Ở Việt Nam trong những năm gầnđây, dân số đã có những biến động mạnh mẽ cảvề quy mô và cơ cấu tuổi. Tỷ lệ người cao tuổi (NCT) ở Việt Nam đãtăng lên nhanh chóng do ba yếu tố quan trọng: tỷ suất sinh giảm, tỷ suất tử vong giảm và tuổi thọ trung bìnhtăng. Năm 2009, tuổi thọ trung bình của Việt Nam là 72,8 tuổi, tăng 4,6 tuổi so với năm 1999. Cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến động mạnh theo hướng: tỷ lệ trẻ em (0-14 tuổi) ngày càng giảm; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-59) tăng lên; và tỷ lệ NCT (từ 60 trở lên) cũng tăng nhanh [1].
Mô hình và nguyên nhân bệnh tật của người Việt Nam nóichung vàNCT nói riêng cũng đangthay đổi theo “mô hình kép”, từ bệnh truyền nhiễm sang những bệnh không truyền nhiễm, nghĩa là theo mô hình bệnh tật của một xã hội hiện đại.
Chi phí trung bình cho việc khám chữa bệnh của NCT gấp 7-8 lần chi phí tương ứng của một trẻ em. Mức độ tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế giữa các nhóm dân số cao tuổi rất khác nhau, trong đó dân số cao tuổi ở nông thôn, miền núi hoặc dân tộc thiểu số có mức độ tiếp cận với các dịch vụ y tế có chất lượng còn thấp. Số lượng NCT ngày càng lớn nhưng hệ thống chăm sóc sức khỏe cho NCT chưa thực sự được coi trọng và đầu tư phát triển tương xứng.Bản thân NCT cũng chưa ý thức được những nguy cơ bệnh tật. Tuổi thọ của NCT tăng, nhưng tuổi thọ khỏe mạnh lại cải thiện chậm [1],[2].
Chăm sóc sức khỏe răng miệng ở NCT là một trong các vấn đề được ưu tiêu trong các bệnh không lây nhiễm. Nghiên cứu về sức khỏe răng miệng của NCT đã được tiến hành ở nhiều quốc gia, châu lục, giúp nhân viên y tế và nhà hoạch định chính sách y tế có cái nhìn toàn cảnh về thực trạng, nhu cầu chăm sóc, nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe răng miệng ở NCT.
Ở Việt Nam, điều tra năm 1989-1990 và năm 2000 trên toàn quốc đã đánh giá tình trạng sức khỏe và nhu cầu chăm sóc răng miệng nói chung nhưng chưa cónhiềunghiên cứu toàn diện vàcụ thể về chăm sóc răng miệng cho NCT. Các nghiên cứu về bệnh lý răng miệng ở NCT còn ít, chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng ban đầu chưa tiếp cận được nhiềuđến đối tượng NCT [2],[4].
Để góp phầnđánh giá thực trạng và các yếu tố liên quan, đưa ra những đề xuất thích hợp, thúc đẩy việc chăm sóc sức khỏe răng miệng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho dân số già trong cộng đồng, trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt thuộc trường Đại học Y Hà Nội chủ trì, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng bệnh răng miệng và một sốyếu tố liên quan ở người cao tuổitỉnh Bình Dương năm 2015-2016”nhằmcácmục tiêu sau:
1- Mô tả thực trạng bệnh răng miệng (cơ cấu, tỷ lệ mắc, ảnh hưởng của bệnh đến chất lượng cuộc sống…) ở người cao tuổi tỉnh Bình Dương năm 2015.
2- Phân tích một số yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng và đề xuất biện pháp chăm sóc răng miệng cho người cao tuổi tại tỉnh Bình Dương
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam trong những năm gầnđây, dân số đã có những biến động
mạnh mẽ cảvề quy mô và cơ cấu tuổi. Tỷ lệ người cao tuổi (NCT) ở Việt
Nam đãtăng lên nhanh chóng do ba yếu tố quan trọng: tỷ suất sinh giảm, tỷ
suất tử vong giảm và tuổi thọ trung bìnhtăng. Năm 2009, tuổi thọ trung bình
của Việt Nam là 72,8 tuổi, tăng 4,6 tuổi so với năm 1999. Cơ cấu tuổi dân số
Việt Nam biến động mạnh theo hướng: tỷ lệ trẻ em (0-14 tuổi) ngày càng
giảm; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-59) tăng lên; và tỷ lệ NCT (từ 60
trở lên) cũng tăng nhanh [1].
Mô hình và nguyên nhân bệnh tật của người Việt Nam nóichung vàNCT
nói riêng cũng đangthay đổi theo “mô hình kép”, từ bệnh truyền nhiễm sang
những bệnh không truyền nhiễm, nghĩa là theo mô hình bệnh tật của một xã
hội hiện đại.
Chi phí trung bình cho việc khám chữa bệnh của NCT gấp 7-8 lần chi
phí tương ứng của một trẻ em. Mức độ tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế giữa
các nhóm dân số cao tuổi rất khác nhau, trong đó dân số cao tuổi ở nông thôn,
miền núi hoặc dân tộc thiểu số có mức độ tiếp cận với các dịch vụ y tế có chất
lượng còn thấp. Số lượng NCT ngày càng lớn nhưng hệ thống chăm sóc sức
khỏe cho NCT chưa thực sự được coi trọng và đầu tư phát triển tương
xứng.Bản thân NCT cũng chưa ý thức được những nguy cơ bệnh tật. Tuổi thọ
của NCT tăng, nhưng tuổi thọ khỏe mạnh lại cải thiện chậm [1],[2].
Chăm sóc sức khỏe răng miệng ở NCT là một trong các vấn đề được ưu
tiêu trong các bệnh không lây nhiễm. Nghiên cứu về sức khỏe răng miệng của
NCT đã được tiến hành ở nhiều quốc gia, châu lục, giúp nhân viên y tế và nhà
hoạch định chính sách y tế có cái nhìn toàn cảnh về thực trạng, nhu cầu chăm
sóc, nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe răng miệng ở NCT.
2
Ở Việt Nam, điều tra năm 1989-1990 và năm 2000 trên toàn quốc đã
đánh giá tình trạng sức khỏe và nhu cầu chăm sóc răng miệng nói chung
nhưng chưa cónhiềunghiên cứu toàn diện vàcụ thể về chăm sóc răng miệng
cho NCT. Các nghiên cứu về bệnh lý răng miệng ở NCT còn ít, chương trình
chăm sóc sức khỏe răng miệng ban đầu chưa tiếp cận được nhiềuđến đối
tượng NCT [2],[4].
Để góp phầnđánh giá thực trạng và các yếu tố liên quan, đưa ra những đề
xuất thích hợp, thúc đẩy việc chăm sóc sức khỏe răng miệng và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho dân số già trong cộng đồng, trong khuôn khổ đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt thuộc trường
Đại học Y Hà Nội chủ trì, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng bệnh răng miệng và một sốyếu tố liên quan ở người cao
tuổitỉnh Bình Dương năm 2015-2016”nhằmcácmục tiêu sau:
1- Mô tả thực trạng bệnh răng miệng (cơ cấu, tỷ lệ mắc, ảnh hưởng của
bệnh đến chất lượng cuộc sống…) ở người cao tuổi tỉnh Bình Dương
năm 2015.
2- Phân tích một số yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng và đề xuất biện
pháp chăm sóc răng miệng cho người cao tuổi tại tỉnh Bình Dương.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.
NGƯỜI CAO TUỔI VÀ BỆNH LÝ RĂNG MIỆNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
1.1.1. Người cao tuổi
1.1.1.1. Khái niệm về người cao tuổi
Trên cơ sở nghiên cứu y sinh học và xã hội học, Hội nghị quốc tế về
NCT tại Viên (Áo)năm 1982 đã qui định NCT là những người từ 60 tuổi trở
lên (60 tuổi) không phân biệt giới tính.Ở Việt Nam, pháp lệnh NCT được
ban hành từ năm 2000, theo đó quy định NCT là những người từ 60 tuổi trở
lên. Khái niệm NCT ở nước ta được sử dụng phổ biến, mang nhiều ý nghĩa
tích cực và ít sử dụng khái niệm người già, mặc dù về khoa học người cao
tuổi và người giàlà như nhau[5].
Sự tăng dần tỷ lệ NCT trên tổng số dân đã diễn ra trên thế giới trong
nhiều năm qua. Những tiến bộ về chăm sóc y tế và dinh dưỡng khởi đầu từ
thế kỷ trước dẫn đến sự nâng cao tuổi thọ là một thành tựu lớn nhất của xã hội
loài người. Tỷ lệ NCT tăng lên là do chất lượng cuộc sống đã không ngừng
được cải thiện do nhiều yếu tố, trong đó có vai trò củay học, điều này đã làm
thay đổi đáng kể sự phân bố dân cư ở hầu hết các quốc gia trên toànthế giới.
1.1.1.2. Vấn đề già hóa dân số
Một trong những xu hướng biến đổi mạnh mẽ gần đây là xu hướng già
hóa dân số, trong đó NCT tăng cả về số lượng và tỷ lệ so với tổng dân số. Già
hóa dân số là hệ quả của ba xu hướng vềnhân khẩu học, đó là tỷ suất sinh
giảm, tỷ suất chết giảm và tuổi thọ trung bình tăng. Dự báo dân số của Liên
hợp quốc (2008) cho thấy, dân số cao tuổi sẽ tăng từ 697 triệu người (10%
tổng dân số thế giới) vào năm 2010 lên gần 2 tỷ người (23% tổng dân số thế
giới) vào năm 2050. Dự báo cũng cho thấy già hóa dân số là một kịch bản sẽ
4
xảy ra ở hầu hết các nước đang phát triển, thậm chí tốc độ già hóa của các
nước này còn cao hơn các nước phát triển. Già hóa dân số trong bối cảnh
trình độ phát triển kinh tế và xã hội còn thấp là một thách thức vô cùng to
lớn vì dân số già đòi hỏi chi tiêu nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe. Nói cách
khác, nếu không chuẩn bị một cách kỹ lưỡng ngay từ bây giờ thì dân số già
không khỏe mạnh và không có thu nhập đảm bảo cuộc sống sẽ buộc chính
phủ phải có những khoản chi tiêu lớn và những khoản chi tiêu này sẽ tác
động tiêu cực đến ngân sách nhà nước cũng như sự bền vững tài chính của
toàn bộ nền kinh tế.
Các nước phát triển
Các nước đang phát triển
(Nguồn: Ủy ban Kinh tế-Xã hội châu Á-Thái Bình Dương-ESCAP)[28].
Biểu đồ 1.1.Số người từ 60 tuổi trở lênở các nước phát triển và các nước
đang phát triển, giai đoạn1950-2050
1.1.1.3. Tình hình già hóa dân số tại Việt Nam
Cùng với những biến động lịch sử, dân số Việt Nam đã trải qua nhiều
thời kỳ phát triển khác nhau với những biến động lớn về tỷ suất sinh và tỷ
suất chết. Việc thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình những năm 1960
5
đến nay đã làm tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ mức 4,81 năm 1979 xuống
mức 2,33 năm 1999 và 2,03 năm 2009. Đồng thời, với những tiến bộ nhất
định trong hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân, tỷ suất chết ngày càng
giảm và tuổi thọ của dân số ngày càng tăng. Kết quả là dân số NCT ở Việt
Nam ngày càng tăng cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng dân số. Tuổi thọ
trung bình của dân số là 72,8 tuổi năm 2009, tăng 4,6 tuổi so với năm 1999.
Cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến động mạnh theo hướng: tỷ lệ trẻ em (0-14
tuổi) ngày càng giảm; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-59) tăng lên;
và tỷ lệ NCT (từ 60 trở lên) cũng tăng nhanh. Việt Nam sẽ đối mặt với nguy
cơ “già trước khi giàu” khi tốc độ già hóa dân số tăng cao nhưng thu nhập
bình quân đầu người ở Việt Nam mới chỉ đạt ở mức trung bình thấp (khoảng
1.170 USD/người vào năm 2010). Đây thực sự là một thách thức lớn đòi hỏi
Việt Nam cần phải chuẩn bị chính sách, chiến lược để đáp ứng phù hợp với
vấn đề dân số già hóa diễn ra trong những thập kỷ tới.
Bảng 1.1. Cơ cấu tuổi dân số Việt Nam, từ năm 1979-2009
Năm
Tổng
1979
Số người
Tỷ lệ (%) trên tổng dân số
0-14
15-59
≥ 60
0-14
15-59
≥ 60
53,74
23,40
26,63
3,71
41,8
51,3
6,9
1989
64,38
24,98
34,76
4,64
39,2
53,6
7,2
1999
76,33
25,56
44,58
6,19
33,0
58,9
8,1
2009
85,79
21,45
56,62
7,72
25,0
66,0
9,0
Nguồn: Tổng Điều tra dân số các năm: 1979, 1989, 1999 và 2009
Tại Việt Nam, theo Luật người cao tuổi số 39/2009/QH12 được Quốc
hội ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2009, những người Việt Nam từ 60 tuổi
trở lên được gọi là người cao tuổi. Tính tới cuối năm 2010, Việt Nam đã có
hơn 8 triệu người cao tuổi (chiếm 9,4% dân số). Số lượng người cao tuổi đã
tăng lên nhanh chóng, trong khi tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng, tỷ lệ giữa dân số độ
6
tuổi lao động và những người cao tuổi đang giảm đáng kể[6]. Thời gian để
Việt Nam chuyển từ giai đoạn "lão hóa" sang một cơ cấu dân số "già" sẽ
ngắn hơn và nhanh hơn nhiều so với nhiều nước phát triển(giai đoạn này
khoảng 85 năm ở Thụy Điển, 26 năm ở Nhật Bản, 22 năm ở Thái Lan), trong
khi dự kiến có chỉ là 20 năm với Việt Nam, từ năm 2011 Việt Nam đã chính
thức bước vào giai đoạn già hóa dân số[3].
Bảng 1.2. Tỷ lệ người cao tuổi tại Việt Nam
Năm
1979
1989
1999
2002
2004
2006
2010
Tổng dân số
Người cao tuổi
(Triệu người)
53,74
64,41
76,32
79,73
82,03
84,15
86,92
(Triệu người (tỷ lệ%))
3,71 (6,9)
4,64 (7,2)
6,19 (8,1
6,47 (8,6)
7,34 (9,0)
7,74 (9,2)
8,171 (9,4)
(Nguồn: Giang Thanh Long, Hội nghị quốc tế về người cao tuổi dân số
tổ chức tại đại học Malaysia tháng 7 năm 2012)[3].
1.1.1.4. Vấn đề sứa khỏe răng miệng của người cao tuổi tại Việt Nam
Tỷ lệ người cao tuổi tăng đặt ra vấnđề lớn trong việc chăm sóc sức
khỏe nóichung và sức khỏe răng miệng nói riêng cho người cao tuổi. Theo
những nghiên cứu gầnđây, tỷ lệ mắc các bệnh răng miệngở nước ta cón cao
do ý thức vệ sinh răng miệng thấp, nhân lực, phương tiệnvà kinh phí dành cho
chăm sóc sức khỏe răng miệng còn hạn chế.
Chăm sóc sức khỏe nói chung cũng như sức khỏe răng miệng cho
người cao tuổi là một trong những chính sách quan trọng của Chính phủ. Kể
từ khi Hiến pháp đầu tiên năm 1946, người cao tuổi đã là một phần quan
trọng của các chính sách và các chương trình kinh tế xã hội, các chương trình,
chính sách này nhằm bảo vệ người cao tuổi trước các rủi ro khác nhau và cải
7
thiện khả năng tiếp cận với các dịch vụ kinh tế xã hội. Tuy nhiên, với sự già
hóa dân số dự kiến các chính sách và chương trình đã bị điều chỉnh và điều
này có thể tạo ra một số thách thức. Điều này bao gồm các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe lão khoa kém phát triển, chất lượng chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi thấp có thể kém hơn, tình trạng này có thể tạo ra sự bất bình đẳng giữa
các thế hệ khi chúng ta vẫn còn chính sách tự phải trả tiền viện phí, trong khi
người cao tuổi không còn sức lao động như người trẻ và thu nhập thấp hơn.
Việt Nam là một trong những quốc gia có thu nhập thấp với 72% dân số
sống ở nông thôn [7]. Ngoài ra, còn thiếu nguồn lực nha khoa tại Việt Nam.
Hầu hết các Cơ sở nha khoa được đặt tại khu vực đô thị và chỉ có số ít người
dân nông thôn được tiếp cận với các dịch vụ sức khỏe răng miệng. Trong năm
2008, dân số ở miền Nam Việt Nam là khoảng 45 triệu trong khi có khoảng
850 bác sĩ răng hàm mặt hoạt động, 400 bác sĩ, và 800 y tá nha khoa trong hệ
thống chăm sóc răng miệng của chính phủ. Trên trung bình tỷ lệ của các bác sĩ
răng hàm mặt so với dân số nói chung trong khu vực này là 1/43,000, dao động
từ 1/178,500 ở khu vực nông thôn đến 1/13,400 trong khu vực đô thị. Đáng chú
ý, trong 156 huyện (trong tổng số 363 huyện) không có bác sĩ răng hàm mặt.
Tổ chức Y tế Thế giới năm 1997 đã đặt mục tiêu toàn cầu về sức khỏe
răng miệng đến năm 2020. Một trong những mục tiêu này là vấn đề liên quan
đến mất răng với mục đích can thiệp tăng số lượng các răng còn chức năng ăn
nhai tối thiểu là 21 răng. Theo số liệu điều tra sức khỏe răng miệng quốc gia
Việt Nam năm 2001 có kết quả cho thấy tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn có chiều
hướng tăng theo tuổi, tỷ lệ sâu răng của đối tượng từ 45 tuổi trở lên trong toàn
quốc là 78%, chỉ số DMFT dao động từ khoảng 6,09-11,66, số trung bình
răng mất là 4,45-8,95, số trung bình răng được hàn là 0,02-0,36. Phạm Văn
Việt và cộng sự nghiên cứu năm 2004 cho biết tỷ lệ sâu răng của người cao
tuổi tại Hà Nội là 55,1%, DMFT là 12,6, tỷ lệ mắc bệnh quanh răng là 96,1%
8
trong đó đáng chú ý CPI3 chiếm tới 53,2%. Nguyễn Châu Thoa và cộng sự,
năm 2010 nghiên cứu về tình trạng sức khỏe răng miệng ở người cao tuổi ở
miền Nam Việt Nam cho thấy người cao tuổi có trung bình mất răng khoảng 8
chiếc/người. Các kết quả nghiên cứu đơn lẻ khác tại Việt Nam cũng đều cho
thấy thực trạng mắc bệnh răng miệng của người cao tuổi tại các vùng miền
của Việt Nam đang ở mức cao, nhu cầu điều trị theo thực trạng bệnh là rất
lớn, thực trạng bệnh răng miệng được điều trị là rất thấp. Tỷ lệ người cao tuổi
mắc bệnh răng miệng và nhu cầu điều trị là rất khác nhau cho các nhóm người
cao tuổi. Một số các yếu tố ảnh hưởng bao gồm: Dân tộc, độ tuổi, giới tính,
vùng miền, tình trạng kinh tế hộ gia đình, trình độ học vấn v.v..
1.1.2. Đặcđiểmbệnh lý răng miệng ở người cao tuổi
1.1.2.1.Khái quát về cấu tạo tổ chức học của răng
Cấu tạo của răng gồm: men răng, ngà răng, cement và tủy răng.
Hình1.1. Giải phẫu răng [33]
+ Men răng: Men răng phủ mặt ngoài ngà thân răng, có nguồn gốc từ
ngoại bì, là mô cứng nhất trong cơ thể, có tỷ lệ chất vô cơ cao nhất (khoảng
96%) nhiều hơn so với ngà răng và xương răng, chất hữu cơ chiếm 1,7%,
9
nước chiếm 2,3%.Men răng dày mỏng tùy vị trí khác nhau, dày nhất ở núm
răng là 1,5mm và mỏng nhất ở vùng cổ răng[8]. Ở trạng thái bình thường
men răng trong suốt, song men có thể thay đổi màu sắc do một số yếu tố tác
động khác, lúc đó men răng có màu vàng nhạt, vàng sẫm, tím xanh,...
+ Ngà răng: Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, chứa tỷ lệ
chất vô cơ thấp hơn men (70%), chủ yếu là 3[(PO4) 2Ca3)2H2O], nước và chất
hữu cơ chiếm 30%. Trong ngà răng có nhiều ống ngà, chứa đuôi bào tương
của nguyên bào ngà. Bề dày ngà răng thay đổi trong đời sống do hoạt động
của nguyên bào ngà, ngà răng ngày càng dày theo hướng về phía hốc tủy
răng, làm hẹp dần ống tủy. Về tổ chức học ngà răng được chia làm hai loại:
Ngà tiên phát và ngà thứ phát.
+ Tuỷ răng: Là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tuỷ gồm tuỷ chân và
tủythân. Tuỷ răng trong buồng tủy gọi là tủy thân hoặc tủy buồng, tuỷ răng
trong ống tủy gọi là tủy chân. Các nguyên bào ngà nằm sát vách hốc tủy. Tuỷ
răng có nhiệm vụ duy trì sự sống của răng cụ thể là duy trì sự sống của nguyên
bào ngà, tạo ngà thứ cấp và nhận cảm giác của răng. Trong tủy răng có chứa
nhiều mạch máu, mạch bạch huyết và đầu tận cùng của thần kinh.
+ Cement chân răng: Là tổ chức canxi hóa bao phủ vùng ngà chân
răng bắt đầu từ cổ răng đến chóp chân răng, cấu trúc cement chia làm 2
loại:Cement tiên phát và cement thứ phát...
1.1.2.2. Biến đổi sinh lý ở vùng răng miệng
Theo qui luật chung từng cơ quan, bộ phận vùng răng miệng có biến đổi
riêng theo xu hướng thoái triển từ từ, tạo ra những rối loạn không hồi phục cả
về hình thái và chức năng. Nhiều nghiên cứu cho biết: có các biến đổi về
chuyển hoá, trao đổi chất kém ở men, ngà bị xơ hoá (các ống Tome bị vôi
hoá) làm cho răng dễ bị tổn thương. Hình thái răng, tiếp xúc giữa các răng,
chiều dài trước - sau cung răng đều thay đổi. Các biến đổi ở tuỷ răng dẫn tới
điều trị phục hồi gặp rất nhiều khó khăn. Độ dày của lớp xương răng tăng lên,
đôi khi quá mức làm cho chân răng phì đại như hình dùi trống, dẫn tới khó
khăn khi phải nhổ. Các biến đổi theo tuổi làm cho mô liên kết lợi giảm khả
10
năng chống lại các tác động lý học. Lợi bị teo và co gây hở chân răng. Biểu
mô phủ và mô liên kết giảm mối gắn kết, giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy
cảm, chịu đựng kém, dễ bị tổn thương và lâu lành. Hệ thống dây chằng quanh
răng giảm, thoái triển mất vai trò đệm tựa. Xương ổ răng tăng hiện tượng tiêu
xương, giảm chiều cao. Xương hàm yếu, khi gẫy thường can xấu và chậm.
Khớp thái dương - hàm xơ hoá, hõm khớp nông, sụn chêm dẹt, thể tích lồi cầu
giảm, dây chằng rão, xơ, cơ nhai giảm trương lực.Các chức năng nhai, nuốt
đều ảnh hưởng.Tuyến nước bọt có hiện tượng giảm tiết. Nước bọt ít, giảm khả
năng đệm, toan hoá dễ gây sâu răng và tăng nguy cơ viêm nhiễm ở răng
miệng. Theo Ainamo A. và nhiều nghiên cứu khác một số biến đổi được cụ
thể được trình bày trong bảng 1.2 dưới đây.
Bảng 1.3. Biến đổi sinh lý về hình thái, cấu trúc, chức
năng ở mộ số tổ chức
Tổ chức men –
ngà
Tuỷ răng
Lợi
Biểu mô bám dính
Dây chằng
Vàng, mất núm, rãnh...
Mòn ở men, ngà hay tuỷ làm thay đổi chiều dài thân
răng, tiếp điểm giữa các răng.
Buồng tủy, ống tuỷ hẹp, tắc, hình thái và số lượng các
tế bào đệm, mạch máu, thần kinh giảm, xơ hoá tăng,
thường có sự vôi hoá sạn tuỷ.
Teo, mất căng bóng, da cam, xơ, sừng hoá.
Phân bào, Thẩm thấu, Đề kháng đều giảm.
Di chuyển về phía chóp.
Không đều, thu hoặc giãn. Tăng xơ chun, tế bào giảm
và có thể mất hoặc hoà vào xương răng.
Xương ổ răng,
Mạch máu, tạo cốt bào, bè xương giảm, xương loãng.
xuơng hàm
Biểu mô niêm mạc Teo, mỏng, vùng sừng hoá biến đổi
miệng
Tương bào B tăng, có rối loạn trao đổi chất.
Tế bào mỡ giảm, mô xơ, sợi collagen tăng
Mô liên kết
Tuyến ức, tuyến nước bọt teo dần.
Một số biến đổi cụ thểở vùng răng miệng người cao tuổi:
- Biến đổi của men răng: Men răng trở nên giòn và dễ bị nứt mẻ do tuổi
tác. Sự mất men răng có thểlan vào ngà răng. Tuổi càng cao men răng càng dễ
11
bị nứt hơn. Ở người cao tuổi men răng trở nên đối kháng với sự tấn công của
acid[13].
- Biến đổi của ngà răng: Sự tạo ngà thứ cấp làm bít dần cácống ngàdanx
đến xơ ngà, buồng tủythu nhỏ hơn, ngà thứ cấp thành lậpở trần và sàn buồng
tủy nhiều hơn ở các vách. Cácống tủy cũng bị bít dần gây khó khăn cho
việcđiều trị nội nha, làm mô răng bớt nhạy cảm.
- Thay đổi của cement: Cemen được tích tụ dần suốt cuộc sống, đặc
biệtở vùng chóp răng, đây là nguyên nhân chính làmthu hẹp lỗ chóp răng theo
tuổi. Sự tích tụ cement có thể do các kích thích ngoại lai và có thể do những
chấn thương nhỏ kéo dài nhiều năm. Người ta thấy cement ở tuổi 75 dày gấp
3 lần cement ở tuổi 10.
- Thay đổiở tủy răng: Buồng tủy vàống tủy nhỏ dần, tủy trở thành giảm
tế bào, giảm mạch máu và nhiều sợi. Chiều dài và đường kính các sợi giảm và
thay đổi về chấttheo tuổi. Thần kinh tủy răng cũng vậy, tủy dần bị thới hóa,
giảm tuần hoàn có thể hình thành mô khoáng hóa dưới dạng khối đồng tâm
gọi là sạn tủy và gây đau.
- Thay đổi của niêm mạc: Niêm mạc miệng trở nên mỏng dần, nhẵn và
khô, mất dần tínhđàn hồi và dễ bị tổn thương.
- Thay đổi dây chằng nha chu: Ở người cao tuổi có sự thoái hóa dây chằng
nha chu đi kèm với thoái hóa hệ collagen. Sự nứt lợi sinh lýdo lợi bị mòn, dăng
dần trồi, lộ chân răng và kéo theo sự di chuyển của biểu mô bám dính…
1.1.2.3. Một số đặc điểm bệnh lý răng miệng ở NCT
Người cao tuổi khi mắc các bệnh lý răng miệng thường biểu hiện tính
chất phối hợp giữa bệnh và thoái hoá do tuổi cao, tạo ra sự khác biệt so với
người trẻ tuổi[13],[14]. Những tình trạng bệnh hay gặp ở người cao tuổi
thường biểu hiện với tính chất như sau:
- Tổn thương mô cứng hay gặp nhất là hiện tượng mòn răng, gẫy vỡ thân
12
răng, mòn ở cổ răng và tiêu cổ chân răng hình chêm. Các tổn thương này có
tác động của men, ngà bị thoái hóa sinh lý và đặc biệt tăng ở người ít nước
bọt, người mất răng lẻ tẻ có rối loạn khớp cắn.
- Bệnh lý ở tuỷ răng thường gặp là thể viêm tuỷ mạn, ít có biểu hiện lâm
sàng rầm rộ, tủy răng bị chết lúc nào không rõ. Thường bệnh nhân chỉ đi
khám khi có biến chứng ở mô quanh cuống với lỗ rò, u hạt, nang ở chóp chân
răng. Việc chữa tủy gặp nhiều trở ngại vì buồng, ống tủy thường bị hẹp, tắc.tiên
lượng hồi phục kém. Các viêm nhiễm ở tổ chức liên kết thường có biểu hiện của
một quá trình mạn tính, dễ gây rò, phán ứng hạch viêm nhẹ.
- Bệnh lý vùng quanh răng: Lợi bị teo và co gây hở chân răng. Biểu mô
phủ và mô liên kết giảm mối gắn kết, giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm,
chịu đựng kém, dễ bị tổn thương và lâu lành. Hệ thống dây chằng quanh răng
giảm, thoái triển mất vai trò đệm tựa. Xương ổ răng tăng hiện tượng tiêu
xương, giảm chiều cao. Xương hàm yếu, khi gẫy thường can xấu và chậm.
- Bệnh ở niêm mạc, dưới niêm mạc và cơ được nhiều nghiên cứu đề cập
là: các tổn thương dạng tiền ung thư (bạch sản chiếm tỷ lệ cao nhất, liken
phẳng, hồng sản với khoảng 50% là ung thư tại chỗ hay xâm lấn và một số
tình trạng khác…). Niêm mạc miệng bị tổn thương, răng bị sâu nhiều trong
chứng khô miệng ở những người có bệnh tại tuyến hoặc do dùng nhiều loại
thuốc có tác dụng phụ gây giảm tiết hoặc không có nước bọt. Trường hợp
viêm nấm candida thể lan khắp khoang miệng hay gặp ở những người già,
đeo hàm giả nhựa, có thể trạng yếu, suy giảm miễn dịch. Những tổn thương
sừng hoá, teo đét niêm mạc miệng, xơ hoá dưới niêm mạc ở người ăn trầu,
các tổn thương loét sang chấn, loét Aptơ. Đặc biệt là những tổn thương ung
thư niêm mạc miệng thường được phát hiện ở người cao tuổi.
1.1.3. Các bệnh răng miệng ở người cao tuổi
1.1.3.1.Sâu răng
Trong các bệnh về răng miệng, sâu răng (SR) là bệnh phổ biến, là kết quả
13
của sự hủy hoại khoáng tổ chức cứng của răng thành hố bởi sản phẩm cuối của
sự acid hóa các thức ăn có đường do quá trình lên men của vi khuẩn [17].
Trước năm 1970, người ta coi sâu rănglà một thưong tổn không thể hồi
phục và khi giải thích bệnh căn sâu răng, người ta chúý nhiều đế chất đường
vàvi khuẩn Streptococcusmutans nên phòng bệnh sâu răng tập trung vào chế
độăn hạn chế đường, vệ sinh răng miệng nhưng hiệu quả phòng bệnh sâu răng
vẫn bị hạn chế. Nguyên nhân sâu răng được giải thích theo sơ đồ Key là sự
tác động của cả 3 yếu tố gây sâu răng là “Thứcăn”, “Vi khuẩn” và “Men
răng”, thiếu một trong các yếu tốđó thì sâu răng không thể sảy ra.
Từ sau năm 1975, người ta coi sâu răng là một bệnh do nhiều nguyên
nhân gây ra, các nguyên nhân này được chia làm 2 nhóm: Nhóm chính gồm 3
yếu tố phải cùng đồng thời sảy ra. Nhóm phụ trợ có rất nhiều yếu tố như vai
trò của nước bọt, di truyền, đặc tính sinh hóa của răng…Nhóm này tác động
làm tăng hay giảm sâu răng và gây ra vị trí các lỗ sâu khác nhau[21].
Đặcđiểm sâu răng ở người cao tuổi: Vị trí thường bị sâu răng là cổ răng
và chân răng nơi tiếp giáp men-xe măng, trên hay dưới lợi, dạng sâu răng này
còn gọi là sâu răng bòlanở người cao tuổi. Các nguyên nhân gây sâu răng ở
vùng cổ và chân răng có thể kể đến mòn răng, tụt lợi, bệnh nha chu.
Bệnh sâu răng có thể bịmắc từ rất sớm và có tỷ lệ mắc khá cao ở nước ta
cũng như trên thế giới. Bệnh sâu răng và viêm quanh răng là nguyên nhân
chính gây mất răng làm ảnh hưởng nặng nề đến chức năng ăn nhai, phát âm,
thẩm mỹ của con người, ngoài ra bệnh còn có thể là nguyên nhân của những
bệnh nhiễm trùng khác như: viêm cầu thận, viêm nội tâm mạc, viêm khớp, khi
điều tri gây tốn kém về thời gian, kinh phí và nhân lực. Chính vì thế sức khoẻ
răng miệng đã được tổ chức y tế thế giới (WHO) và các nước đặc biệt quan
tâm và đã có những chương trình phòng bệnh. Nhiều biện pháp dự phòng
bệnh sâu răng, viêm quanh răng đã được áp dụng như giáo dục vệ sinh răng
14
miệng, hướng dẫn chế độ ăn dự phòng sâu răng, trám bít hố rãnh, fluor hoá
nước uống, sử dụng kem đánh răng fluor, nước súc miệng flour… Trong hơn
hai thập kỷ qua việc dự phòng sâu răng ở các nước công nghiệp hoá đã thu
được kết quả mỹ mãn: sâu răng ở trẻ 12 tuổi ở các nước Bắc Âu, Canada, Mỹ,
từ mức cao (SMT > 6,5) đã giảm xuống mức thấp (SMT < 3), ở Australia,
Phần Lan: năm 1969 SMT <1, (năm 1993), ở Mỹ SMT: 1,3 (năm 2004) ở
Anh SMT còn 0,7 (năm 2005) [5].
Ở nước ta, trong những năm gần đây xã hội ngày càng phát triển, tỷ lệ bệnh
răng miệng cũng ra tăng rõ rệt. Theo điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc lần
thứ nhất năm 1991, tỷ lệ SR ở lứa tuổi 35-44 là 79%. Theo điều tra sức khoẻ
răng miệng toàn quốc lần thứ hai năm 2000 thì tỷ lệ bệnh SR là 83,2%.
Để làm giảm tỷ lệ bệnh SR và VQR, ở VN trong những năm qua đã có
nhiều chương trình được triển khai, bước đầu đã hạ thấp được tỷ lệ mắc bệnh.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá tình trạng sức khỏe răng miệng
của công nhân, tuy nhiên mỗi đối tượng công nhân làm việc trong môi
trường, điều kiện khác nhau có những ảnh hưởng khác nhau đến tình trạng
sức khỏe răng miệng[27].
1.1.3.2.Bệnh quanh răng
Trướcđây, đa số các giả thuyết cho rằng VQR là do nguyên nhân toàn
thân và các yếu tố tại. Ngày nay người ta nhấn mạnh vai trò của vi khuẩn
trong mảng bám răng và sự đáp ứng miễn dịch của từng cá thể, đây là hai yếu
tố chính khởi phát bệnh viêm lợi và VQR. Mảng bám răng là một sản phẩm
có thành phần cấu tạo hết sức phức tạp và được hình thành dần trong suốt quá
trình thay đổi môi trường ở vùng răng miệng. Về bản chất mảng bám răng là
mảng vi khuẩn, trung bình 1mm3 có đến hàng trăm triệu vi khuẩn, gồm trên
200 loại khác nhau. Các vi khuẩn có mặt trên mảng bám răng, một mặt sản
sinh ra các men chuyển hoá đạm và đường tạo thành các sản phẩm có khả
15
năng thay đổi pH ở các màng bám răng, gây ra hiện tượng lắng đọng canxi
tạo thành cao răng gây kích thích lợi gây ra hiện tuợng viêm lợi. Mặt khác
kháng nguyên của vi khuẩn có thể kết hợp với tổ chức quanh răng tạo thành
những phức hợp kháng nguyên và với cơ chế bảo vệ thông qua kháng thể làm
tổn thương đến các tế bào biểu mô lợi đã có gắn các thành phần kháng
nguyên của vi khuẩn.
1.1.3.3.Mất răng
Mất răng là tình trạng phổ biếnở người cao tuổi. Các nghiên cứu dịch tễ
học cho thấy những ngườithu nhập thấp, ít được giáo dụcở các nước chậm
phát triển thường bị mất răng nhiều hơn. Tùy theo số lượng và vị trí mất răng
mà gây nhiềuảnh hưởng với các mức độ khác nhau[26],[29].
Tình hình mất răng nói chung, mất toàn bộ răng nói riêng khác nhau
theo dân tộc, quốc gia, vùng lãnh thổ, châu lục cũng như ngay trong một quốc
gia và cũng tuỳ thuộc vào tình hình tuổi thọ của dân số. Nhìn chung, số liệu
điều tra dịch tễ học về mất răng toàn bộ cũng như số răng mất trung bình mỗi
người thuộc châu Á là thấp hơn so với các nước thuộc châu Âu, châu Úc và
châu Mỹ. Các nghiên cứu cũng cho thấy: tình trạng mất răng tăng dần theo
chiều tăng của tuổi và có liên quan tới một số yếu tố nhân khẩu - xã hội học.
Hiện nay mất răng vẫn còn là vấn đề răng miệng của người cao tuổi. Mặc dù
trong những thập niên gần đây, người ta thấy số răng tự nhiên còn lại có
tăng lên, số người mất răng toàn bộ có giảm. Theo kết quả điều tra quốc gia
(1989 - 1990) so với điều tra 1985 - 1986 ở Mỹ cho thấy: số người mất răng
toàn bộ ở độ tuổi ≥ 70 đã giảm từ 46,3% còn 37,6%. Số người còn 20 răng trở
lên tăng từ 20,3% lên 28,0%. Nếu so sánh với tình hình mất răng toàn bộ ở
Mỹ 1962 các tác giả thấy: tỷ lệ người có mất răng toàn bộ ở nam năm 1962 là
65,6% nữ là 55,7% tới 1990 đã giảm xuống nhiều với nam còn 38,0% và nữ là
37,0%. Cũng tại Mỹ, Mandel I.D. (1996) cho biết số mất răng toàn bộ là 38,1%
16
ở nhóm tuổi 55 - 64 trong vòng chưa đầy 30 năm đã giảm còn 15,6%[29].
Tại hội nghị Nha khoa Na Uy năm 2007, Ambjornsen [31] đã báo cáo về
tình trạng mất răng ở Na Uy trong những năm 1970-1980, tỷ lệ mất răng ở lứa
tuổi trên 65 tuổi chiếm khoảng 50%; vào cuối thế kỉ 20 chiếm khoảng 30%.
Tại Thụy Điển, trong một nghiên cứu răng miệng của NCT trên 70 tuổi của
Osterberg. với mẫu nghiên cứu là 386 người, có 70% bị mất răng, trong đó có
50,1% mất răng ở hai hàm và 19,5% mất răng ở một hàm, tỷ lệ mất răng của
hàm trên cao hơn hàm dưới và ở vùng răng hàm nhiều hơn ở vùng răng cửa.
Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra của Nguyễn Văn Bài năm 1994, ở
miền Bắc, tỷ lệ mất răng của nhóm tuổi trên 65 là 95,2%, nhu cầu phục hình
răng là 90,4% [26]. Kết quả nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng năm 2007 tại
một phường thuộc thành phố Hà Nội, tỷ lệ mất răng ở người trên 60 tuổi là
81,7%, số răng mất trung bình ở mỗi người là 10,1 chiếc (hàm trên là 4,8
chiếc; hàm dưới là 5,4 chiếc), tỷ lệ mất răng toàn bộ 1 hàm là 5,9% và mất
răng toàn bộ 2 hàm là 2,8% [3]. Năm 2012, theo kết quả nghiên cứu thực
trạng mất răng và nhu cầu điều trị của NCT tại quận Đống Đa, Hà Nội của
Chu Đức Toàn, tỷ lệ mất răng chung của NCT là 89,5%, số răng mất trung
bình của một người là 6,2 chiếc, tỷ lệ mất toàn hàm trên là 4,5%, mất toàn
hàm dưới là 3,3%. Cũng theo kết quả nghiên cứu của Chu Đức Toàn, nhu cầu
điều trị mất răng ở NCT là 76,1% [4].
Nguyên nhân của sự mất răng
- Bệnh sâu răng: Sâu răng và biến chứng của sâu răng được cho là
nguyên nhân chính dẫn đến mất răng. Ở người Việt Nam, tỉ lệ mất răng do
biến chứng sâu răng là 57 – 72%.
- Bệnh nha chu: Viêm quanh răng được coi là nguyên nhân thứ hai gây
ra mất răng và là nguyên nhân chính gây mất răng ở người lớn tuổi.
- Chấn thương hàm mặt: Theo Tống Minh Sơn có tới 72% các tổn
17
thương răng cửa là do chấn thương.
- Ngoài ra, mất răng còn do các nguyên nhân khác như do các khối u
vùng xương hàm, nhổ răng chủ động để chạy tia hay theo yêu cầu chỉnh nha,
thiếu răng bẩm sinh…
Hậu quả của sự mất răng:
Tại chỗ:
- Hiện tượng Popop: các răng còn lại hai bên bị xô lệch theo chiều ngang,
các răng đối diện thòng xuống hoặc trồi lên vào khoảng mất răng.
- Đường cong Spee, đường cong Wilson và khớp cắn thay đổi.
- Làm cho bệnh sâu răng và nha chu nặng thêm.
- Hình dáng khuôn mặt bị thay đổi theo chiều hướng xấu: má hóp, mặt
biến dạng, cằm đưa ra trước.
Toàn thân:[26].
- Hệ thống tiêu hóa bị ảnh hưởng.
- Phát âm thay đổi.
- Hô hấp có thể bị ảnh hưởng nếu bệnh nhân có thói quen thở miệng khi ngủ.
- Ảnh hưởng tâm lý: bệnh nhân bị mặc cảm, mất tự tin, ngại giao tiếp.
1.2.
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUANĐẾN BỆNH RĂNG MIỆNGỞ NGƯỜI CAO
TUỔI
Tần số và mức độ của các bệnh răng miệng có liên quan chặt chẽ với
rất nhiều yếu tố, kể cả yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh. Việc nắm vững
các yếu tố liên quan của bệnh răng miệng cóý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việcđưa ra các biện pháp dự phòng hiệu quả và khả thi.
1.2.1. Bênh răng miệngliên quan đến các nhóm răng
Mức độ nhạy cảm với sâu răng xếp thứ tự theo nhóm răng
- Răng hàm lớn thứ nhất và thứ hai hàm dưới
- Răng hàm lớn thứ nhất và thứ hai hàm trên
- Răng hàm nhỏ thứ hai hàm dưới, răng hàm nhỏ thứ nhất và thứ hai hàm
18
trên, răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trên.
- Răng nanh trên và răng nanh dưới
- Răng cửa giữa và răng cửa bên hàm dưới, răng nanh dưới.
Tuy nhiên có một số nghiên cứu cho thấy răng hàm lớn thứ hai nhạy
cảm với sâu răng hơn so với răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới.
1.2.2. Bệnh răng miệngliên quan với lứatuổi.
Nhiều bệnh răng miện liên quan với tuổi, ví dụ sâu răng tăng nhanh ở
tuổi thanh thiếu niên và những năm đầu của tuổi trưởng thành, sau đó giảm
dần. Răng người cao tuổi dễ bị tụt nướu giúp mảng bám tích tụ quanh vùng
chân răng bị lộ tạo điều kiện cho sâu chân răng phát triển.
1.2.3. Bệnh răng miệng liên quan với giới tính
Các bệnh răng miệng ở nữ có tỷ lệ và cơ cấu khác so với nam, có thể
do nữ thường mọc răng sớm hơn nam. ở mọi lứa tuổi, nữ thường giữ vệ sinh
răng miệng sạch hơn và thường đi khám răng và điều trị bệnh răng miệng đều
hơn nam.
1.2.4. Bệnh răng liên quan đếnyếu tố di truyền, chủng tộc
Theo quan niệm ngày xưa cho là có những chủng tộc có sức đề kháng
tốt với các bệnh về răng. Tuy nhiên, quan niệm này ngày nay không còn giá
trị mà bệnh răng tuỳ thuộc nhiều vào yếu tố môi trường sống và vùng địa lý
hơn là với chủng tộc. Một số dân thuộc “chủng tộc ít sâu răng” trở nên nhạy
cảm với sâu răng khi di trú đến nơi có nền kinh tế phát triển với thói quen
dinh dưỡng và nền văn hoá khác nơi họ sống trước đó.
Nhiều nha sĩ hay nghiên cứu cho thấybệnh răng có tính truyền thống
trong gia đình hay dòng họ. Tuy nhiên rất khó nói đặc tính này mang tính chất
di truyền hay do lây nhiễm vi khuẩn, do có cùng thói quen ăn uống và cùng
nguồn thực phẩm... Cho nên trong khi chờ nghiên cứu thêm về vấn đề này
người ta vẫn cho di truyền ảnh hưởng rất ít đến sâu răng.
19
1.2.5. Bệnh răng miệng liên quan vớitrình độ học vấn
Kiến thức về sức khoẻ gia tăng với trình độ văn hoá.Học vấn càng cao
tình trạng bênh răng miệng ngày càng thấp vì con người biết nguyên nhân
bệnh cũng như hiểu các biện pháp phòng ngừa biết cách tự chăm sóc sức khoẻ
răng miệng và sử dụng các biện pháp dự phòng như chải răng với kem có
fluoride, sử dụng các dạng fluoride toàn thân hay tại chỗ, Sealant bít hỗ rãnh,
chọn thức ăn tốt cho răng, giữ vệ sinh răng miệng, đi khám răng định kỳ
v.v… Đồng thời khi có trình độ học vấn cao, người dân càng dễ dàng tham
gia vào các chương trình sức khoẻ cộng đồng như chăm sóc răng ban đầu...
Xã hội càng phát triển, các phương tiện vệ sinh răng miệng càng phổ
thông: bàn chải, kem đánh răng có Fluoride, chỉ nha khoa, chất nhuộm màu
mảng bám, kiểm soát chế độ ăn uống, bỏ hút thuốc, uống bia, uống rượu....
cải thiện tình trạng răng miệng.
Vai trò của giáo dục với sức khỏe răng miệng:Hệ thống mạng lưới giáo dục
sức khoẻ cho cộng đồng nhằm cung cấp kiến thức phổ thông cho người dân
về dự phòng bệnh răng miệng.
1.2.6. Bệnh răng miệng liên quan đếndinh dưỡng, thể lực
Tại các nước đang phát triển, theo đà thay đổi thực phẩm, gia tăng
đường trong thực phẩm làm cho nhiều bệnh răng gia tăng rõ rệt.Ngoài ra, thể
lực tốt thì sức đề kháng tốt, khi đó khả năng chống đỡ bệnh sẽ tốt hơn.
1.2.7. Bệnh răng miệngliên quan đếnthói quen hút thuốc
Hiện nay hút thuốc lá được cho là yếu tố nguy cơ đáng kể của bệnh
quanh răng. Người hút thuốc lá có 3 - 6 lần nguy cơ mắc bệnh quanh răng so
với người không hút thuốc lá và người trẻ có nguy cơ cao hơn. Thông thường,
những dấu hiệu của bệnh bị che phủ bởi nicotine và các sản phẩm khác từ
thuốc lá gây co mạch làm giảm tưới máu lợi và giảm sức bền thành mạch.
Một số cơ chế liên quan đến thuốc lá cáo buộc thuốc lá là nguy cơ của bệnh
20
răng. Bao gồm: Làm tăng tỷ lệ một số tác nhân gây bệnh quanh răng, làm
giảm IgA nước bọt, giảm khả năng thực bào, gây những thay đổi một số quần
thể tế bào lympho T.
1.3. CÁCBIỆN PHÁP DỰ PHÒNG BỆNH RĂNG MIỆNG
1.3.1. Dự phòng bệnh sâu răng
Từ những hiểu biết về nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của sâu răng,
WHO đi đưa ra một số biện pháp phòng bệnh sâu răng chủ yếu như sau:
+ Sử dụng Fluor:Fluor hoá nguồn cung cấp nước công cộng với độ tập
trung Fluor từ 0,7 đến 1,2 mgF/lít nước mà độ tập trung tối ưu tuỳ thuộc vào
khí hậu.
Đưa Fluor vào muối với độ tập trung fluor là 250 mgF/1kg muối, dùng
viên fluor.Fluor hoá nguồn cung cấp nước với độ tập trung fluor cao hơn mức
độ tập trung fluor tối ưu trong nước công cộng 4,5 lần.
Xúc miệng với các dung dịch Fluor pha loing: Cho trẻ em súc miệng
hàng ngày với dung dịch fluor 0,05% hoặc súc miệng mỗi tuần 1 lần với dung
dịch fluor 0,2 %. Dùng kem đánh răng có fluor. Dùng gel fluor hoặc vecni
fluor.Sử dụng phối hợp các dạng fluor.
+ Trám bít hỗ rinh: áp dụng đối với các mặt nhai để ngăn ngừa sâu ở hố
răng sau khi răng vĩnh viễn mọc.
+ Chế độ ăn uống hợp lý: Kiểm soát các thức ăn và đồ uống có đ−ờng
bao gồm các biện pháp dưới đây: Kiểm soát các thực phẩm có đường; Giảm
dần số lần ăn các thực phẩm có đường; Giảm mức độ tiêu thụ đường ở tầm
quốc gia; Dùng các sản phẩm thay thế đường: xylitol, malnitol…;
+ Hướng dẫn vệ sinh răng miệng:
- Các biện pháp được giám sát chặt chẽ bao gồm chải răng và dùng chỉ
nha khoa.
- Các biện pháp không giám sát được như thực hiện chải răng và các
biện pháp VSRM khác ở nhà.
- Xem thêm -