Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10...

Tài liệu Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10c7 trường thpt tô hiến thành, thành phố thanh hóa.

.PDF
18
53
110

Mô tả:

1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Có thể nói vấn đề học sinh tốt nghiệp THPT ra trường thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh niên khiến không ít các bậc cha mẹ phải phiền lòng vì con, đặc biệt là trong xã hội phát triển và đòi hỏi sự năng động của con người như hiện nay. Nhiều học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế giới ảo của Internet, của thế giới game… mà quên đi và đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ rụt rè khi tiếp xúc với cộng đồng, xã hội. Thêm nữa, trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ năng tự bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi nhóm thanh niên xấu luôn lấy sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các thanh niên hiền ngoan, ít nói… Vì vậy nhiều bậc phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin, luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc các em không biết cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ người khác, tìm đường, định hướng… Đó cũng là vấn đề mà không ít học sinh trường THPT Tô Hiến Thành – nơi tôi đang công tác, mắc phải. Trong khi đó, môn Ngữ văn với những đặc trưng và thế mạnh riêng của mình có thể góp phần không nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề vừa nêu. Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, tôi chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn 10 cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa.” với hi vọng chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm góp phần nào kinh nghiệm giáo dục cho lớp thanh niên của nhà trường trở thành những con người toàn diện, năng động, sáng tạo, dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng và có ích cho xã hội. 1.2. Mục đích nghiên cứu Tôi nghiên cứu đề tài này để: - Tích hợp kiến thức môn Ngữ văn vào việc giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành nhằm phát huy lợi thế đặc trưng riêng của môn học. - Giáo dục một cách toàn diện cho học sinh lớp 10C7 đồng thời chuẩn bị những kỹ năng mềm cho các em khi bước vào cuộc sống . - Khắc phục những hạn chế cố hữu của phần đông học sinh: thiếu tự tin, bản lĩnh, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. - Đề tài mong muốn đóng góp một phần kinh nghiệm nhỏ trong công tác giảng dạy môn Ngữ văn và tích hợp với công tác giáo dục thanh niên trong trường THPT hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Việc giáo dục kỹ năng sống cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo lứa tuổi, giới tính… chúng ta cần có những vấn đề khác nhau để đưa vào nội dung giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh. 1 Tuy nhiên, với đề tài này, tôi chỉ áp dụng giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn với 40 em học sinh lớp 10C7 của trường THPT Tô Hiến Thành. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Phương pháp tổng hợp tài liệu: Nghiên cứu tổng hợp kiến thức về kỹ năng sống. 1.4.2. Phương pháp quan sát thực tiễn: Quan sát học sinh trong quá trình học tập và hoạt động. 1.4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin. 1.4.4. Phương pháp so sánh: Sử dụng số liệu so sánh hiệu quả của đề tài trước và sau khi áp dụng sáng kiến. 2. NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Theo Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông: Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường và hướng nghiệp, có điều kiện để phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. [6] Ngoài ra, Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có nói: Rèn kỹ năng sống cho học sinh: - Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm. - Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. - Rèn luyện kỹ năng ứng xử, văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. [7] Từ các vấn đề có tính pháp lí nêu trên, tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là cần thiết và phù hợp với chủ trương của ngành và toàn xã hội. 2.1.2. Các loại kỹ năng sống Theo tài liệu tập huấn về Kỹ năng sống của UNICEF( 2014), có những kỹ năng sống sau: [1] 2.1.2.1. Kỹ năng tự nhận thức: Là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu... của bản thân mình, quan tâm và đang ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng. 2.1.2.2. Kỹ năng xác định giá trị: Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là 2 những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó… 2.1.2.3. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc: Kỹ năng kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình hống nào đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kỹ năng xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc , kiềm chế cảm xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc. 2.1.2.4.Kỹ năng giao tiếp: là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết. 2.1.2.5. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông: là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ. [1] 2.1.2.6. Kỹ năng tư duy phê phán: là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng…xảy ra. 2.1.2.7. Kỹ năng tư duy sáng tạo: là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả năng akhám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ. 2.1.2.8. Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là một kỹ năng sống quan trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời. 2.1.2.9. Kỹ năng ứng phó với căng thẳng: là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng 2.1.2.10. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Bao gồm các yếu tố: Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ, biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy, tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó và biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp. 2.1.2.11. Kỹ năng thể hiện sự tự tin: Là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng với bản thân, tin rằng mình có thể trở thành người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thiện các nhiệm vụ. 2.1.2.12. Kỹ năng lắng nghe tích cực: Thể hiện sự tập trung chú ý và sự quan tâm lắng nghe ý kiến vào phần trình bày của người khác. 3 2.1.2.13. Kỹ năng thương lượng: Là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và giải thích, đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất về cách suy nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó. 2.1.2.14. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn: Là khả năng con người nhận thức được nguyên nhân này sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với thái độ tích cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu và quyền lợi các bên, các mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình. 2.1.2.15. Kỹ năng hợp tác: Là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm. 2.1.2.16. Kỹ năng ra quyết định: Là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời. 2.1.2.17. Kỹ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo các phương án đã chọn để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống. 2.1.2.18. Kỹ năng kiên định: Là khả năng con người nhận thức được những gì mình muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. 2.1.2.19. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm: Là khả năng con người thể hiện sự tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. 2.1.2.20. Kỹ năng đạt mục tiêu: Là khả năng con người biết đặt ra mục tiêu cho bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó. 2.1.2.21. Kỹ năng quản lí thời gian: Là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến. Hiện nay, mặc dù Bộ GD&ĐT đã có chủ trương dạy kỹ năng sống cho học sinh ở tất cả các bậc học nhưng vẫn chưa có nội dung chương trình chính thống nào từ Bộ. Điều này vô hình trung khiến một số đơn vị, tung ra đủ loại giáo trình dạy kỹ năng sống, đưa vào các trường học. Các bộ giáo trình này chưa được kiểm định, khiến thị trường sách dạy kỹ năng sống trở nên hỗn loạn. Từ đó mà việc thực hiện giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh thiếu thống nhất, đồng bộ tại các cơ sở. Trường thì yêu cầu giáo viên tranh thủ lồng ghép những bài học đạo đức, những câu chuyện và văn hóa ứng xử hay đại loại là cách ứng biến với tình huống cuộc sống như thế nào... Không có giờ học chính khóa nên việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ dừng ở dạng lồng ghép, tích hợp. Tùy từng trường mà cách lồng ghép khác nhau. Có trường lồng ghép vào môn kỹ thuật, hát nhạc, có trường lại lựa chọn môn Văn học, Lịch sử, GDCD... nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn. 4 Với bộ môn Ngữ văn THPT nói chung, chương trình Ngữ Văn 10 nói riêng, có thể tích hợp giáo dục kỹ năng sống như thế nào? Mức độ, phương pháp ra sao? Vẫn là điều rất lúng túng. Bản thân giáo viên làm công tác giáo dục kỹ năng sống vừa yếu, vừa thiếu vừa chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Do vậy, việc dạy còn khá hời hợt, nhiều khi chiếu lệ tại một số trường. Do đó, hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống chưa cao, chưa được đánh giá một cách nghiêm túc, thiếu những tiêu chí cụ thể để đánh giá. Việc lồng ghép kỹ năng sống là việc các trường bắt buộc phải làm. Tuy nhiên, thực hiện ra sao, lồng ghép như thế nào, dựa vào bộ giáo trình và khung chuẩn nào để đánh giá hiệu quả giảng dạy thì chưa có. Vì thế, nói là chúng ta đang tích cực dạy kỹ năng sống cho học sinh nhưng kỳ thực, tính hình thức của nó khá nặng nề. Bên cạnh đó, đối với học sinh trường THPT Tô Hiến Thành, điểm đầu vào thuộc nhóm trường thấp nhất khu vực thành phố, có nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt: cha mẹ li hôn hoặc vướng vào lao lí hoặc quá nghèo khổ, bệnh tật nên việc chăm sóc dạy dỗ từ phía gia đình còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, khối 10 năm học 2017 – 2018 có điểm đầu vào thấp nhất so với những năm gần đây. Lớp 10 C7 lại có nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. 2.3. Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ Văn 10 Trên cơ sở nội dung chương trình môn Ngữ văn 10 và tình hình thực tế của học sinh lớp 10C7, vừa bước vào một cấp học mới, bậc học cuối cùng của GD phổ thông, trước khi bước vào giai đoạn học nghề, lao động …., trong đề tài này tôi tập trung vào rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng như sau: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí thông tin và kỹ năng tư duy sáng tạo. 2.3.1. Kỹ năng xác định giá trị. 2.3.1.1. Mục tiêu Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kỹ năng xác định giá trị là khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kỹ năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người. Kỹ năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng người khác có những giá trị và niềm tin khác. Giá trị không phải là bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian, theo các giai đoạn trưởng thành của con người. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục vào nền văn hóa, vào môi trường sống, học tập và làm việc của cá nhân. Kỹ năng này giúp học sinh biết cái gì là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân. Từ việc xác định giá trị cụ thể của bản thân cũng như định hướng cho cuộc sống của mình, phải nỗ lực hết mình để đạt được ước mơ đó. 2.3.1.2. Ví dụ minh họa 5 Ví dụ 1: Khi giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Ngữ văn 10 trập 2, Tr112) có thể chỉ ra cho học sinh thấy, giá trị mà Từ Hải cho là quan trọng đó là gì? Nó có giá trị định hướng hay suy nghĩ, hành động như thế nào? Giáo viên có thể định hướng trả lời: Giá trị mà Từ Hải cho là quan trọng đó chính là lí tưởng anh hùng. Từ đó mà chàng thể hiện khát khao được vùng vẫy, tung hoành bốn phương. Ví dụ 2: Khi học “Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy” (Ngữ văn 10 trập 1, Tr39), học sinh tự nhận thức được tinh thần cảnh giác được gửi gắm qua truyền thuyết. Ví dụ 3: Qua tác phẩm “Tấm Cám” (Ngữ văn 10 trập 1, Tr65), học sinh tự nhận thức, xác định giá trị của cái tốt, cái thiện và có ý thức đấu tranh bảo vệ cái tốt, cái thiện, chống lại cái ác, cái xấu trong cuộc sống.Tự nhận thức là kỹ năng sống cần có của mỗi thanh niên- học sinh trong thời kỳ hội nhập. Qua tác phẩm văn học kỹ năng sống sẽ đến gần hơn với học sinh. Ví dụ 4: Khi giảng dạy bài Khái quát lịch sử tiếng Việt (Ngữ văn 10 trập 2, Tr33), sau khi tôi đã giúp học sinh nắm bắt được nguồn gốc, các mối quan hệ họ hàng, quan hệ tiếp xúc, tiến trình phát triển của tiếng Việt và hệ thống chữ viết của tiếng Việt...Tôi đi đến nhấn mạnh: Trân trọng tiếng mẹ đẻ, sử dụng chuẩn mực, trong sáng tiếng Việt cũng là trân trọng những giá trị truyền thống mà cha ông ta để lại. 2.3.2. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc 2.3.2.1. Mục tiêu Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn. Kỹ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần củng cố các kỹ năng này. Trong cuộc sống của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta phải kiểm soát cảm xúc nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp. 2.3.2.2. Ví dụ minh họa Ví dụ: Khi giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Ngữ văn 10 trập 2, Tr112), giáo viên có thể đặt vấn đề: Vì sao Từ Hải chia tay Thúy Kiều không quyến luyến, bịn rịn? Giáo viên có thể hướng dẫn trả lời: Vì Từ Hải là người anh hùng phi thường có khả năng kiểm soát cảm xúc là khả năng nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với Thúy Kiều thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp. 2.3.3. Kỹ năng giao tiếp 2.3.3.1. Mục tiêu 6 Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác như bày tỏ sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiếm soát cảm xúc. Người có kỹ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính đáng. Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kỹ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kỹ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng. 2.3.3.2. Ví dụ minh họa Ví dụ 1: Khi dạy bài Văn bản, (Ngữ văn 10 trập 1, Tr23) phần I, mục 3, ngữ liệu: LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm! Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946 HỒ CHÍ MINH [4] Câu hỏi 1: Văn bản trên được người nói (người viết) tạo ra trong loại hoạt động nào? Để đáp ứng nhu cầu gì? Dung lượng (số câu) ở mỗi văn bản như thế nào? 7 Câu hỏi 2: Văn bản trên đề cập đến vấn đề gì? Vấn đề đó được triển khai nhất quán trong toàn bộ văn bản như thế nào? Câu hỏi 3: Nội dung của văn bản được triển khai mạch lạc qua từng câu, từng đoạn như thế nào và có kết cấu mấy phần? Câu hỏi 4: Về hình thức, văn bản có dấu hiệu mở đầu và kết thúc như thế nào? Sau khi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi nhằm hướng tới nắm bắt được khái niệm và đặc điểm của văn bản, giáo viên lồng ghép để giảng dạy kỹ năng sống: Cuộc sống của chúng ta có muôn vàn câu hỏi cần chúng ta phải trả lời. Qua cách phát biểu của các bạn thì phần nhiều các bạn chưa có kỹ năng giao tiếp.Ngoài việc học các kiến thức trong sách vở, việc rèn luyện các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp là vô cùng cần thiết. Kỹ năng giao tiếp giúp chúng ta có thể đưa ra những chính kiến, trình bày suy nghĩ của mình một cách tốt hơn. Ví dụ 2: Khi dạy bài: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, (Ngữ văn 10 trập 1, Tr113), phần I, mục 1, ngữ liệu: Hãy thể hiện đúng giọng điệu ghi chép sau đây: (Buổi trưa, tại khu tập thể X, hai bạn Lan và Hùng gọi bạn Hương đi học) - Hương ơi đi học đi! (im lặng) - Hương ơi! Đi học đi! (Lan và Hùng gào lên) - Gì mà ầm ầm lên thế chúng mày! Không cho ai ngủ ngáy nữa à! (tiếng một người đàn ông nói to) - Các cháu ơi, khẽ chứ! Để cho các bác ngủ trưa với !... Nhanh lên con, Hương! (tiếng mẹ Hương nhẹ nhàng, ôn tồn) - Đây rồi, ra đây rồi! (tiếng Hương nhỏ nhẹ) - Gớm, chậm như rùa ấy! Cô phê bình chết thôi! (tiếng Lan càu nhàu) - Hôm nào cũng hậm. Lạch bà lạch bạch như vịt bầu!... (tiếng Hùng tiếp lời) [4] Sau khi phân tích để học sinh nắm được khái niệm và các đặc trưng của ngôn ngữ sinh hoạt, giáo viên lồng ghép dạy kỹ năng: Trong quá trình giao tiếp, chúng ta không chỉ chú ý đến việc dùng từ đặt câu phù hợp với đối tượng, mục đích nói, chúng ta còn phải chú ý đến các yếu tố bên ngoài: không gian, thời gian... để điều chỉnh giọng điệu, âm lượng cho phù hợp và không ảnh hưởng đến người khác. Kỹ năng này cần kết hợp với kỹ năng nhận thức, kỹ năng quan sát... 2.3.4 Kỹ năng thể hiện sự cảm thông 2.3.4.1.Mục tiêu: Kỹ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử với người khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với những người cần sự giúp đỡ. 8 2.3.4.2. Ví dụ minh họa Ví dụ 1: Khi giảng dạy đoạn trích “Trao duyên” (Ngữ văn 10 trập 2, Tr103), giáo viên có thể đặt vấn đề: Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều luôn trách mình là kẻ phụ bạc Kim Trọng, theo em, Kiều có đáng trách thật không? Giáo viên có thể định hướng trả lời: Kiều không đáng trách mà chỉ đáng thương, hướng dẫn học sinh đặt mình vào trong hoàn cảnh của Kiều có còn lựa chọn nào khác không? Giáo viên lồng ghép kỹ năng sống: Học sinh nhận thức được, cuộc sống có biết bao cảnh đời éo le, thương tâm, việc biết chia sẻ, cảm thông với những cảnh đời như vậy là vô cùng cần thiết. Nó làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn, giàu tình người hơn, đáng sống hơn. Ví dụ 2: Trong bài viết: Cảm nghĩ về hiện tượng đời sống (Ngữ văn 10 trập 1, Tr28), mục đọc thêm, ngữ liệu: CHA THÂN YÊU NHẤT CỦA CON Bây giờ đã khuya lắm rồi và ánh trăng đang soi rọi cho con viết lá thư này. Con không sao ngủ được vì quá xúc động khi nghĩ đến việc chỉ vài ngày nữa, cha sẽ phải giã từ bưu điện, trút bỏ bộ đồng phục xanh lá cây đã phai màu của mình để nghỉ hưu. Suốt bao nhiêu năm, cha đã làm người đưa thư trong cái thị trấn này. Cha đã đạp xe dọc theo những đại lộ hay những phố nhỏ chật hẹp, gõ cửa và đem những tin tức của một người họ hàng, đem những lời chào nồng nhiệt nhất từ một nơi xa xôi nào đó [...]. Chiếc phong bì nào cũng đều chứa đựng những tin tức được mong chờ từ lâu. Con muốn cha biết được rằng, con vô cùng kính yêu cha cũng như khâm phục biết bao nhiêu cai công việc cha đã làm cho hàng vạn con người [...]. Khi con nghĩ về hàng ngàn cây số cha đã đạp xe qua, đem theo một túi nặng đầy thư, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, dù trời nắng hay mưa, lòng con tràn ngập niềm tự hào khi tưởng tượng ra niềm vui mà cha đem lại cho những ai chờ đợi tin tức từ những người họ yêu dấu. Cha đã gắn kết những trái tim lại với nhau như một nhịp cầu vồng. [...] Cha ơi, suốt cả cuộc đời mình cha đã đi đưa thư cho người khác, nhưng chưa bao giờ cha nhận được bức thư nào [...]. Chắc đã từng có lúc cha ao ước nhận được thư. Và giờ đây, con, con gái nuôi của cha, đang viết lá thư, lá thư đầu tiên gửi cho cha. Con muốn cám ơn cha vì tình yêu thương và sự chắm sóc mà cha đã dành cho con. Ngày mai, con sẽ lên thành phố và từ đó gửi bức thư này đi, để biến nó thành bức thư thực sự. Nhưng trước khi làm điều này, con muốn cha biết bí mật của con. Khi nào con lớn lên, con sẽ mang chiếc túi thư của cha, đạp xe dọc theo những con đường xanh rợp bóng quen thuộc mà cha vẫn đi và trở thành người mang tin cho những ai đang ngóng đợi thư. Cha ơi, cha đừng lo lắng. Con sẽ làm nốt những công việc mà cha đang bỏ dở và cố gắng để trở thành một bưu tá giỏi như cha. Con gái yêu của cha Xiao Jun [4] 9 Sau khi hướng dẫn học sinh tham khảo về bức thư, rút ra những bài học về một bài văn phát biểu cảm nghĩ, giáo viên tích hợp kỹ năng sống: Trước khi có thể cảm thông với những người ngoài, chúng ta cần cảm thông với ngay những người thân yêu của mình. Người con trong bức thư nhờ sự cảm thông mà thấu hiểu người Cha đã đạp xe dọc theo những đại lộ hay những phố nhỏ chật hẹp, gõ cửa và đem những tin tức của một người họ hàng, đem những lời chào nồng nhiệt nhất từ một nơi xa xôi nào đó. Hiểu được: suốt cả cuộc đời mình cha đã đi đưa thư cho người khác, nhưng chưa bao giờ cha nhận được bức thư nào. 2.3.5. Kỹ năng tư duy phê phán. 2.3.5.1. Mục tiêu Với kỹ năng này, học sinh biết sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ thống. - Thu thập thông tin về vấn đề, sự vật, hiện tượng…đó từ nhiều nguồn khác nhau. - Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều. - Xác định bản chất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng…là gì? - Nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng,….đó, xem xét một cách thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống. Kỹ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được những quyết định, những tình huống phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp…thì kỹ năng tư duy phê phán càng trở lên quan trọng đối với mỗi cá nhân. 2.3.5.2. Ví dụ minh họa Ví dụ 1: Bàn luận về sự bình yên. Sau khi đã giải thích, bình luận, học sinh nhất thiết phải lật ngược vấn đề như: Tìm đến sự bình yên chứ không phải tìm về sự trì trệ, lười biếng. Kỹ năng sống: Đứng trước cái xấu, cái ác, con người phải biết lên án, phê phán. Im lặng trước cái xấu, cái ác là đang đồng lõa với chúng, tạo điều kiện cho chúng hại người, hại đời. Ví dụ 2: Khi dạy bài lập luận trong văn nghị luận (Ngữ văn 10 trập 2, Tr110), phần II, mục 1, ngữ liệu: CHỮ TA Vừa ở Xơ un (Hàn Quốc) về nước, đi công tác ở một số thành phố, thấy cần phải viết ngay một điều. Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, loại : Con rồng nhỏ, có mối quan hệ khá chặt chẽ với các nước phương Tây, một nền kinh tế thị trường nhộn nhịp, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Khắp nơi đều có quảng cáo, nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ đặt dưới chữ Triều Tiên to hơn ở phía trên. Đi đâu, nhìn đâu cũng thấy nổi bật nhửng bảng hiệu chữ Triều Tiên. Trong khi đó ở một vài 10 thành phố của ta nhìn vào đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các công sở của ta hẳn hoi mà chữ nước ngoài lại lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như mình đi lạc sang một nước khác. Báo chí ở Hàn Quốc khá nhiều. Tôi không biết chữ Triều Tiên nhưng xem qua khá nhiều tờ báo. Có một só tờ bào, tạp chí, số báo xuất bản bằng tiếng nước ngoài, in rất đẹp. Nhưng các tờ báo phát hành ở trong nước đều không có mấy trang viết bằng tiếng nước ngoài, trừ một số tạp chí khoa học, ngoại thương có in ở trang cuối mục lục bằng tiếng nước ngoài để người đọc nước ngoài nhờ dịch những bài cần đọc. Trong khi đó ở ta, khá nhiều tờ báo, kể cả một số tờ báo của các ngành của nhà nước ta có cái mốt  là tóm tắt một số bài chính bằng tiếng nước ngoài ở trang cuối, xem ra để cho oai trong khi đó người đọc trong nước lại bị thiệt mất mấy trang thông tin. Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một số quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm. [5] Trong quá trình tìm hiểu về cách thức lập luận và quan điểm của tác giả, giáo viên lồng ghép giáo dục kỹ năng tư duy phê phán: Tác giả bài viết đã phân tích một cách khách quan về việc dùng chữ nước ngoài của người Việt Nam. Tác giả Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ thống. Ông phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được. Ông xác định bản chất vấn đề, tình huống, hiện tượng của việc dùng chữ nước ngoài giữa hai nước. Ông đi đến kết luận: Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một số quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm. Đó là các bước rèn luyện tư duy phê phán. 2.3.6. Kỹ năng tư duy sáng tạo. 2.3.6.1. Mục tiêu Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn các người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt. Tư duy sáng tạo là một kỹ năng sống quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp. Khi một người biết kết hợp tốt giữa kỹ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất. 2.3.6.2. Ví dụ minh họa Ví dụ: Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận xã hội như: Luận về sự bình yên - Trạng thái tâm lí. Trong bài nghị luận xã hội, phần bình luận đánh giá và mở rộng vấn đề chính là phần thể hiện năng lực nhận thức, bản lĩnh của người viết và khả năng sáng tạo rõ nhất. Bởi vậy, phần này giáo viên phải gợi mở cho học sinh 11 thể hiện kỹ năng sống của mình cũng như cách bày tỏ quan điểm một cách sáng tạo: - Khi nào con người có sự bình yên? + Khách quan bên ngoài: Con người luôn tồn tại trong một cộng đồng xã hội luôn tiềm ẩn những rủi ro nên rất khó tìm thấy sự bình yên. + Mỗi một con người luôn luôn là một hành trình với những hoài bão và ước mơ, nó gắn với những xúc cảm: lo lắng, căng thẳng, phấn khích vì ước mơ - sắc thái làm cho con người không thể bình yên. + Nếu không có bình yên thì cuộc sống rất căng thẳng nên dù thế nào chúng ta cũng phải tìm cho mình những khoảng bình yên: Ví dụ ngồi bên người thân, bên thiên nhiên... tuy ít nhưng rất quý giá. - Đánh giá: Tìm đến sự bình yên chứ không phải tìm về sự trì trệ, lười biếng. - Làm thế nào để có bình yên. + Yếu tố bên ngoài: Đất nước, trường lớp, gia đình. + Yếu tố bên trong: Chúng ta phải sống tốt với mọi người và có cái nhìn tích cực với cuộc sống và con người. 2.3.7. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin. 2.3.7.1. Mục tiêu Để tìm kiếm và xử lý thông tin học sinh cần: - Xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin là chủ đề gì. - Xác định các loại thông tin về chủ đề mà mình cần phải tìm kiếm là gì. - Xác định các nguồn/ các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông tin đó ( ví dụ: sách, báo, mạng internet, cán bộ các cơ quan/ tổ chức có liên quan, bạn bè, người quen…) - Lập kế hoạch thời gian và liên hệ trước với những người có liên quan đến việc cung cấp thông tin, nếu có. - Chuẩn bị giấy tờ, phương tiện, bộ công cụ để thu thập thông tin (ví dụ: máy tính, máy ghi âm, phiếu hỏi, bộ câu hỏi phỏng vấn,…), nếu cần thiết. - Tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng. - Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ thống. - Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều; xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các thông tin đó. - Viết báo cáo, nếu được yêu cầu. - Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin cần kết hợp với kỹ năng tư duy phê phán và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ. 