Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện mối quan hệ đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở tỉnh n...

Tài liệu Thực hiện mối quan hệ đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở tỉnh nam định hiện nay

.PDF
179
551
84

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI HOÀNG ĐÌNH TRUNG thùc hiÖn mèi quan hÖ “®¶ng l·nh ®¹o, nhµ n-íc qu¶n lý, nh©n d©n lµm chñ” ë tØnh nam ®Þnh hiÖn nay LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI – 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI thùc hiÖn mèi quan hÖ “®¶ng l·nh ®¹o, nhµ n-íc qu¶n lý, nh©n d©n lµm chñ” ë tØnh nam ®Þnh hiÖn nay Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã số: 62.22.03.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS ĐẶNG HỮU TOÀN HÀ NỘI – 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của…. Những kết quả và nội dung của luận án là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng Tác giả năm 2016 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCH: Ban Chấp hành BTV: Ban thường vụ CSVN Cộng sản Việt Nam HĐND: Hội đồng nhân dân HTCT: Hệ thống chính trị MTTQ: Mặt trận Tổ quốc UBND: Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1 6 1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận án 6 1.2. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố và nội dung nghiên cứu 27 của đề tài luận án Chương 2. MỐI QUAN HỆ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN 29 DÂN LÀM CHỦ” Ở VIỆT NAM – MỘT SÓ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Các chủ thể chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay 29 2.2. Khái niệm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và mối 34 quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” 2.3. Nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân 43 làm chủ” 2.4. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng 62 lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam hiện nay Tiểu kết chương 2 Chương 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN MỐI QUAN HỆ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, 66 69 NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ” Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY 3.1. Khái quát đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Nam Định 69 3.2. Những thành tựu cơ bản trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, 72 Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay 3.3. Một số hạn chế chủ yếu trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà 94 nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay 3.4. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong thực hiện mối quan hệ 113 “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay Tiểu kết chương 3 Chương 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN MỐI QUAN HỆ “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN 124 127 LÀM CHỦ” Ở NAM ĐỊNH HIỆN NAY 4.1. Một số quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ 127 “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay 4.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan 132 hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay Tiểu kết chương 4 151 KẾT LUẬN 153 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ Đà CÔNG BỐ 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được khẳng định là cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị, thể hiện tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện nhận thức và tổ chức thực hiện mối quan hệ này, coi đây là nhân tố quyết định đến nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng cho thấy, từ nhận thức lý luận đến triển khai thực hiện còn nhiều hạn chế, bất cập. Điều đó, trở thành nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đặc biệt là tình trạng mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn. Trong 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, việc giải quyết mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ được thực hiện đạt kết quả, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có nhiều đổi mới, vừa đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của nhà nước. Mức độ gần dân, sát dân trong lãnh đạo của Đảng đã bảo đảm chủ trương, nghị quyết của Đảng phản ánh được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã phát huy tốt hơn vai trò quản lý, có chính sách đúng, động viên và phát huy được quyền làm chủ của Nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Tính chất phục vụ nhân dân trong hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, mức độ tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động của cơ quan nhà nước được nâng cao. 1 Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân ngày càng được nâng cao. Ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của Nhân dân không ngừng được nâng cao cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đang bộc lộ những hạn chế, cần khắc phục. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII nhận định: “Phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng, chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền…” [24, tr. 197]. Tình trạng, cấp ủy Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với đời sống xã hội và quản lý của chính quyền còn diễn ra ở nhiều cấp, nhiều nơi, chậm được khắc phục. Trong quản lý, điều hành các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp chưa còn thiếu những cơ chế để nhân dân tham gia, phát huy quyền và vai trò làm chủ. Trong thực tế, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều cấp, nhiều nơi. Nam Định là tỉnh nằm ở khu vực nam đồng bằng sông Hồng. Trong những năm qua, việc thực hiện nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, còn những tồn tại, hạn chế: Tiềm năng kinh tế chưa khai thác và sử dụng có hiệu quả; tình trạng tham nhũng, lãng phí trong quản lý nhà nước, sai phạm của cán bộ, công chức ở các cấp chậm được khắc phục; quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm ở nhiều nơi, dẫn tới xuất hiện nhiều điểm nóng chính trị kéo dài trong nhiều năm; niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp đang đứng trước những thách thức. Những tồn tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có việc thực hiện chưa nghiêm túc, hiệu quả mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. 2 Xuất phát từ những nhận thức trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề Thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định hiện nay” làm đề tài cho luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam; thực trạng thực hiện mối quan hệ này ở Nam Định từ 1997 đến nay; luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết một số nhiệm vụ sau: Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Hai là, phân tích, làm rõ các khái niệm, nội dung mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam. Ba là, đánh giá khách quan thực trạng thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến nay. Bốn là, đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Nam Định hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu việc thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: luận án nghiên cứu việc thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trên địa bàn tỉnh Nam Định (gồm 9 huyện và 01 thành phố với 229 xã, phường, thị trấn). Về thời gian: Luận án nghiên cứu việc thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tại tỉnh Nam Định từ năm 1997 đến nay. Về nội dung: luận án nghiên cứu việc thực hiện nội dung của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” tại tỉnh Nam Định 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Luận án tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và một số phương pháp liên ngành. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án góp phần làm rõ hơn một số nội dung của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; xác định vị trí, vai trò, chức năng của mỗi chủ thể trong mối quan hệ. 4 - Luận án phân tích, đánh giá chỉ ra những thành tựu, hạn chế; nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định từ 1997 đến nay. - Luận án đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở tỉnh Nam Định trong những năm tiếp theo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về bản chất, nội dung của mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Luận án cung cấp cơ sở khoa học cho việc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy; hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định hiện nay. Kết quả luận án làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tại trường chính trị Trường Chinh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình đã công bố liên quan tới đề tài luận án 1.1.1. Nhóm những công trình nghiên cứu lý luận chung về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” Mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là một trong những chủ đề cơ bản trong nghiên cứu lý luận chính trị ở Việt Nam. Thời gian gần đây, đã có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề này, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như sau: Một số công trình nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội như: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam” [125], “Quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội với tư cách “biện chứng của lịch sử sinh động” trong quan niệm của V.I. Lênin” [128], “V.I.Lênin với vấn đề xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh” [109], “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh” [47]… Trong các công trình này, các tác giả đã phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và thực hành dân chủ, vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của Nhân dân… Trong bài “Quan hệ giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội với tư cách “biện chứng của lịch sử sinh động” trong quan niệm của V.I. Lênin” [128], hai tác giả Đặng Hữu Toàn và Nguyễn Đình Hòa đã phân tích quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ với xây dựng chủ nghĩa xã hội, bản chất của mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước trong thực tiễn xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Bài viết “V.I.Lênin với vấn đề xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh” [109] tác giả Nguyễn Đức Thắng đã phân tích quan điểm của 6 V.I.Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khi trở thành đảng cầm quyền, nếu Đảng thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, mất sức sống và sáng tạo, mất vai trò lãnh đạo đối với toàn xã hội. Đảng giữ vai trò là người lãnh đạo, nhưng quần chúng nhân dân mới là người làm nên lịch sử” [109, tr.58]. Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh” [47], tác giả làm rõ cơ sở lý luận hình thành và phân tích những quan điểm chủ yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân, về vai trò của nhân dân đối với sự ra đời và quá trình lãnh đạo của Đảng; tính tất yếu, sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân… Những phân tích khoa học được trình bày trong luận án mặc dù không trực bàn về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nhân dân làm chủ nhưng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả khi nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích bản chất của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ”. GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) trong cuốn “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [133] đã đề cập và phân tích những mối quan hệ lớn cần nhận thức và giải quyết ở Việt Nam hiện nay, trong đó có mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” [133, tr. 248-277]. Bàn về mối quan hệ này, các tác giả đã bước đầu làm rõ các khái niệm “lãnh đạo”,“quản lý”, “làm chủ”; phân tích một cách khái quát quá trình phát triển nhận thức mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; đồng thời, đưa ra một số định hướng cần nắm vững trong quá trình thực hiện mối quan hệ này những năm tiếp theo. 7 Bàn về mối quan hệ giữa nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong bài “Thực hành dân chủ - một phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một Đảng lãnh đạo cầm quyền” [31] PGS.TS Phạm Văn Đức cho rằng: “Đảng lãnh đạo” là khái niệm dùng để chỉ vai trò lãnh đạo của Đảng trong tiến trình vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam” [31, tr.12]. Tác giả cũng đặt ra vấn đề: một đảng cầm quyền có ảnh hưởng tới dân chủ không? Đây là câu hỏi cần được luận giải một cách khoa học trong điều kiện nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong quan hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền và phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Cùng chủ đề trên, trong bài viết “Thực hành dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam” [08] GS.TS Hoàng Chí Bảo cho rằng, Đảng và Nhà nước là: “hai chủ thể cùng thực thi sự ủy quyền của nhân dân nhưng theo phương thức khác nhau, không trùng lặp, chồng chéo” [08, tr.7]. Đồng thời, tác giả khẳng định, với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa thì Đảng, Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo, quản lý. Đây là gợi ý rất có giá trị cho tác giả luận án khi phân tích bản chất mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý ở Việt Nam hiện nay. Trong chuyên khảo “Thực hành dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [32], các tác giả đã phân tích lý luận chung về dân chủ và thực hành dân chủ, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những quan điểm về dân chủ, điều kiện để thực hành dân chủ là cơ sở lý luận quan trọng cho luận án khi phân tích bản chất và nội dung vai trò làm chủ của nhân dân trong quan hệ với Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý ở Việt Nam hiện nay. 8 Hai tác giả Đặng Đình Tân và Đặng Minh Tuấn trong cuốn “Thể chế Đảng cầm quyền một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [97] đã phân tích những vấn đề lý luận chung về đảng cầm quyền trên thế giới và ở Việt Nam. Về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, các tác giả cho rằng: “Đảng và Nhà nước có chức năng chính trị, xã hội khác nhau có địa vị chính trị, pháp lý khác nhau, có phương thức tổ chức và hoạt động khác nhau. Việc không làm rõ hai mặt trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước sẽ gây nhiều hậu quả nghiêm trọng” [97, tr.37]. Chúng tôi nhất trí với quan điểm trên của tác giả về sự cần thiết phải phân định về vai trò của các chủ thể chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Cũng phân tích sự khác nhau giữa vai trò của Đảng và Nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, GS.TS Lê Hữu Nghĩa trong bài “Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền” [49] đã cho rằng: “Đảng là hạt nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị, nên Đảng cũng có quyền lực chính trị, nhưng Đảng không có quyền lực nhà nước. Đảng không phải là cơ quan nhà nước. Do đó, nhất thiết không được lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước, giữa quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước…Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội, Nhà nước là bộ máy thống trị, quản lý xã hội” [49, tr.181]. Tác giả đã phân tích vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị và sự cần thiết phải phân biệt nội dung, công việc khác nhau giữa Đảng với Nhà nước. GS.TS. Trần Ngọc Đường trong cuốn “Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [33] cũng phân tích sự khác nhau giữa quyền lực chính trị của Đảng và Nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Tác giả cho rằng: “Đảng và Nhà nước là hai chủ thể của cùng quyền lực chính trị, tuy có chức năng khác nhau, phạm vi thực thi quyền lực cũng khác nhau” [33, tr.487]. Do đó, tác giả nhấn mạnh: “xác định rõ phạm vi, ranh giới quyền lực 9 lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, để Đảng không “lấn sân”, không “làm thay” vai trò, chức năng quản lý xã hội của Nhà nước và để cho Nhà nước không được “lấn sân” vai trò, chức năng lãnh đạo của Đảng” [33, tr.499]. Về mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước và Nhân dân ở Việt Nam hiện nay, tác giả cho rằng: “Quyền lực của nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc của mọi quyền lực khác…Đảng và Nhà nước đều là những chủ thể thực hiện sự ủy quyền của nhân dân, thừa hành quyền lực của nhân dân” [33, tr.500-503]. Những phân tích trên của tác giả là nguồn tài liệu quan trọng cung cấp cho luận án những cơ sở lý thuyết để phân tích mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Trong Báo cáo tham luận “Mối quan hệ giữa xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tại Hội thảo “Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển”, PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng Đảng với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tác giả chỉ ra: Làm tốt công tác xây dựng Đảng sẽ tạo ra tiền đề, điều kiện bảo đảm tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước ... Đồng thời, trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân cũng tác động đến công tác xây dựng Đảng. Về sự khác nhau giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trong bài viết “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [54], PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt đã cho rằng: “lãnh đạo, quản lý là quá trình chủ thể tác động vào khách thể, nhận thức khách thể. Xét về bản chất, lãnh đạo và quản lý đều là quá trình điều khiển” [54, tr.6]. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý: “lãnh đạo là quá trình định hướng cho mọi khách thể, còn quản lý là quá trình tổ chức, sắp xếp, bố trí để thực hiện sự định 10 hướng” [54, tr.6]. Phân tích khái niệm “lãnh đạo” và “quản lý” của tác giả là cơ sở cho việc nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò của Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý ở nước ta hiện nay. Trong bài “Tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” [71], GS.TS Lê Hữu Nghĩa đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn xác định nguyên tắc phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, tác giả đi tới quan điểm: Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà là công việc của nhân dân, trách nhiệm của nhân dân. Nhân dân là đối tượng lãnh đạo của Đảng, đồng thời là chỗ dựa của Đảng, là nguồn sức mạnh của Đảng. Luận điểm trên đã góp phần làm rõ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Về mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước và Nhân dân, trong bài: “Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân” [142] TS. Đỗ Quang Tuấn cho rằng: “Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân là một truyền thống quý báu và nguồn sức mạnh vô địch của Đảng. Đảng ta ra đời và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân dân. Đảng tồn tại do nhân dân và vì nhân dân….. Đảng lãnh đạo nhân dân nhưng Đảng cần nhân dân để có sức mạnh” [142, tr.45] .Trong điều kiện trở thành Đảng cầm quyền, tức là Đảng lãnh đạo Nhà nước thì quan hệ giữa Đảng với nhân dân chủ yếu thông qua Nhà nước mà trực tiếp là cán bộ, đảng viên của Đảng, tác giả đã chỉ ra: “Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước nên quan hệ giữa Đảng với nhân dân trước hết và chủ yếu thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân” [142, tr.46]. Về mối quan hệ giữa Đảng với dân, trong bài “Mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân – một nguyên tắc cốt tử” [39], GS.TS Hoàng Ngọc Hòa phân tích mối quan hệ biện chứng giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhân dân trong tiến trình cách mạng Việt Nam, tác giả chỉ ra: “không có phong trào cách mạng của nhân dân thì không có sự ra đời của Đảng, không có sự ôm ấp, 11 đùm bọc, che chở, bảo vệ của nhân dân thì không có sự tồn tại, phát triển của Đảng” [39]. Từ đó khẳng định: Đảng ta là đảng cầm quyền muốn thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu trên càng phải luôn gắn bó máu thịt với nhân dân. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với những phân tích của tác giả, những luận điểm trên gợi ý giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Cũng về chủ đề này, trong bài “Quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời kỳ phát triển mới của đất nước” [75] GS.TS Dương Xuân Ngọc khẳng định: “mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ gắn bó hữu cơ hai chiều, tương hỗ và tự nhiên. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ; nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng” [75, tr.43]. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước - Vấn đề và kinh nghiệm” [42], đã tập trung phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa Đảng - Nhân dân và khẳng định: Nhân dân cần được định hướng và tổ chức trong một tổ chức thống nhất mới có thể tạo nên sức mạnh, đó là cơ sở khách quan của mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Đồng thời, để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo, Đảng phải xác định liên hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Những luận điểm khoa học của Đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị đối với luận án. Bài viết “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò của Dân trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [88], GS.TS Phạm Ngọc Quang cho rằng: Xuất phát từ nhận thức mới về vai trò của Dân đối với Đảng, đã đến lúc phải khẳng định rằng, tự nó, Đảng không có quyền, mọi quyền lực mà Đảng có được là do Nhân dân uỷ quyền cho. Đảng và Nhà nước là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là cơ chế có hiệu quả nhất. Mặc 12 dù, bài viết không trực tiếp bàn tới bản chất mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” song từ phân tích trên đã gợi ý cho luận án nghiên cứu làm rõ lý luận về vị trí, vai trò của nhân dân trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Về mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước và Nhân dân trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, trong bài “Bàn về lãnh đạo và quản lý trong công cuộc cải cách hành chính” [92] tác giả Đỗ Quốc Sam cho rằng cần thiết phải làm rõ: “mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, vị trí tương đối của chủ thể này đối với hai chủ thể kia và trong quan hệ chung”. Tác giả nhấn mạnh: “Đứng trên góc độ quyền lực mà nói, thì nhân dân là chủ thể có vị trí quan trọng nhất, có toàn bộ quyền lực”; đồng thời “Trong quan hệ giữa ba chủ thể, Đảng, Nhà nước và nhân dân, cũng như giữa ba chức năng, lãnh đạo, quản lý và làm chủ, vai trò làm chủ của nhân dân giữ vị trí tiền đề” [92, tr.5152]. Chúng tôi nhất trí với quan điểm của tác giả khẳng định quyền làm chủ của nhân dân là trung tâm, nguồn gốc phát sinh quyền lực Nhà nước, quyền lãnh đạo của Đảng. Trong bài “Cơ sở của mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân” [158], TS Dương Trung Ý sau khi phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa Đảng và dân ở Việt Nam, tác giả kết luận: “Đảng phải dựa vào dân để có sức mạnh thực hiện vai trò lãnh đạo, nhân dân nhờ có sự dẫn dắt của Đảng mới làm cách mạng thành công. Gắn bó mật thiết với nhân dân là thuộc tính đặc trưng, bản chất của Đảng, là một trong những nguyên tắc hoạt động hàng đầu của Đảng. Xa rời nhân dân là Đảng xa rời bản chất cách mạng, mục đích, lý tưởng, xa rời cơ sở chính trị - xã hội cho sự tồn tại, phát triển của mình” [158, tr. 49]. Bên cạnh đó, còn nhiều công trình, bài viết của các tác giả như: “Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã ở nước ta 13 hiện nay thực trạng và giải pháp” (Đề tài cấp bộ, số 97 – 98 - 021/ĐT, Phân viện Báo chí tuyên truyền, Hà Nội – 1997); “Cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân” của PGS.TS Trần Xuân Sầm; “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước. Vấn đề và kinh nghiệm” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002); “Bàn về việc thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm đối với đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta” của ThS. Phạm Quốc Tuấn (Tạp chí Lý luận chính trị, số 3- 2012); “Cần hiến định vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đỗ Mạnh Hòa (Tạp chí Cộng sản, số 77, 5- 2013); “Phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay” của Lê Bá Trình (Tạp chí Cộng sản, số 846, 4- 2013); “Thể chế hóa vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” của Lê Văn Hòe (Tạp chí Cộng sản, số 847, 5- 2013); “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy trong xây dựng hệ thống chính quyền ở cơ sở hiện nay” của Dương Trung Ý (Tạp chí Cộng sản, số 77, 2013)... Các công trình, sách và bài viết của các tác giả là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng đối với luận án. 1.1.2. Những công trình đề cập đến thực trạng thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở Việt Nam nói chung và Nam Định nói riêng Về thực trạng thực hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, trong thời gian qua, vấn đề nãy cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Một số công trình tiêu biểu gần đây như: Về những thành tựu thực hiện mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trong thời kỳ đổi mới, trong công trình “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [133], các tác giả đã chỉ ra hai thành tựu chủ yếu: một là, Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước; thông qua Nhà 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan