Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính...

Tài liệu Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay

.PDF
127
210
94

Mô tả:

LUẬN VĂN: Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người, quyền công dân là những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người (nhân quyền) đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; nhưng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và được thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con người là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vươn tới những lý tưởng, giải phóng hoàn toàn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ, nhân đạo. Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi nhân quyền như một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để tập hợp lực lượng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã được giai cấp tư sản đề cập đến như Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập tan năm 1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Nhân quyền đã trở thành vấn đề quan trọng, thường xuyên được đề cập đến trong quan hệ quốc tế. Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 thì vấn đề nhân quyền đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế. Đến nay quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. ở Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 của nước ta khẳng định: "ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và bảo đảm thực hiện". Gần đây nhất, vấn đề nhân quyền đã được tiếp tục khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia" [35, tr. 134]. Vấn đề nhân quyền có vai trò quan trọng như vậy, nên nhiều nước trên thế giới coi trọng việc giáo dục nhân quyền nhằm làm cho mỗi con người ý thức biết tôn trọng quyền của người khác và tự mình biết bảo vệ quyền của mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục nhân quyền tại Viên (Thủ đô nước áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng: "Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng phải biết tôn trọng những quyền của người khác", và đến 23/12/1994, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã chính thức tuyên bố: "Thập kỷ giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến 1/1/2004". Nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục nhân quyền lại càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu. Thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã hưởng ứng, tham gia có hiệu quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ưu điểm đã đạt được và làm rõ những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục nhân quyền; đồng thời xác định phương hướng, nội dung, phương pháp tiếp tục thực hiện giáo dục nhân quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu - Vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân đã được Liên Hợp Quốc, các nhà khoa học pháp lý nước ta và thế giới quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể xuất phát từ quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật đã bao hàm cả giáo dục quyền con người, quyền công dân nên các nhà luật học nước ta mới chỉ tập trung nghiên cứu về giáo dục pháp luật mà chưa quan tâm nghiên cứu vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân như là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập, riêng biệt. Vì thế thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật như: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc Đường; "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới" của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số 07-17 do Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; "Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người" đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta", luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam", luận án Phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai; "Giáo dục pháp luật cho dân tộc Khơme - Nam Bộ (qua thực tiễn tỉnh An Giang)", luận án Thạc sĩ của Lê Văn Bền; "Bàn về giáo dục pháp luật" sách của Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" sách của Đào Trí úc chủ biên; "Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay" của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp; "Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Khoa Nhà nước - Pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; "Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng... Trong khi đó vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân mới chỉ được nghiên cứu ở mức độ rất hạn chế. Đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống, đầy đủ; nên số lượng các công trình nghiên cứu chưa nhiều và cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ các bài viết, như: "Giáo dục nhân quyền hướng tới thế kỷ XXI" của Tường Duy Kiên (Tạp chí Thông tin Khoa học thanh niên, số 4, 1997). Vì vậy, có thể nói, luận văn này là công trình đầu tiên trình bày tương đối có hệ thống về vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục quyền con người, quyền công dân. - Đánh giá thực trạng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay. - Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục quyền con người, quyền công dân trong điều kiện xây Việt Nam. 4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn dựng Nhà nước pháp quyền ở Luận văn tập trung vào vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay, qua khảo sát thực tiễn vấn đề này ở nước ta thời gian qua. 5. Cái mới của luận văn - Là công trình chuyên khảo nghiên cứu tương đối có hệ thống về giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay. - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tính đặc thù của giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. - Đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân, làm hạn chế hiệu quả giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta trong thời gian qua; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt vấn đề giáo dục quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. 6. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền với quyền con người, quyền công dân, về giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta. Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu nhà nước pháp quyền với việc giáo dục quyền con người - quyền công dân; sử dụng phương pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để đánh giá thực trạng giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay nhằm phân tích, luận chứng một cách khoa học khi đề ra sự cấp thiết, phương hướng, giải pháp tăng cường giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận về giáo dục quyền con người, quyền công dân 1.1. Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân 1.1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân Quyền con người - Nhân quyền, quyền công dân là một phạm trù lịch sử. Từ thời cổ đại những tư tưởng và yêu sách về các quyền, mà trước hết yêu sách về các quyền con người đã được phát sinh ở vùng Địa Trung Hải là nơi có nền văn minh, kinh tế phát triển rực rỡ nhất lúc bấy giờ. Sau khi các quyền con người được triển khai ở các quốc gia trong vùng và khu vực xung quanh rồi mới xâm nhập vào xã hội châu Âu cổ đại và châu Âu mới. Năm 1776, hầu hết các nước thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh. Trong một văn bản có tên là "Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ", đã khẳng định: "... tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng... tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [93, tr. 15]. Như vậy, trong lịch sử phát triển của quyền con người, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể được coi là sự xác nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nước về quyền con người. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho rằng: Nước Mỹ - đó là nơi "lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về một nước cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã được công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng châu Âu thế kỷ XVIII" [57, tr. 65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản Hiến pháp của Mỹ năm 1787. Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, ngày 24-10-1945 tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản "Hiến chương Liên Hợp Quốc" với mục đích chính là vì vấn đề quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Tiếp đến, tháng 12- 1948 Liên Hợp Quốc đã công bố bản "Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền". Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện quốc tế về nhân quyền được tuyên bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về quyền con người. ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì Việt Nam đã có một lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua suốt quá trình dựng nước và giữ nước về sự hình thành và đảm bảo quyền con người. Tuy nhiên, phải đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mới thực sự mở ra một kỷ nguyên mới về quyền con người , thời kỳ mà quyền con người được đề cao, được chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Mặc dù vấn đề quyền con người, quyền công dân đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. ở Việt Nam cũng vậy, nhưng do nó được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau (triết học, chính trị học, kinh tế học, luật học...), xuất phát từ những mục đích, màu sắc tư tưởng, lãnh địa chính trị của các quốc gia khác nhau; nên mặc dầu đã có nhiều hội thảo quốc tế, nhiều công trình nghiên cứu, nhưng khái niệm quyền con người, quyền công dân vẫn tồn tại một cách trừu tượng, chung chung và ngày càng trở nên mơ hồ, rắc rối hơn. Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khái niệm quyền con người, quyền công dân và nội dung của nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng phương hướng, nội dung, phương pháp, điều kiện cho việc thực hiện giáo dục quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay. 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người (Nhân quyền) "Nhân quyền" là một từ Hán Việt, theo "Đại Từ điển Tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học thì "Nhân quyền" là "quyền con người" [104, tr. 1239]. Từ điển này mới chỉ giải trình đơn thuần nghĩa Hán - Việt của từ Nhân quyền, mà chưa đề cập đến khái niệm của vấn đề này theo nghĩa được khái quát hóa từ những đặc điểm, nội dung, tính chất đặc thù của nó. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, mỗi định nghĩa là một sự biểu hiện khác nhau về góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, tổng hợp lại các quan niệm đó được phân chia thành ba quan niệm chủ yếu, khác nhau về quyền con người như sau : - Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, nên quyền con người phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là quyền con người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người, không thể tách rời. Quan điểm này được các đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản ở thế kỷ XVII, XVIII như Crotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. - Về quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này lại chỉ đặt con người và quyền con người trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con người chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà nước, pháp luật điều chỉnh bảo vệ. Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con người là một khái niệm có tính lịch sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con người là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con người cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con người ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định. - Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề quyền con người. Quan niệm này đã khắc phục được tính phiến diện, phản khoa học về con người, quyền con người ở các quan niệm trên. Xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, con người mặc dù vẫn là một thực thể tự nhiên như các loài động vật khác, nhưng lại khác với loài động vật khác ở chỗ con người chỉ thực sự tồn tại với tư cách là một con người khi nó được tồn tại trong cộng đồng xã hội. Hai mặt này tồn tại biện chứng trong một con người. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Mặt này trở thành tiền đề cho mặt kia trong mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời. Xuất phát từ quan niệm này về quyền con người nên chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [65, tr. 12]. Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã hội" [63, tr. 855] có khả năng "tái sinh ra con người", con người là động vật cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này, cũng như quan niệm thứ nhất, quyền con người trước hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con người không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người. Xét về mặt thứ hai của quan niệm này, con người mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự nhiên, nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về Phoiơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội" [64, tr. 21]. Như vậy, con người mặc dù vẫn là thực thể tự nhiên sinh học, là bộ phận của tự nhiên, nhưng bên cạnh đó, để được gọi là người nó còn phải tồn tại trong cộng đồng xã hội, và biến đổi cùng với cộng đồng xã hội của mình. Bằng khả năng của mình, con người tác động vào tự nhiên, xã hội làm biến đổi tự nhiên và xã hội để phục vụ nhu cầu tự tồn tại, phát triển của mình. Ngược lại, những biến đổi của tự nhiên, của xã hội do con người tạo ra cũng tác động chi phối trở lại con người, làm biến đổi con người. Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì "quyền con người, ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội" [65, tr. 13]. Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những chuyển biến có tính "bước ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con người cũng tất yếu chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội. Mặt khác, quyền con người, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính con người, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con người, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Con người càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền con người ngày càng được mở rộng, ngày càng được đảm bảo bấy nhiêu. Từ quan điểm trên cho thấy, về bản chất, quyền con người bao gồm cả quyền tự nhiên và quyền xã hội. Quyền tự nhiên phải được đặt trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối, ràng buộc của xã hội, gắn liền với quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội. Quyền con người chỉ được đặt ra khi nó tồn tại trong cộng đồng người. Khái niệm quyền con người chỉ xuất hiện khi con người bị những thực thể người khác xâm hại đến lợi ích của mình. Hoặc ngược lại, nếu con người tồn tại độc lập, không có mối liên hệ cộng đồng, không bị các thực thể khác trong cộng đồng tác động xâm hại đến lợi ích của mình thì không thể làm xuất hiện khái niệm quyền con người. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người không phải chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên, mà từ phân tích nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con người có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Nhận thức khái niệm quyền con người với đầy đủ bản chất, thuộc tính của nó cho thấy quyền con người là một phạm trù phức tạp. Vì vậy, cần thiết phải đưa ra định nghĩa về quyền con người. Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra định nghĩa quyền con người với tư cách là một phạm trù riêng biệt của chính trị học, kinh tế học, triết học, luật học sẽ là điều phiến diện, không đầy đủ, vì như thế nó mới chỉ thể hiện được quyền con người dưới góc độ khoa học, mà không thể hiện được bản chất cũng như tính đa diện của vấn đề này. Hay nói cách khác, nó mới chỉ thể hiện trạng thái tĩnh của quyền con người. Jacques Mourgon (giáo sư đại học khoa học xã hội Toulouse) đưa ra định nghĩa: "Quyền con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với chính quyền" [68, tr. 12]. Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến quyền con người ở khía cạnh tự nhiên của nó. Một học giả Việt Nam cho rằng: Quyền con người là các khả năng của con người được đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người khác trên cơ sở pháp luật [31, tr. 34]. Định nghĩa này cũng mới chỉ đề cập đến quyền con người với tư cách là phạm trù luật học. Chúng tôi nhận thức rằng, khái niệm quyền con người phải là một phạm trù tổng hợp, bao hàm cả bản chất và những thuộc tính đa diện - nhiều mặt của nó. Có một định nghĩa đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [90, tr. 10]. Chúng tôi cho rằng, khái niệm này bắt nguồn từ khái niệm của Mác về quyền con người. Theo Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người" [57, tr. 14]. Định nghĩa này cũng tương ứng với nội dung của khái niệm quyền con người do Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam phát biểu tại hội nghị quốc tế về nhân quyền ở Viên (áo) tháng 6 năm 1993: Quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triền", quyền con người "không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng. Đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội... Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển. Như vậy, định nghĩa trên về nhân quyền đã được khái quát hóa từ góc độ bản chất của vấn đề, được xem xét từ các đặc điểm của nó (so sánh giữa con người và động vật khác), và cũng được xem xét từ góc độ giới hạn, phạm vi của vấn đề. Định nghĩa này không chỉ khắc phục được tính phiến diện của các định nghĩa khác, mà nó còn xác định rõ ràng "ranh giới" của vấn đề, hạn chế của việc hiểu và vận dụng lệch lạc về quyền con người. Chúng tôi tán thành với khái niệm này. 1.1.1.2. Khái niệm quyền công dân Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong nhà nước quân chủ sang địa vị công dân trong nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch. Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền công dân: - Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: "Quyền của người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền về kinh tế - văn hóa xã hội" [104, tr. 1384] - Theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc, "quyền công dân - đó là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp luật địa vị con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nước chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước [91, tr. 75]. Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: "Quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước quy định, mà tất cả những người có chung quốc tịch của nước đó được hưởng một cách bình đẳng" [36, tr. 21]. Theo chúng tôi, các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau, nhưng về bản chất, nội dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân của C. Mác. Về vấn đề này C. Mác cho rằng: "Quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên "xã hội công dân" [57, tr. 14]. Như vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con người, nó gắn liền và được sử dụng rộng rãi trong xã hội tư sản. So với khái niệm quyền con người thì khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn. Vì thế, nội dung, số lượng, chất lượng quyền công dân của mỗi quốc gia là khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị xã hội, vào giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trước đây ở các nước xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con người ít được nói đến, nên mặc nhiên được hiểu rằng quyền con người và quyền công dân là đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý (Hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam cũng vậy, trong các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, 1980 đều chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ của công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con người. Chỉ đến Hiến pháp năm 1992, vấn đề quyền con người mới chính thức được đề cập đến (Điều 50 Hiến pháp 1992). 