2.3.7.2. Ví dụ minh họa Ví dụ: Khi giảng dạy bài Viết quảng cáo (Ngữ văn 10 trập 2, Tr142), phần I, mục 1, ngữ liệu: BÁN MÁY VI TÍNH Máy mới 100%, đúng hãng INTEL -IBM, lãi suất thấp, thủ tục đơn giản, tiền trả trước thấp. 12 Liên hệ: Công ty X, số nhà..., phố..., thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại:... [ 5 ] Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về đặc điểm vầ cách viết văn bản quảng cáo, giáo viên lồng ghép giáo dục kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: Để viết được văn bản quảng cáo, chúng ta phải tìm hiểu về thông tin của sản phẩm hoặc dịch vụ nhưng không phải thông tin nào cũng đưa vào viết bài mà chỉ đưa vào những thông tin nổi bật nhất, ưu việt nhất. Trong cuộc sống, đứng trước một sản phẩm hoặc dịch vụ được quảng cáo rất hấp dẫn, chúng ta cũng cần tìm hiểu kỹ những thông tin mà những quảng cáo đó mang lại trước khi quyết định mua sản phẩm hay dịch vụ đó. Để có thể làm được những điều vừa nêu ở trên, chúng ta phải rèn luyện kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Như vậy, trong quá trình thực hiện, tôi đã lồng ghép giảng dạy các kỹ năng: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí thông tin và kỹ năng tư duy sáng tạo... ở tất cả các phân môn: đọc văn, tiếng Việt, làm văn. Ở phần đọc văn, tôi đã thực hiện lồng ghép giáo dục các kỹ năng: Xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng cảm thông. Ở phần làm văn, tôi thực hiện lồng ghép giáo dục các kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Ở phần tiếng Việt, tối đã thực hiện lồng ghép giáo dục các kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị. Qua đó cho thấy, ở phân môn nào, mục nào chúng ta cũng có thể lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong đó phần đọc văn và làm văn thuận tiện cho việc lồng ghép hơn. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 2.4.1. Số liệu thống kê kết quả và so sánh qua phiếu điều tra: Lớp 10C7: Trước khi áp dụng phương pháp tích hợp Đối tượng Mức độ ST Phương diện đánh giá T đánh giá Sĩ Chưa Bình Rất Lớp Tốt số tốt thường tốt 1 Kỹ năng xác 20 12 05 03 định giá trị 2 Kỹ năng kiểm 14 16 06 04 soát cảm xúc 3 4 Kỹ năng giao 10C tiếp 7 Kỹ năng cảm thông 40 09 18 08 05 15 18 05 02 13 5 6 7 Kỹ năng phê phán Kỹ năng sáng tạo Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin 08 16 10 06 18 13 07 02 12 12 11 05 Lớp 10C7: Sau khi áp dụng phương pháp tích hợp: Đối tượng Mức độ đánh giá Phương diện STT Chưa Bình đánh giá Lớp Sĩ số Tốt tốt thường 1 Kỹ năng xác 05 15 12 định giá trị 2 Kỹ năng kiểm 04 14 12 soát cảm xúc 3 4 Kỹ năng giao 10C7 40 tiếp Kỹ năng cảm thông Rất tốt 08 10 02 17 13 08 07 14 10 09 5 Kỹ năng phê 06 11 13 10 phán 6 Kỹ năng sáng 08 10 14 08 tạo 7 Kỹ năng tìm kiếm và xử lí 02 11 17 10 thông tin Qua bảng số liệu thống kê chúng ta nhận thấy: Số học sinh nắm được các kỹ năng đều tăng lên. Trong đó, kỹ năng xác định giá trị (1), kỹ năng kiểm soát cảm xúc (2) và kỹ năng cảm thông (4) là các kỹ năng có số lượng học sinh thay đổi nhiều nhất( số lượng học sinh nhận thức từ tốt và rất tốt tăng lên 12 học sinh chiếm 30%). Số học sinh nhận thức tốt và rất tốt với kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin (7) cũng tăng lên 11 học sinh so với trước khi áp dụng sáng kiến. Thêm vào đó, số lượng học sinh có kỹ năng giao tiếp(3) và kỹ năng sáng tạo(6) tốt hơn cũng tăng lên từ 8 đến 10 học sinh( tăng từ 20% đến 25%). Kỹ năng phê phán (5) cũng tăng lên với mức độ nhận thức tốt và rất tốt là 7 học sinh. Bên cạnh đó, ở các kỹ năng, số lượng học sinh nhận thức ở mức độ chưa tốt và bình thường giảm xuống đáng kể. Phải kể đến là kỹ năng xác định giá trị (1)( 18 học sinh), kỹ năng sáng tạo (6) (13 học sinh), kỹ năng kiểm soát cảm xúc (2) và kỹ năng cảm thông(4) ( 12 học sinh). Học sinh nhận thức ở mức độ chưa tốt và bình thường với kỹ năng tìm kiếm và xử lí 14 thông tin (7), kỹ năng phê phán (5) và kỹ năng giao tiếp (3) sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này cũng đã có sự thay đổi đáng kể, giảm số lượng xuống còn 13 học sinh, 11 học sinh và 19 học sinh so với trước khi áp dụng là 24 học sinh, 18 học sinh và 27 học sinh. Nói tóm lại, sau quá trình giảng dạy tích hợp một số kỹ năng sống vào môn học Ngữ văn cho học sinh lớp 10C7 trường THPT Tô Hiến Thành, thành phố Thanh Hóa, tôi nhận thấy học sinh có sự thay đổi sâu sắc trong nhận thức và hành động nhất là với các kỹ năng xác định giá trị, kiểm soát cảm xúc và cảm thông. Hơn nữa, các kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sáng tạo và kỹ năng phê phán cũng dần hình thành và phát triển hơn. 2.4.2. Hiệu quả với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Với việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua bộ môn Ngữ văn lớp 10 mà tôi đã thực hiện trong việc giảng dạy trong năm học vừa qua, tôi nhận thấy: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí thông tin và kỹ năng tư duy sáng tạo, … đã dần được hình thành và phát triển một cách rõ rệt ở học sinh. Kinh nghiệm này giúp cho bản thân và đồng nghiệp có thể tạo thêm hứng thú cho học sinh khi học môn ngữ văn. Ở đầu năm học, còn nhiều học sinh không thích học bộ môn Ngữ văn nhưng đến học kỳ II thì số học sinh có hứng thú học đã tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, khi áp dụng kinh nghiệm này có thể góp thêm vào giải pháp giải quyết vấn đề giáo dục toàn diện cho học sinh mà nhà trường và ngành đang dề ra. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Khi tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong tiết học văn, học sinh hứng thu hơn trong tiếp thu bài, đồng thời giúp học sinh rèn luyện thêm những kỹ năng, học hỏi thêm những kinh nghiệm thực tiễn, chuẩn bị tốt những hành trang khi bước vào đời. Điều quan trọng là học sinh nhận thức được học văn để làm gì, áp dụng vào thực tiễn ra sao - điều mà nhiều học sinh khi nghe giảng bài không xác định được. Với kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua bộ môn Ngữ văn 10, sau khi vận dụng kỹ năng sống vào thực tế giảng dạy, tôi thấy khả năng áp dụng đạt hiệu quả cao, đặc biệt là học sinh đã biết vận dụng các kỹ năng một cách hợp lý trong sinh hoạt và học tập hàng ngày. Trên đây là một vài suy nghĩ nhỏ của tôi về việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua bộ môn ngữ văn 10. Với khả năng còn hạn chế và chắc chắn rằng đó vẫn chưa phải là khuôn mẫu hoàn chỉnh, vì vậy kính mong quý đồng nghiệp đóng góp ý kiến để cùng nhau tìm ra một phương pháp tối ưu hơn nữa để việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống trong trường học nói chung và trong môn học Ngữ văn nói riêng mang lại nhiều ý nghĩa và hiệu quả thiết thực. Tôi xin chân thành cảm ơn. 15 3.2. Kiến nghị Để sáng kiến kinh nghiệm thực sự có hiệu quả trong khi áp dụng tôi mong muốn: - Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa có nhiều hơn nữa những đợt tập huấn về việc đưa kỹ năng sống vào giảng dạy môn Ngữ Văn THPT để giáo viên vừa trang bị thêm kiến thức vừa có cơ hội trao đổi, học hỏi đồng nghiệp ở các trường về vấn đề này. - Nhà trường, tổ chuyên môn và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường nên tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động bổ trợ học tập, hoạt động ngoài giờ lên lớp để học sinh có cơ hội trải nghiệm, bộc lộ và điều chỉnh những kĩ năng sống của mình. - Bộ giáo dục và đào tạo nên điều chỉnh lại chương trình kết hợp giữa học tập và hoạt động thực tiễn, có giáo trình hướng dẫn cụ thể cho cả giáo viên và học sinh cũng như tổ chức tập huấn cho giáo viên trong việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống trong tất cả các môn học để học sinh được phát triển một cách toàn diện. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018 Tác giả Cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Nguyễn Duy Diện TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu tập huấn về kỹ năng sống của Unicef (2004) 16 2. Nhiều tác giả (2014), Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, Nxb Văn hóa thông tin. 3. Đỗ Quốc Anh – chủ biên, (2010), Góp phần xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực, Nxb Giáo dục. 4. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1, (2016), Nxb Giáo dục . 5. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, (2016), Nxb Giáo dục . 6. Luật giáo dục 2005 và luật bổ sung sửa đổi một số điều 2009. 7. Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cựa” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013. DANH MỤC CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC SỞ GD&ĐT THANH HÓA CÔNG NHẬN 17 TT Tên sáng kiến Xếp loại 1 Hướng dẫn học sinh phát huy tính tích cực chủ C động trong việc tiếp nhận, cảm thụ một số tác phẩm truyện ngắn của lớp 11 trường THPT Quan Sơn 2 Những kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm C tại trường THPT Quan Sơn 3 Sử dụng phương pháp so sánh loại hình và C ứng dụng khoa học liên ngành vào văn học dân gian lớp 10 ở trường THPT Quan Sơn 2 4 Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống C cho học sinh thông qua công tác đoàn tại trường THPT Quan Sơn 2 5 Vận dụng quan điểm giao tiếp giảng dạy bài : C Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân tại lớp 11A2 trường THPT Quan Sơn 2 Năm học 2007 - 2008 2009 - 2010 2010 - 2011 2011 - 2012 2013 - 2014 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan