Trời đất vạn vật nói chung là một đại vũ trụ và con người là một tiểu vũ trụ
và cũng hàm chứa Âm Dương và Ngũ Hành. Khởi đầu là Thái Cực, chưa có sự biến
hóa. Thái cực này vận động biến thành hai khí Âm và Dương. Hai khí Âm Dương
luôn luôn chuyển hóa làm cho vũ trụ động và vạn vật sinh tồn. Người ta thường nói:
Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát
Quái. Toàn thể cuộc Trời Đất này (Vũ Trụ) sinh tồn là do lý Thái Cực, và mọi vật
đều do Âm Dương tác tạo, nên cũng có một lý Thái Cực riêng cho mình. Âm Dương
là khí vô hình, có hai phần khác nhau là Dương và Âm để bù đắp cho nhau mà sinh
động lực.
Học thuyết ngũ hành cho rằng thế giới là do năm loại vật chất cơ bản nhất:
mộc, thổ, hoả, kim, thuỷ cấu tạo nên .Sự phát triển biến hoá của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên (bao gồm cả con người) đều là kết quả của năm loại vật chất
này không ngừng vận động và tác dụng lẫn nhau. Phát hiện này đã tìm ra quy luật
và nguyên nhân sinh diệt của vạn vật trong vũ trụ. Cho nên học thuyết ngũ hành
cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng pháp thô sơ. Học thuyết ngũ hành có công
dụng rất rộng trên mọi lĩnh vực khoa học.
Chúng tôi chọn đề tài này với các lý do sau:
1. Sự hấp dẫn của học thuyết Âm dương Ngũ hành.
2. Ứng dụng rộng rãi của nó trong đời sống hiện nay.
3. Những bí ẩn của nó.
Nội dung tiểu luận gồm bốn phần:
A.
B.
NGUỒN GỐC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ
HÀNH TRONG TƯ TƯỞNG CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC
C.
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
D.
ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Đoàn Thế Hùng và các bạn đồng
nghiệp đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nội dung tiểu luận này.
3
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
A.
NGUỒN GỐC THUYẾT Âm Dương Ngũ Hành
Thuyết Âm Dương - Ngũ Hành xuất phát từ Kinh Dịch cổ. Nguồn gốc của
thuyết này là từ một mô hình tối cổ về các con số gọi là Hà Đồ. Tương truyền do trời
ban cho vua Phục Hy, một ông vua thần thoại của Trung Hoa, cách đây khoảng
4000 năm. Khi Ngài đi tuần thú Phương Nam, qua sông Hoàng Hà, bỗng thấy một
con Long Mã hiện lên, trên lưng nó có những chấm đen trắng.
Khi về Ngài mới phỏng theo mà vẽ lại thành một bảng ký hiệu 10 số đếm bằng các
chấm đen và trắng, xếp thành hai vòng trong và ngoài, theo đúng 4 phương: Nam,
Bắc, Đông, Tây. Ở chính giữa là hai số 5 và 10. Ngài gọi là Hà Đồ, tức là bức đồ trên
sông Hoàng Hà (chỉ là hình vẽ chứ không có chữ vì sự phát minh thuộc thời chưa có
chữ viết).
Bảng Hà Đồ chia 10 số đếm thành 2 loại số đối xứng nhau:
Số
Dương, số Cơ, số Trời: 1, 3, 5, 7, 9 (chấm trắng).
Số
Âm, số Ngẫu, số Đất: 2, 4, 6, 8, 10 (chấm đen).
Số
Sinh: 1, 2, 3, 4, 5.
Số
Thành: 6, 7, 8, 9, 10.
Tuy nhiên, trong Hà Đồ không phải chỉ có Âm Dương, bởi vì chỉ riêng cơ chế Âm
Dương thì không đủ giải thích mọi biến thiên phức tạp của vũ trụ. Trong đồ hình
còn có cả nội dung tương tác của 10 số đếm, thông qua sự định vị 5 con số đầu tiên
là 5 con số Sinh, đại diện cho 5 yếu tố vận động trong vũ trụ, đã được ghi rõ trong
bài ca quyết:
Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành chi.
Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi.
Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành chi.
Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành chi.
Thiên ngũ sinh Thổ, Địa thập thành chi.
Nghĩa Là:
Số Trời 1 sinh Thủy, thành số Đất 6.
Số Đất 2 sinh Hỏa, thành số Trời 7.
Số Trời 3 sinh Mộc, thành số Đất 8.
4
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
Số Đất 4 sinh Kim, thành số Trời 9.
Số Trời 5 sinh Thổ, thành số Đất 10.
Như vậy Ngũ Hành đã được định cùng với 5 cặp số Sinh Thành ra chúng, có vị trí
Tiên Thiên theo đúng các hướng của các cặp số:
1-6: Hành Thủy, phương Bắc.
2-7: Hành Hỏa, phương Nam.
3-8: Hành Mộc, phương Đông.
4-9: Hành Kim, phương Tây.
5-10: Hành Thổ, ở Trung Tâm.
Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khi tương tác lẫn nhau cũng phải theo cơ chế
hai chiều đối xứng là Âm và Dương, tức cơ chế Tương Sinh và Tương Khắc. Đây là
tinh thần căn bản của thuyết Ngũ Hành. Theo đó cứ hai Hành đứng kề cận nhau thì
sinh cho nhau, luân chuyển mãi không ngừng, các Hành cách nhau thì khắc chế
nhau, và cứ thế mà luân lưu mãi, biểu thị cho triết lý cao siêu của sự đổi thay, biến
dịch của vũ trụ tự nhiên.
Sự ra đời của học thuyết ngũ hành, trong giới học thuật vẫn còn là vấn đề
chưa được làm sáng tỏ . Ba loại ý kiến rất đối lập nhau như sau:
Giới dịch học cho rằng sự ra đời của học thuyết ngũ hành rất có khả năng đồng thời
với học thuyết âm dương .Nhưng giới sử học lại cho rằng người đầu tiên sáng lập ra
học thuyết ngũ hành là Mạnh Tử. Trong cuốn "Trung quốc thông sử giản biên" của
Phạm văn Lan đã nói: " Mạnh Tử là người đầu tiên sáng lập ra học thuyết ngũ
hành, Mạnh Tử nói năm trăm năm tất có Vương Giả Hưng ,từ Nghiêu Thuấn đến
Vu Thang là hơn năm trăm năm..Từ Văn Vương đến Khổng Tử lại hơn năm trăm
năm..Hầu như đã có cách nói tính toán về ngũ hành .Sau Mạnh Tử một ít, Châu
Diễn đã mở rộng thuyết ngũ hành trở thành âm dương ngũ hành ".Nói Mạnh Tử
phát minh là không có chứng cứ xác thực.Điều này chính Phạm Văn Lan đã tự phủ
định mình .Trong cùng một chương của cuốn sách trên ông đã nói:" Mặc Tử không
tin ngũ hành, bác bỏ thuật chiêm bốc dùng ngũ sắc thanh long để định cát hung
,điều đó đủ thấy thời Đông Chu thuyết ngũ hành đã thông dụng rồi, đến Châu Diễn
đặc biệt phát huy " . Mạnh Tử là người nước Lỗ thời Chiến quốc mà thời Đông Chu
đã có ngũ hành rồi ,rõ ràng không phải Mạnh Tử phát minh ra ngũ hành .Có những
sách sử nói ,học thuyết âm dương ngũ hành là Đổng Trọng Thư đời Hán sáng lập ra
điều đó càng không đúng .
Giới triết học như Vũ Bạch Huệ ,Vương Dung thì cho rằng: " Văn bản công
khai của ngũ hành có thể thấy trong sách "Thượng Thư " của Hồng Phạm (Tương
truyền văn tự những năm đầu thời Tây chu, theo những khảo chứng của người cận
đại có thể là thời chiến quốc). Ngũ hành là, một thuỷ, hai hoả, ba mộc, bốn kim,
năm thổ; thuỷ nhuận dưới , hoả nóng trên , mộc cong thẳng, kim là cắt đứt, thổ là
nông gia trồng trọt". Qua đó có thể thấy vấn đề nguồn gốc học thuyết ngũ hành vẫn
là điều chưa sáng tỏ.
Tính Chất Của Ngũ Hành
Hành Mộc gọi là Phu Hòa, vì nó phân bố ra khí ôn hòa làm cho vạn vật được nẩy
sinh tươi tốt
Hành Hỏa gọi là Thăng Minh, có nghĩa là bừng sáng, có khí thịnh trưởng làm cho
vạn vật được phát triển.
5
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
Hành Thổ gọi là Bị Hóa, vì nó đầy đủ khí hóa sinh vạn vật, làm cho vạn vật được
đầy đủ hình thể.
Hành Kim gọi là Thẩm Bình, vì nó phát ra khí yên tĩnh, hòa bình, làm cho vạn vật
kết quả.
Hành Thủy gọi là Tĩnh Thuận, vì có khí tĩnh mà nhu thuận làm cho vạn vật được bế
tàng, gìn giữ.
Quan hệ tương sinh nghĩa là giúp cho nhau lớn hoặc sinh ra nhau. Quan hệ tương
khắc là ức chế, làm thiệt hại nhau, nhưng phải biểu hiện cái ý quân bình và giữ gìn
lẫn nhau giữa các Hành. Quan hệ tương sinh và tương khắc nếu thái quá lại làm cho
sự biến hóa bị trở ngại khác thường thành ra thái quá hoặc bất cập.
Hành Mộc bất cập được gọi là Ủy Hòa, nghĩa là thiếu khí ôn hòa sẽ làm cho vạn vật
rũ rượi, không phấn chấn.
Hành Hỏa bất cập được gọi là Phục Minh, nghĩa là thiếu khí ấm áp làm cho vạn vật
ảm đạm, không sáng.
Hành Thổ bất cập gọi là Ty Giám, nghĩa là không có khí hóa sinh, sẽ làm cho vạn
vật yếu ớt, không có sức.
Hành Kim bất cập gọi là Tòng Cách, nghĩa là không có khí thu liễm, làm cho vạn
vật trở nên mềm giãn, không có sức đ àn hồi.
Hành Thủy bất cập gọi là Hạc Lưu, nghĩa là không có khí phong tàng dấu kín, làm
cho vạn vật bị khô queo.
Hành Mộc thái quá thì gọi là Phát Sinh, do sự khuếch tán khí ôn hòa quá sớm, làm
cho vạn vật sớm phát dục.
Hành Hỏa thái quá gọi là Hách Hy, do khuếch tán hỏa khí mãnh liệt, làm cho vạn
vật nóng nảy chẳng yên.
Hành Thổ thái quá gọi là Đơn Phụ, do có khí nồng hậu rắn chắc, làm cho vạn vật
không thể thành hình.
Hành Kim thái quá gọi là Kiên Thành, do có khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay
thẳng, không có sức nhu nhuyễn.
Hành Thủy thái quá gọi là Lưu Diễn, do có khí đầy tràn làm cho vạn vật phiêu lưu
không thể về chỗ.
Do đó 2 hệ thống tương sinh và tương khắc không tồn tại đơn độc, biệt lập. Trong
6
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
tương khắc đã có ngụ ý tương sinh và ngược lại, để vạn vật cùng tồn tại và phát
triển. Bởi vì vũ trụ không thể có sinh mà không có khắc, không thể có khắc mà
không có sinh. Không có sinh thì vạn vật không nảy nở, không có khắc thì sự phát
triển quá độ sẽ có hại.
7
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
8
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
9
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
10
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
11
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
12
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
13
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
Thuyết Âm Dương Ngũ Hành xuất hiện như một học thuyết triết học bao trùm mọi
phương diện trong vũ trụ. Âm Dương, Ngũ Hành cùng song song tồn tại để bổ
khuyết, chế hóa, cùng thúc đẩy sự sinh trưởng, biến hóa vô cùng của vạn vật.
Trải qua nhiều thời đại, các bậc Thánh Nhân đã dày công nghiên cứu, sáng tạo,
cùng vận dụng thuyết Ngũ Hành vào những vấn đề rất lớn rộng, có liên quan mật
thiết đến con người như thiên văn, lịch pháp, y học, dược học, võ học, thời sinh học,
định chế xã hội, văn hóa, phong thủy, địa lý, chiêm tinh, bói toán v.v...
B. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ
HÀNH TRONG TƯ TƯỞNG CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC
14
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
Học thuyết âm dương ngũ hành không những được nhiều trường phái
triết học tìm hiểu lý giải, khai thác mà còn được nhiều ngành khoa học khác
quan tầm vận dụng. Có thể nói, ít có học thuyết triết học nào lại thâm nhập vào
nhiều lĩnh vực của tri thức và được vận dụng để lý giải nhiều vấn đề của tự
nhiên, xã hội như học thuyết này.
Việc sử dụng phạm trù âm dương ngũ hành đánh dấu bước phát triển đầu
tiên của tư duy khoa học phương Đông nhằm đưa con người thoát khỏi sự khống
chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Chính vì thế,
sự tìm hiểu học thuyết âm dương ngũ hành là một việc cần thiết để lý giải những
đặc trưng của triết học phương Đông.
Lý luận về âm dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong sách
"Quốc ngữ". Tài liệu này mô tả âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại
phổ biến trong vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một
dạng có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động
lẫn nhau tạo nên tất cả vũ trụ. Sách "Quốc ngữ" nói rằng "khí của trời đất thì
không sai thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì dân sẽ loạn, dương mà bị đè bên dưới không
lên được, âm mà bị bức bách không bốc lên được thì có động đất".
Lão Tử (khoảng thế kỷ V - VI trước CN) cũng đề cập đến khái niệm âm
dương. Ông nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm và bồng
dương”, ông không những chỉ tìm hiểu quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà
còn muốn khẳng định trong mỗi sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là
âm dương.
Học thuyết âm dương được thể hiện sâu sắc nhất trong "Kinh Dịch". Tương
truyền, Phục Hy (2852 trước CN) nhìn thấy bức đồ bình trên lưng con long mã trên
sông Hoàng Hà mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch thành nét.
Đầu tiên vạch một nét liền (-) tức "vạch lề" để làm phù hiệu cho khí dương và một
nét đứt (--) là vạch chẵn để làm phù hiệu cho khí âm. Hai vạch (-), (--) là hai phù
hiệu cổ xưa nhất của người Trung Quốc, nó bao trùm mọi nguyên lý của vũ trụ,
không vật gì không được tạo thành bởi âm dương, không vật gì không được chuyển
hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau. Các học giả từ thời thượng cổ đã nhận thấy
những quy luật vận động của tự nhiên bằng trực quan, cảm tính của mình và ký
thác những nhận thức vào hai vạch (--) (-) và tạo nên sức sống cho hai vạch đó. Dịch
quan niệm vũ trụ, vạn vật luôn vận động và biến hóa không ngừng, do sự giao cảm
của âm dương mà ra, đồng thời coi âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng
cùng tồn tại trong một thể thống nhất trong mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô, từ một
sự vặt cụ thể đến toàn thể vũ trụ.
Theo lý thuyết trong "Kinh Dịch" thì bản nguyên của vũ trụ là thái cực, thái
cực là nguyên nhân đầu tiên, là lý của muôn vật: "Dịch có thái cực sinh ra hai nghi,
hai nghi sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ". Như vậy, tác giả của “Kinh
Dịch" đã quan niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động. Trong thái cực, thiếu
dương vận động đến thái dương thì trong lòng thái dương lại nảy sinh thiếu âm,
thiếu âm vận động đến thái âm thì trong lòng thái âm lại nảy sinh thiếu dương. Cứ
như thế, âm dương biến hoá liên tục, tạo thành vòng biến hóa không bao giờ ngừng
nghỉ. Vì thế, các nhà làm Dịch mới gọi tác phẩm của mình là "Kinh Dịch”. Ở "Kinh
Dịch", âm dương được quan nệm là những mặt, những hiện tượng đối lập. Như
trong tự nhiên: sáng - tối, trời - đất, đông - tây, trong xã hội: quân tử - tiểu nhân,
15
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự nhiên, xã hội, các tác giả trong "Kinh
Dịch" đã bước đầu phát hiện được những mặt đối lập tồn tại trong các hiện tượng
đó và khẳng định vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó: "vật vật hữu nhất thái
cực" (vạn vật, vật nào cũng có một thái cực, thái cực là ầm dương). Nhìn chung,
toàn bộ “Kinh dịch” đều lấy âm dương làm nền tảng cho học thuyết của mình.
Vấn đề âm dương trong trời đất, trong vạn vật liên quan tới sự sống con
người được bàn nhiều nhất trong nội dung trao đổi y học, y thuật giữa Hoàng đế và
Kỳ Bá qua tác phẩm "Hoàng đế Nội kinh". Tác phẩm này lấy âm dương để xem xét
nguồn gốc của các tật bệnh. "Âm dương, đó là cái đạo của trời đất, kỷ cương của
vạn vật, cha mẹ của sự biến hóa, gốc ngọn của sự sinh sát, phủ tạng của thần minh,
trị bệnh phải cần ở gốc, cho nên tích luỹ dương làm trời, tích lũy ầm làm đất, âm
tĩnh đương động, dương sinh âm trưởng, dương sát âm tàng, dương hóa khí, âm
tàng hình".
Tác phẩm này còn bàn đến tính phổ biến của khái niệm âm dương. Theo tác
phẩm thì trời thuộc dương, đất thuộc âm, mặt trời thuộc dương, mặt trăng thuộc
âm. Âm dương là khái niệm phổ biến của trời đất. Mọi sự vật, hiện tượng trong vũ
trụ đều có thể lấy âm dương làm đại biểu. Thông qua quy luật biến đổi âm dương
trong tự nhiên mà cố thể suy diễn, phân tích luật âm dương trong cơ thể con người.
Từ những quan niệm trên về âm dương, người xưa đã khái quát thành quy
luật để khẳng định tính phổ biến của học thuyết này: Trước hết, âm dương là hai
mặt đối lập với nhau nhưng lại thống nhất với nhau, cùng tồn tại phổ biến trong các
sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Âm dương đối lập, mâu thuẫn nhau trên nhiều
phương diện. Về tính chất: dương thì cứng, nóng, âm thì mềm, lạnh. Về đường đi lối
về: dương là thăng (đi lên), âm là giáng (đi xuống), "cái này đi ra thì cái kia đi vào,
cái này dịch sang bên trái, thì cái kia dịch sang bên phải".
Âm dương còn đối lập nhau cả ở phương vị nữa. Theo "Nội kinh", khí
dương lấy phía Nam làm phương vị, lấy phía Bắc làm nơi tàng thế. Khí âm lấy phía
Bắc làm phương vị, lấy phía Nam làm nơi tiềm phục. Nếu suy rộng hơn nữa thì
phàm những thuộc tính tương đổi như hoạt động với trầm tĩnh, sáng sủa với đen tối,
đông - tây, trong xã hội : quân tử - tiểu nhân, hưng phấn với ức chế, vô hình với hữu
hình... chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự không một cái gì không phải là
quan hệ đối nhiên, xã hội, các tác giả trong "Kinh Dịch" đã lập của âm dương. Do
đó, âm dương tuy là bước đầu phát hiện được những mặt đối lập khái niệm trừu
tượng nhưng nó có sẵn cơ sở tồn tại trong các hiện tượng đó và khẳng định vật chất,
nó có thể bao quát và phổ cập tất cả vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó: các
thuộc tính đối lập của mọi sự vật, âm "vật vật hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào
dương tuỳ đối lập, mâu thuẫn nhau, song cũng có một thái cực, thái cực là âm
dương), không tách biệt nhau mà xâm nhập vào nhau, không phải là tuyệt đối mà là
tương đối, không phải là đại biểu cố định cho một số sự vật nào đó mà là đại biểu
cho sự chuyển biến, đối lập của tất cả các sự vật. Song âm dương không phải là hai
mặt tách rời nhau và chỉ có đấu tranh với nhau mà còn thống nhất với nhau, nương
tựa vào nhau để tồn tại, "âm là cái dương vẫn tìm, mềm là cái dương vẫn lấn".
Trong vũ trụ, cái gì cũng thế, "cô dương thì bất sinh, cô âm thì bất trường".
Nếu chỉ một mình dương hay một mình âm thì không thể sinh thành, biến hóa được.
Nếu một mặt mất đi thì mặt kia cũng mất theo, "dương cô thì âm tuyệt", âm dương
phải lấy nhau để làm tiền đề tồn tại cho mình. Ngay cả cái gọi là âm dương cũng chỉ
16
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
có ý nghĩa tương đối, vì trong dương bao giờ cũng có âm, trong âm bao giờ cũng có
dương. Khi dương phát triển đến thái dương thì trong lòng nó đã xuất hiện thiếu
dương rồi, khi âm phát triển đến thái âm thì trong lòng nó đã xuất hiện thiếu âm
rồi. Sở dĩ gọi là âm vì trong nó phần âm lấn phần dương, sở dĩ gọi là dương vì trong
nó phần dương lấn phần âm. Âm dương bao giờ cũng nương tựa vào nhau. Sách
Lão Tử viết: "phúc là chỗ núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc”.
Bên cạnh quy luật âm dương đối lập, thống nhất còn có quy luật tiêu trưởng
và thăng bằng của âm dương nhằm nói lên sự vận động không ngừng, sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm dương để duy trì tình trạng thăng bằng tương đối của
sự vật. Nếu mặt này phát triển thái quá sẽ làm cho mặt khác suy kém và ngược lại.
Từ đó làm cho hai mặt âm dương của sự vật biến động không ngừng. Sự thắng
phục, tiêu trưởng của âm dương theo quy luật "vật cùng tắc biến, vật cực tắc
phản". Sự vận động của hai mặt âm dương đến mức độ nào đó sẽ chuyển hóa sang
nhau gọi là "dương cực sinh âm, âm cực sinh dương". Sự tác động lẫn nhau giữa
âm đương luôn nảy sinh hiện tượng bên này kém, bên kia hơn, bên này tiến, bên kia
lùi. Đó chính là quá trình vãn động, biến hóa và phát triển của sự vật, đồng thời
cũng là quá trình đấu tranh tiêu trưởng của âm dương.
C. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
Trời đất vạn vật nói chung là một đại vũ trụ và con người là một tiểu vũ trụ
và cũng hàm chứa Âm Dương và Ngũ Hành. Khởi đầu là Thái Cực, chưa có sự biến
hóa. Thái cực này vận động biến thành hai khí Âm và Dương. Hai khí Âm Dương
luôn luôn chuyển hóa làm cho vũ trụ động và vạn vật sinh tồn. Người ta thường nói:
Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát
Quái. Chú ý rằng “thị sinh” ở đây không có nghĩa là từ cái “không” mà sinh ra cái
“có”, mà có nghĩa là đã có sẵn trong đó rồi, và có thể nhận thấy được khi phân hai
(sinh) mà hoạt động. Thái (lớn quá, cao xa quá) Cực (là chỗ tận cùng, chỗ chấm dứt,
và cũng có nghĩa là rất lắm, quá nhiều, quá lớn) là nguyên lý tạo dựng và chi phối
Vũ Trụ. Lí Thái Cực là lý Nhất Nguyên Lượng Cực có nghĩa là một nơi (Nhất
Nguyên) khi nói chung (khi bất động) có hai phần Âm Dương (Lượng Cực) khi nói
riêng ra (khi hoạt động). Nói ngược lại thì sự hoạt động của Âm Dương là cái lý của
Thái Cực. Toàn thể cuộc Trời Đất này (Vũ Trụ) sinh tồn là do lý Thái Cực, và mọi
vật đều do Âm Dương tác tạo, nên cũng có một lý Thái Cực riêng cho mình. Âm
Dương là khí vô hình, có hai phần khác nhau là Dương và Âm để bù đắp cho nhau
mà sinh động lực.
Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hoàn sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái
phát triển và suy tận được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm,
Thái Âm). Tứ Tượng lạ sinh Bát Quái. Bát Quái là tám hướng chính của Âm Dương,
sinh hóa ra 5 khí chất chính là Ngũ Hành. Theo Đổng Trọng Thư thì “Khí của trời
đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra thành bốn mùa, bày xếp theo
Ngũ Hành.” Âm Dương là một, nhưng Âm Dương thiên biến vạn hóa (Bất Trắc) để
sinh Ngũ Hành, và với tính cách tương phản tương thành đã sinh hóa vạn vật, muôn
loài, tạo ra một chuỗi nhân quả liên tục không dứt. Vạn vật trong vũ trụ này sở dĩ
có được là do sự Diệu Hợp Nhị Ngưng, phối hợp với nhau một cách kỳ diệu mà
17
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
ngưng đóng lại của nhị ngũ (2, 5) tức Âm Dương Ngũ Hành là Hình Nhị Thượng
(khí năng, khí chất vô hình) qua Hình Nhị Hạ (thể chất, hữu hình). Khi biến thì
Hình hóa, ở Trời là Tượng, ở Đất là Hình. Âm Dương chuyển hóa, tiêu trưởng,
thuận nghịch đắp đổi cho nhau sinh ra Ngũ Hành, tạo nên vạn vật. Thái Cực động
thì sinh Dương, động cực thì Tịnh, Tịnh thì sinh Âm, Tịnh cực thì lại động, một
Tịnh một động cũng làm căn bản cho nhau, đó là trở về cái gốc (Hổ Vi Kỳ Căn).
Học thuyết âm dương
Thông qua quan sát các sự vật hiện tượng mà chia mọi vật trong vũ trụ thành
hai loại âm dương. Từ đó xây dựng nên tư tưởng duy vật biện chứng pháp thô sơ.
Học thuyết âm dương cho rằng, tất cả mọi vật hình thành biến hoá và phát triển,
đều do sự vận động của hai khí âm dương mà thành . Nó tổng kết qui luật biến hoá
âm dương của giới tự nhiên là thống nhất với tư tưởng triết học đối lập thống nhất .
Học thuyết âm dương không những ứng dụng vào vào các lĩnh vực khoa học mà còn
trở thành cơ sở lý luận thế giới quan duy vật biện chứng của khoa học tự nhiên .Học
thuyết âm dương khởi nguồn từ đời nhà Hạ điều này có thể chứng minh bằng sự
xuất hiện hào âm dương bát quái trong Kinh dịch . Trong bát quái , hào âm (
) và hào dương (
) xuất hiện trong sách cổ "Liên sơn" đời Hạ ;
nên trong "kinh sơn hải" có câu " Phục hi được Hà đồ do đó người Hạ gọi "Liên
sơn"; Hoàng đế được hà đồ, nên ngươi thượng gọi " Qui tàng"; Liệt sơn được Hà
đồ do đó người Chu gọi là "Chu dịch".Nên học thuyết âm dương ra đời vào đời nhà
Hạ là chắc chắn.
Âm dương đối lập
Âm dương đối lập là nói vạn vật trong tự nhiên bên trong nó tồn tại hai thuộc
tính ngược nhau, tức tồn tại hai mặt âm dương .Ví dụ: bát quái là do hai loại ký
hiệu âm dương hợp thành , cũng tức do bốn loại ký hiệu đối lập tổ hợp thành bát
quái do ba hai loại ký hiệu tổ hợp tạo thành sáu mươi tư quẻ cho nên chu dịch càn
tạc độ nói rằng: " Càn khôn là căn bản của âm dương là tổ tông của vạn vật quẻ càn
thuần dương quẻ khôn thuần âm cho nên nói âm dương là hai loại mưu thuẩn đối
lập,là mưu thuẩn căn bản của tất cả sự vật .Song tuy mâu thuẫn đối lập nhưng càn
khôn lại thống nhất với nhau .Nhờ có sự thống nhất này nên mới có sự biến hoá sinh
thành vạn vật .Cho nên sự đối lập và thống nhất của âm dương là có từ đầu chí cuối
tất cả các sự vật.
Thuộc tính âm dương
Âm dương không những thống soái hai mặt đối lập của vạn vật mà còn có
thuộc tính khác ngược nhau . Trong bản chất và hiện tượng đều tồn tại hai mặt đối
lập hàm chứa thuộc tính âm dương , vừa không thể tuỳ ý áp đặt , vừa không thể đổi
cho nhau mà phải theo qui luật nhất định .Vậy dùng tiêu chuẩn nào để phân chia
thuộc tính âm dương của sự vật hiện tượng ? "Hệ từ" nói :" càn đạo thành nam,
khôn đạo thành nữ" .Càn là cha khôn là mẹ sinh ra chấn, cấn, khảm, tốn, ly, đoài
sáu con lại chia thành trai gái , tức trời đất sinh vạn vật, không có vật nào mà không
mang hai thuộc tính.
"Hệ từ" nói: " Thiên tôn địa bỉ " (trời sang đất hèn) "càn là vật dương, khôn là vật
âm" và quẻ dương lẻ quẻ âm chẵn. Phàm là giống nam, cao và lẻ đều thuộc phạm
trù dương, phàm là giống nữ, thấp và mềm đều thuộc phạm trù âm.
Âm dương là gốc của nhau
18
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
Âm dương là gốc của nhau nghĩa là trong sự vật hoặc hiện tượng hai mặt đó
vừa đối lập nhau vừa dựa vào nhau để tồn tại có mối quan hệ biện chứng cái này
dùng cái kia làm tiền đề để tồn tại tức là không có âm dương không tồn tại và không
có dương âm không thể tồn tại .Đúng vậy không có càn thì không có khôn, không có
trời không có đất. "Tố vấn âm dương ứng tượng đại luận" nói : "Âm ở trong dương
giữ lấy, dương ở ngoài khiến âm vậy".Do đó âm dương dựa vào nhau cùng tồn tại
tác dụng lẫn nhau .
Âm dương tiêu trường
Âm dương tiêu trường nghĩa là: Trong sự vật hiện tượng hai mặt đối lập
nhau vận động biến hoá. Sự vận động của nó cái này yếu xuống cái kia mạnh lên .
Do hai mặt âm dương đối lập nên từ đầu chí cuối ở vào thế cái này yếu đi cái kia
mạnh lên nó luôn nằm trong trạng thái cân bằng động như thế mới duy trì được sự
phát triển biến hoá bình thường của sự vật . Hệ từ nói: " mặt trời lặn, mặt trăng
lên, trăng lặn mặt trời lại mọc, cứ thế mà thay nhau. Lạnh đi nóng lại đến, hàn thử
cứ thế thay nhau theo năm tháng". Cái gọi là đi và đến chính là yếu đi và mạnh lên.
Nếu sự biến hoá này phát sinh khác thường cũng tức là phản ứng khác thường của
sự tiêu trường âm dương.
Âm dương chuyển hoá
Âm dương chuyển hoá tức là âm dương biến hoá, nó là hai loại thuộc tínhk
hác nhau của âm dương trong sự vật. Dưới điều kiện nhất định cái này sẽ chuyển
hoá sang phía đối lập bên kia. "Hệ từ" nói: "Âm dương hợp đức thì cương nhu có
hình". Âm và dương đối lập nhưng lại dựa vào nhau chỉ có âm dương thống nhất
mới có thể thúc đẩy sự vật biến hoá và phát triển, như vậy âm dương mới có thể
cùng nhau tồn tại lâu dài...
Âm dương tuy đều có hai thuộc tính khác nhau nhưng lại có thể chuyển hoá
lẫn nhau ." Luôn luôn sinh ra gọi là biến" " đạo có biến động nên gọi là hào". "Dịch
" tức là âm dương cũng biến nghĩa là âm cực sinh dương dương cực sinh âm, cho
nên căn cứ âm biến thành dương, dương biến thành âm mà dương trong cửu sơ của
càn ở dưới, âm trong lục sơ của khôn bát đầu thay đổi. Điều đó nói lên hai quẻ càn
khôn đại diện cho sự mâu thuẫn âm dương lại thống nhất làm một. Hào sơ của hai
quẻ âm dương kết hợp, âm dương bắt đầu chuyển hoá. Âm dương chuyển hoá lẫn
nhau là quy luật phát triển tất yếu của sự vật. Chỉ cần sự vật phát triển thuận theo
qui luật âm dương biến hoá thì cuối cùng sẽ đạt được mục đích sự vật chuyển hoá
lẫn nhau.
Những quy luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn, thống nhất, vận
động và phát triển của một dạng vật chất, âm dương tương tác với nhau gây nên
mọi sự biến hóa của vũ trụ. Cốt lõi của sự tương tác đó là sự giao cảm âm dương.
Điều kiện của sự giao cảm đó là sự vật phải trung và "hòa" với nhau. Âm dương
giao hòa cảm ứng là vĩnh viễn, âm dương là hai mặt đối lập trong mọi sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, quy luật âm dương cũng là quy luật phổ biến của sự vận động và
phát triển không ngừng của mọi sự vật khách quan.
Học thuyết ngũ hành
Học thuyết ngũ hành cho rằng thế giới là do năm loại vật chất cơ bản nhất:
mộc, thổ, hoả, kim, thuỷ, Cấu tạo nên .Sự phát triển biến hoá của các sự vật , hiện
tượng trong tự nhiên (bao gồm cả con người) đều là kết quả của năm loại vật chất
này không ngừng vận động và tác dụng lẫn nhau .Phát hiện này đã tìm ra quy luật
19
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
và nguyên nhân sinh diệt của vạn vật trong vũ trụ .Cho nên học thuyết ngũ hành
cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng pháp thô sơ. Học thuyết ngũ hành có công
dụng rất rộng trên mọi lĩnh vực khoa học.
Đặc tính của ngũ hành
" Mộc" có sinh sôi,dài thẳng ;"hoả" rất nóng, hướng lên ;"thổ" nuôi lớn hoá
dục ;"kim" có tính thanh tĩnh, thu sát ;"thuỷ" hàn lạnh hướng xuống.
Học thuyết ngũ hành dùng hình tượng để so sánh, lấy sự việc hoặc hiện tượng muốn
nói chia làm năm loại, đưa sự vật hiện tượng qui về một trong năm ngũ hành và
trên cơ sở thuộc tính của ngũ hành, vận dụng qui luật ngũ hành để giải thích nói rõ
mối liên hệ và biến hoá giữa các sự vật, hiện tượng .
Ngũ hành sinh khắc
Học thuyết ngũ hành cho rằng , sự vật và giữa các sự vật tồn tại mối liên hệ
nhất định , mối liên hệ này thúc đẩy sự vật tiến hoá phát triển. Giữa ngũ hành tồn
tại qui luật tương sinh, tương khắc, do đó sinh khắc chính là học thuyết ngũ hành
dùng để khái quát nói rõ quan điểm cơ bản của mối liên hệ biện chứng giữa sự phát
triển biến hoá giữa các sự vật hiện tượng
Tương sinh nghĩa là cùng bồi bổ, thúc đẩy, trợ giúp nhau . Tương khắc là chế ngự,
khắc lại, khống chế nhau
Ngũ hành tương sinh: Mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh
thuỷ, thuỷ sinh mộc
Ngũ hành tương khắc:Mộc khắc thổ, thổ khác thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc
kim, kim khắc mộc.
Trong tương sinh có mối quan hệ hai mặt : Cái sinh ra tôi, cái tôi sinh ra
.Sinh ra tôi là cha mẹ cái tôi sinh ra là con cháu, cái khắc tôi là quan quỉ, cái tôi
khắc là thê tài cái ngang với tôi là anh em.
Tương sinh tương khắc giống như âm dương, là hai mặt không thể tách rời
của sự vật, không có sinh thì sự vật không phát sinh không trưởng thành được,
không có khắc không thể duy trì được sự cân bằng và điều hoà trong sự phát triển
và biến hoá của sự vật. Cho neen không có tương sinh thì không có tương khắc,
không có tương khắc cũng không có tương sinh .Mối quan hệ trong sinh có khắc
trong khắc có sinh, tương phân, tương thành dựa vào nhau này để duy trì và thúc
đẩy sự vật phát triển và không ngừng biến hoá
Ngũ hành quá thừa
Vì sao nói ngũ hành quá thừa? Vật thịnh cực quá mức thì thừa mạnh mà có
mầm yếu .Đó gọi là thừa. Vật cực thịnh, thái quá luôn dễ gãy, như ngọc cứng dễ vỡ,
sắt cứng dễ gẫy là lý do này
Phản ngược ngũ hành
Trong ngũ hành sinh khắc, không chỉ khắc theo chiều thuận như vượng khắc
suy mạnh khắc yếu mà có lúc cũng xuất hiện sự xung khắc ngược lại : Suy khắc
vượng , yếu khắc mạnh . Như thổ vượng thì mộc suy , mộc bị thổ khắc, mộc vượng
kim suy kim bị mộc khắc, thuỷ suy hoả vượng , thuỷ bị hảo khắc , kim vượng hoả
suy , hoả bị kim khắc. Sự khắc ngược này gọi là phản ngược.
Ngú hành trường sinh đế vượng
Mộc trường sinh ở Hợi đế vượng ở Mão tử ở Ngọ mộ ở Mùi
Hoả trường sinh ở Dần đế vượng ở Ngọ tử ở Dậu mộ ở Tuất
Kim trường sinh ở Tị đế vượng ở Dậu tử ở Tý mộ ở Sửu
20
Hoïc thuyeát Aâm döông Nguõ haønh vaø öùng duïng cuûa noù trong ñôøi soáng
____________________________________________________________________________________
Thuỷ- Thổ: trường sinh ở Thân đế vượng ở Tý tử ở Mão mộ ở Thìn
Vượng tướng hưu tù của ngũ hành
Mùa xuân Mộc vượng Hoả tưởng Thổ tử Kim tù Thuỷ hưu
Mùa hạ Hoả vượng Thổ tướng Kim tử Thuỷ tù Mộc hưu
Mùa thu Kim vượng Thuỷ tướng Mộc tử Hoả tù Thổ hưu
Mùa đông Thuỷ vượng Mộc tướng Hoả tử Thổ tù Kim hưu.
D. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
1. Ứng dụng vào một số lãnh vực đời sống
a. Ứng dụng vào việc ăn uống:
- “Trời nuôi người bằng Ngũ khí, Đất nuôi người bằng Ngũ vị”.
- Người ta phân loại thức ăn theo Ngũ hành dựa vào màu sắc, mùi vị mà suy
ra tác dụng của món ăn đối với cơ thể. Thí dụ: món ăn chua đi vào Can, ngọt đi vào
Tỳ…. Và sau đó áp dụng nguyên tắc ăn uống theo qui luật của Ngũ hành: dùng thức
ăn phù hợp với tình hình sức khỏe của mình sao cho duy trì được thế quân bình (đối
với người khỏe) hoặc tái lập mối quan hệ quân bình của Ngũ hành trong cơ thể (đối
với người đau ốm). Món ăn đầy đủ Ngũ hành thường tồn tại rất lâu phong tục ẩm
thực (tô phở, nước mắm…). Tránh tình trạng dùng thái quá một món ăn nào đó vì
có thể hại sức khỏe. Thí dụ: ăn quá chua hại Can, quá mặn hại Thận; hoặc khi đang
có bệnh về Tỳ (Thổ) nên tránh dùng thức ăn uống chua (Mộc) để tránh làm hại
thêm Tỳ Vị (Mộc tăng khắc Thổ).
b. Ứng dụng vào tổ chức công việc, tổ chức sinh hoạt hàng ngày:
Dựa theo tính chất của từng hành trong Ngũ hành: Sinh (Mộc), Trưởng
(Hỏa), Hóa (Thổ), Thu (Kim), Tàng (Thủy) và qui luật của Ngũ hành mà tổ chức
công việc hoặc sinh hoạt thường ngày. Thí dụ:
- Khởi đầu một ngày, công việc luôn có tính chất Mộc cần có thời gian để
Sinh. Thí dụ: máy chạy một chút cho trơn máy, người tập thể dục hít thở để khởi
động cho một ngày.
- Kế tiếp là Hỏa (Trưởng): đẩy mạnh tiến độ công việc, đây là lúc năng suất
công việc cao nhất.
- Công việc có kết quả, có sản sinh ra một cái gì mới mẻ thì công việc mới tồn
tại {Thổ (Hóa)}.
- Khi đã có kết quả cần biết thu lại, rút lui từ từ về, nghỉ ngơi dần {Kim
(Thu)}.
- Và ẩn, chứa lại, nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày mới {Thủy (Tàng)}, chuẩn
bị cho quá trình Sinh Trưởng Hóa Thu Tàng kế tiếp. Tránh làm ngược lại hoặc làm
rối loạn quá trình đó.
Một thí dụ khác: Tổ chức hội họp: trước tiên cần có thời gian cho mọi người
chuẩn bị, tập trung (Mộc); sau đó đi vào vấn đề bàn luận (Hỏa); việc bàn luận đó
phải đi đến một kết quả, kết quả hữu ích (Thổ); rồi có đúc kết lại vấn đề (Kim), ra
quyết định tiến hành công việc và chấm dứt cuộc họp (Thủy). Mối quan hệ của từng
giai đoạn nêu trên cũng có Sinh, Khắc, Thừa, Vũ. Việc tiến hành một công việc bất
kỳ nào cũng tương tự. Có như vậy công việc mới thành công vì diễn tiến phù hợp
với qui luật Ngũ hành.
2. Ứng dụng vào Y học
a. Ứng dụng vào Triệu chứng học:
21
- Xem thêm -