1.1.1.3. Quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân Khi nghiên cứu vấn đề "nhân quyền", ta phải xem xét đầy đủ cả hai khái niệm quyền con người - quyền công dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có mối quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau, nhưng cũng có sự độc lập nhất định với nhau và cần được phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này. Khái niệm quyền con người, là khái niệm rộng hơn so với khái niệm quyền công dân. Nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà còn thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân con người với cộng đồng xã hội. Do đó, trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con người bao gồm toàn bộ những quyền tự nhiên được xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại trong suốt cuộc đời của họ. Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng, quyền con người đóng vai trò "là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con người, khả năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [36, tr. 21]. Trong quan hệ với cộng đồng nhân loại, quyền con người bao gồm những nhu cầu, lợi ích của con người được ghi nhận và bảo vệ bằng cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Phạm vi tồn tại của nó không chỉ trong mối quan hệ với một nhóm, một dân tộc, một quốc gia mà còn tồn tại trong mối quan hệ với cả cộng đồng nhân loại. Nó thể hiện sự bình đẳng không chỉ những người có chung quốc tịch, mà còn biểu hiện sự bình đẳng của mọi người trong cả cộng đồng người. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nó ngày càng trở thành yếu tố quan trọng. Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm quyền con người, quyền công dân tuy có mối quan hệ gần gũi, mật thiết nhưng không đồng nhất cả về chủ thể lẫn nội dung. Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân. Trong mối quan hệ giữa hai vấn đề này thì quyền con người là khái niệm rộng hơn bao hàm cả quyền công dân, còn quyền công dân là một thành tố, một bộ phận thiết yếu cơ bản của nó. Quyền con người không thể thay thế quyền công dân, đồng thời quyền công dân không thể chứa đựng hết dung lượng của quyền con người. Về chủ thể, chủ thể quyền con người cũng rộng hơn chủ thể quyền công dân vì ngoài những cá nhân là công dân, chủ thể quyền con người còn bao gồm cả những người không phải là công dân như đã người nước ngoài, người không quốc tịch. Nhận xét về vấn đề này, C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có nội dung và ý nghĩa khác nhau, nhưng không thể tách biệt đến mức đối lập, mà về thực chất chúng thống nhất với nhau. Quyền con người phải "thu hút" được quyền công dân vào nội dung của nó, vì chúng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, phản ánh tổng thể nhu cầu của con người hiện thực trong điều kiện còn tồn tại Nhà nước [57, tr. 14]. Và "Vì vậy, Mác - Ăngghen đã sử dụng cả hai khái niệm Quyền con người và Quyền công dân" [57, tr. 14]. 1.1.2. Khái niệm giáo dục quyền con người, quyền công dân 1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người, quyền công dân Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người, quyền công dân. - Quan niệm của giai cấp tư sản: Các nước tư bản hiện đang rất quan tâm đến vấn đề giáo dục quyền con người. Vấn đề này được các nước phương Tây thực hiện thường xuyên, liên tục cho mọi đối tượng cả trong phạm vi quốc gia và cả trên phạm vi toàn cầu dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, nhằm đạt được những mục đích khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị của mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một số quan điểm về quyền con người dưới đây: Ưu tiên giáo dục các quyền tự nhiên: Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của con người, dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã hội, coi quyền con người là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc. Mục đích của việc giáo dục quan điểm này nhằm: Thứ nhất, đối với dân chúng trong nước, quan điểm này tạo ra được một hình thức xã hội dân chủ. Mọi người đều có quyền như nhau trong việc thực hiện các mục tiêu, ý tưởng sống, được quyền tự do, quyền sở hữu, quyền được an toàn và chống áp bức... Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân được đề cao tuyệt đối sẽ dẫn đến việc triệt tiêu quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và sẽ dẫn đến hệ quả mà giai cấp tư sản - giai cấp đang thống trị xã hội mong muốn là ý thức đấu tranh giai cấp trong xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh đòi quyền lợi của tập thể dân cư, sắc tộc, bộ phận xã hội bị xóa bỏ. Để hiểu rõ quan điểm này của giai cấp tư sản, chúng tôi xin nêu một số dẫn chứng cụ thể sau: + Nhà hoạt động xã hội người Mỹ Barbara B.Bird đã viết: ... chúng tôi khai quốc bằng một cuộc cách mạng chống chủ nghĩa thực dân áp bức. Những sự kiện ấy kết hợp với chủ nghĩa cá nhân thô thiển. Sự thiếu chủ nghĩa cổ điển, sự tin tưởng vào những tự do mà Hiến chương về quyền lợi (Bill of Rights) đảm bảo đã dẫn đến sự chấp nhận bạo lực khi dân chúng tôi tìm cách chiếm đoạt đất hoang, thú vật và người da đỏ vốn là thổ dân ở đây trước. Điều này khiến cho người ta đặt ưu tiên vào cá nhân hơn là gia đình hoặc cộng đồng trong khi di chuyển để cắm những địa bàn di dân, nhiều khi ở những miền hẻo lánh, chúng tôi đã đưa điều ấy tới chỗ cực đoan. Tôi lấy làm buồn vì sự tan vỡ của gia đình và cộng đồng Mỹ. Tôi kinh tởm bạo lực trong nền văn hóa của chúng tôi. ấy là tôi đặc biệt nghĩ đến một sự kiện lịch sử như sự phá hủy văn hóa và các dân tộc thổ dân Mỹ, sự bóc lột nô lệ da đen châu Phi trong khi xây dựng kinh tế quốc gia... [3, tr. 50]. + Khi phân tích về quan hệ giai cấp ở Mỹ, trong tác phẩm "Lối sống Mỹ" (đã xuất bản ở 9 nước, bằng 7 ngôn ngữ khác nhau) A.R.Lanier đã viết: ... Hoa Kỳ thường tự hào là một xã hội không giai cấp. Khách lạ dễ thấy ở Mỹ lương cao và mức sinh hoạt cao, quần áo các kiểu may sẵn hàng loạt, ăn nói bỗ bã, hay sử dụng tên cúng cơm... Thực ra thì có giai cấp, bắt đầu ngay từ khu vực ở. Có điều là ranh giới giai cấp ấy rất dễ bị hủy bỏ, chỉ cần có nghị lực và thành công. Biết bao nhiêu người giàu sang xuất thân hàn vi. Người Mỹ lại thay đổi chổ ở luôn; trong 5 gia đình, có 1 cứ ba năm lại dọn nhà một lần. Với tâm lý tự lực, không có thành kiến giai cấp như ở nước khác. Giai cấp gắn với gia đình. Từ thế chiến II, gia đình Mỹ càng lỏng lẻo; thành công cá nhân ít có ảnh hưởng đến gia đình, do đó, khái niệm giai cấp cũng có phần mờ nhạt hơn. Ngày nay, các khái niệm chủng tộc, gốc rễ dân tộc, địa phương... thường át khái niệm giai cấp. Vị trí xã hội không phải là một yếu tố ổn định, thừa hưởng của giai cấp như nhiều nơi khác" [78, tr. 152]. ở Pháp, quốc gia được coi là cái nôi của quyền tự do công dân khi từ năm 1789 đã công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng. Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp gần đây nhất tiếp tục được thể hiện trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, đã toát lên tư tưởng chủ đạo của nó là: Hoạt động tự do của con người là một quyền tự nhiên, vì vậy, không cần phải liệt kê lại những quyền gì là được phép: tất cả những gì luật pháp không nghiêm cấm đều được phép làm; ngược lại, cần phải xác định rõ những điều cần nghiêm cấm dĩ nhiên là có xét đến những quy định trong Hiến pháp [47, tr. 370]. Đặc trưng cơ bản cho các quyền tự do của con người được Hiến pháp của Pháp ghi nhận là quyền sở hữu. ở đây, quyền này được quan niệm như là quyền sở hữu, sử dụng hay phân chia từng phần tùy theo ý chí chủ nhân. Theo một số nhà nghiên cứu thì quyền này đã được phản ánh một cách nhất quán và chi tiết hóa qua các tiêu chuẩn của Bộ luật Dân luật của Napoleon năm 1804. Mà Bộ luật này theo nhận xét của Ăngghen chính là: "Là khung Bộ luật cơ bản mẫu mực của xã hội tư bản". Với tinh thần coi tài sản sở hữu là nền tảng của tự do nêu trên, Điều 554 Bộ Dân luật Pháp quy định: "Sở hữu là quyền được sử dụng và phân chia tài sản hoàn toàn tuyệt đối miễn sao việc sử dụng và phân chia tài sản không phạm vào những gì sắc luật và quy chế không cấm". Nhà làm luật không có quyền xâm phạm hoặc hạn chế quá mức việc chiếm giữ, sử dụng và phân chia tài sản, phải theo đúng nguyên tắc: "Cho phép làm tất cả những gì không gây phương hại đến những người khác, hay làm hại đến lợi ích xã hội" [47, tr. 372], hoặc theo ý kiến của Giscard d'Estaing thì nhà làm luật: Chỉ có được quyền can thiệp vào các quan hệ kinh tế tự do dựa trên cơ sở cạnh tranh và thị trường trong những trường hợp bất đắc dĩ hoặc trong những trường hợp phải kìm lại sự tiến triển buộc cá nhân phải mất qua nhiều công sức vất vả không đáng có, hoặc nhằm mục đích thay đổi quá trình chuyên môn hóa nền kinh tế đang khiến nó phụ thuộc quá vào người cấp vốn và thị trường quốc tế [47, tr 372]. Theo quy định của Hiến pháp Pháp, một cơ sở quan trọng để bảo đảm các quyền tự do là nguyên tắc tính phù hợp, dung hòa giữa các quyền tự do, tính chất cùng tồn tại trong quan hệ thống nhất giữa các quyền tự do công cộng, địa phương và cá nhân. Trong đó, các quyền tự do công cộng (mục 2 Điều 34 Hiến pháp Pháp), các quyền tự do của các tập thể địa phương và vùng lãnh thổ (mục 4 Điều 34, mục 2 Điều 72 Hiến pháp Pháp) đều được coi là "nền tảng để tôn cao quyền tự do của cá nhân, của công dân cũng như quyền chiếm giữ và phân chia tài sản riêng" [47, tr. 373]. Như vậy, nghĩa vụ của bộ máy nhà nước là phải đảm bảo thực hiện đúng pháp luật và trách nhiệm của mình để bảo đảm tôn trọng và thực hiện ở mức độ cao nhất các quyền, tự do của công dân. ở Đức, quyền công dân bắt đầu được ghi nhận trong Hiến pháp từ năm 1818 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg năm 1819), khi đó, nước Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là thời kỳ chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa nên thời kỳ này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt đối với những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản mà trong đó, cái ảnh hưởng to lớn là những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. Tư tưởng này đã trở thành căn cứ nền tảng cho việc hình thành nên những quyền và tự do công dân có tính kinh điển đang dần được xác nhận trong pháp luật thực định và tồn tại trong các Hiến pháp, văn bản pháp luật của nước Đức sau này. Điều 1 Luật cơ bản của Đức quy định: "Việc tôn trọng và bảo vệ các quyền của con người được tuyên bố là nguyên tắc cơ bản của toàn bộ quyền lực nhà nước" [47, tr. 410]. Nguyên tắc quyền tự chủ của nhân dân và học thuyết quyền tự nhiên được tiếp tục thể hiện ở Điều 4 Luật cơ bản khi nội dung của điều luật này tuyên bố cấm vi phạm và xuyên tạc các quyền của con người. Chỉ tập trung giáo dục các quyền dân sự và chính trị: Quyền chính trị, dân sự vừa là mục đích, vừa là động lực của cách mạng tư sản. Vấn đề này tiếp tục được đề cao trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản vì những lý do chính trị của giai cấp tư sản. Hiện nay, một số nhà khoa học, nhà chính trị tư sản vẫn tiếp tục phủ nhận ý nghĩa của các quyền về kinh tế - xã hội đối với toàn bộ các quyền về chính trị, dân sự và các quyền, tự do khác của con người. Họ cho rằng các quyền dân sự, chính trị có tầm quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo thực hiện các quyền con người. Thậm chí, họ còn phủ nhận cả trách nhiệm pháp lý của các quốc gia trong việc bảo đảm thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù các quyền đó đã được ghi rõ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế khác về quyền con người. Một minh chứng rất điển hình cho luận điểm này của giai cấp tư sản là việc Liên Hợp Quốc cùng lúc thông qua hai "Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị" và "Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa". Giải thích về vấn đề này, La-lê-ri Sa-lit-de cho rằng: Khi Liên Hợp Quốc quyết định thảo ra một hiệp ước về quyền con người, Liên Xô tham gia hoàn chỉnh hiệp ước này. Lập trường của Liên Xô về những quyền xã hội - kinh tế rất cứng rắn, khó mà các nước tư bản thỏa hiệp được với Liên Xô trên lĩnh vực này. Tuy thế, người ta vẫn tìm ra được cách nhân nhượng nhau, đáng lẽ thảo chỉ một hiệp ước về quyền con người, người ta đã thảo ra hai bản. Hiệp ước quốc tế về các quyền xã hội, kinh tế và văn hóa, chủ yếu phản ánh quan điểm của Liên Xô và hiệp ước quốc tế về các quyền công dân và quyền chính trị của con người phản ánh chủ yếu quan điểm phương Tây [107, tr. 3]. Ông cũng cho rằng, hiện có nhiều người nghi ngờ thuật ngữ "các quyền xã hội kinh tế", họ thậm chí còn không cả thừa nhận các quyền này như là một bộ phận trong toàn bộ các quyền cơ bản của con người và không chịu coi đó là những quyền phải được nhà nước bảo đảm. Cơ sở của quan điểm này là việc trong các xã hội kinh doanh tư nhân (chủ yếu là Tây Âu và Bắc Mỹ), con người phải tự lo liệu lấy cho mình và "trong những điều kiện ấy, nói đến bảo đảm những quyền xã hội - kinh tế sẽ là vô nghĩa và mâu thuẫn với mâu thuẫn xã hội. Trong lòng xã hội tự do kinh doanh, Nhà nước không sản xuất hàng hóa và dịch vụ, nó cũng không sở hữu nhà ở và bất động sản, do đó, nó không thể bảo đảm cho con người những của cải loại ấy" [107, tr. 5]. Khi Nhà nước cần đảm bảo mức sống cho một bộ phận nhân dân nghèo khổ nhất trong xã hội thì Nhà nước phải bắt những người có thu nhập cao phải tự hạn chế mình để nuôi sống bộ phận nghèo khổ trong xã hội. Điều này tuy đang được khuyến khích ở các nước tư bản nhưng nó lại được coi là hoạt động từ thiện chứ không phải là sự tôn trọng và bảo vệ các quyền xã hội và kinh tế của công dân. Hay nói rõ hơn, nó không phải là một quyền của công dân. Về vấn đề này, chúng ta cũng có thể thấy được rất rõ trong hệ thống pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức. Hiến pháp năm 1848 của Đức lần đầu tiên ghi nhận một số quyền xã hội, phản ánh ảnh hưởng của tư tưởng xã hội - dân chủ, thể hiện sự quan tâm đến quyền lợi của giai cấp khác ngoài giai cấp tư sản, thể hiện quan niệm mới về quyền con người không chỉ là các quyền chính trị và dân sự. Tuy nhiên, trong thực tế, các quyền này được phân biệt rất rõ ràng:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất