Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Thức ăn tự nhiên của cá trần văn vỹ...

Tài liệu Thức ăn tự nhiên của cá trần văn vỹ

.PDF
292
739
90

Mô tả:

IRAN VAN VY THÚC ÁN TU NHIÉN CÜA CÁ (Tái bán fán thú nhát, có bó sung) NHÁ XIIÁT BÁN NÓNC, NGHIÉP HA NÜI 1995 LÒI GIÓI THIỆU Thức ăn tự nhiên của cá chủ yếu bao gồm các nho'm sinh vật ở nước, chúng vốn sống ngay cạnh cá. Cũng giống như nhiều nước ở châu Á, nghề nuôi cá của nước ta hiện nay và trong nhiều năm tới, việc phát triển cơ sở thức ăn tự nhiên của cá trong ao hồ vẫn là biện pháp chủ yếu để tăng năng suất cá nuôi. Cuốn sách "Thức ăn tự nhiên của cá" do kỹ sư sinh học Trần Văn Vỹ, Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I (Viện NCNTTSI) biên soạn đã được Nhà xuất bản Nông nghiệp xuất bản năm 1982. Cuốn sách đã trinh bày vấn đề thức ăn tự nhiê::i của cá một cách hệ thống và đầy đủ, từ những cơ sở lý luận đến những biện pháp thực tiễn nhằm bảo vệ và phát triển cơ sở thức ăn tự nhiên của cá trong các vực nước. Cuốn sách đã tập hợp không những các kết quả nghiên cứu và bài viết của chính tác giả mà còn của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước có uy tín về lỉnh vực thức ăn tự nhiên của cá. Sau 13 năm kể từ lần xuất bản trước, ở lần tái bản này tác giả đã cổ những chỉnh lý và bổ sung mới, cả ở phần lý luận cơ bản cũng như thực tiễn sản xuất để cuốn sách được hoàn hảo hơn. Hy vọng rằng cuốn sách sẽ mang lạibổ ích cho đông đảo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và chỉ đạo sản xuất nghềcá, các bạn học 3 sinh trung học và đại học cũng như các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy có liên quan đến môn sinh học, thuỷ sinh vật học, nuôi cá, kỹ thuật nông nghiệp, bảo vệ nguồn lợi, môi trường v.v... Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP 4 PHÀN THỨ NHẤT NHỮNG CO SỎ LÝ LUẬN VỀ THỨC ĂN Tự NHIÊN CỦA CÁ 1. NHỮNG TÍNH CHẤT cơ BÀN CỬA NƯỚC VÀ CÁC KHÁI NIỆM VỀ THỨC ÄN Tự NHIÊN 1.1. NƯỐC - MỒI TRƯÒNG SÓNG CỦA CÁ VÀ CÁC SINH VẬT THỨC ĂN Nước là môi trường sống cụ thể của cá và các sinh vật thức ăn ở nước. Phần lớn các sinh vật thức ăn của cá có đời sống gắn chặt với nước ; đó là những vi khuẩn ở nước, tảo, các động vật giáp xác thấp sống phù du như bọn Râu ngành. Chân chèo, các động vật sống ở bùn đáy như giun ít tơ, trai, ốc và cuối cùng phải kể đến cả những loại cá con, cá tạp làm thức ăn tự nhiên cho các loài cá dữ. Chúng là các sinh vật ở nước điển hỉnh. Chỉ một số ít sinh vật thức ăn của cá mới ở nước một thời gian, thường là thời gian đầu của quá trình biến thái ; đó là ấu trùng muỗi, ấu trùng chuồn chuồn và ấu trùng của nhiều loại côn trùng khác. Do toàn bộ đời sống của các sinh vật thức ăn gán chặt với nước nên những tính chất chung của nước và riêng của từng loại vực nước có ảnh hưởng quyết định 5 đến thành phàn và số lượng cúng như toàn bộ đời sống của các sinh vật thức ăn, kể cả cá. Đối với nghề cá, nước có bốn tính chất cơ bản cần chú ý sau đây : 1. Nước có k h ả n ă n g h o à ta n rất lớn, các chất vô cơ, hữu cơ, Trong khi nước biển có độ muối rất cao : 36 - 38%o, nghĩa là 36000 - 38000mg/l thì hàm lượng muối của nước ngọt chỉ từ 5 đến 500, thậm chí cao nhất cũng chỉ 1000mg/l (l%o). Nước sông ngòi, ao hồ’ có thể chứa đựng tấ t cả các loại nước thải phân bón... làm nguồn dinh dưỡng cho các sinh vật ở nước. So với đất trồng trọt ở trên cạn, nước thường chứa một lượng muối dinh dưỡng ít hơn nhiều và vỉ thế không thể đảm bảo cho thực vật tồn tại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, ở nước lại có hiện tượng bổ sung liên tục các muối dinh dưỡng do sự chết và phân huỷ của các sinh vật ở nước (ví dụ, theo AS Kônstantinôp 1967, sau khi tảo phù du trong nước bị chết, 20 - 25% phốtpho của tảo ở dạng vô cơ và 30 - 40% ở dạng hữu cơ gia nhập dần vào nước, có đến 70% phốtpho được vô cơ hoá trong 2 ngày). Nhờ sự bổ sung liên tục này mà quang hợp của các loại thực vật ở trong vực nước luôn luôn được duy trỉ. 2. Chế độ n h iệ t của nước thường ổn định và hoà hơn ở trên cạn. Biểu hiện của nó là vào mùa nước ao hồ thường ấm hơn ỏ trên cạn, còn đến nóng lại mát hơn. Chính nhờ tính chất này mà các vật thức ăn ở nước thưòng phong phú ; chúng không 6 điều lạnh mùa sinh phải sống trong những điều kiện khát khe do biến động lớn của nhiệt độ. 3. Nước có tỷ trọ n g lớn. Nhờ tính chất này mà các sinh vật ở nước, đặc biệt là các động vật không xương có thể sống bình thường ở trong nước. (Thuỷ mẫu là một động vật không xương, không co' giáp cứng. Nếu đưa thuỷ mẫu lên cạn nó sẽ chết ngay vì sức nặng của... chính nó ( !), nhưng trái lại khi ở dưới nước nhờ nước có tỷ trọng lớn mà con vật này sống bình thường). 4. Hàm lượng ôxi có trong nước cũng ít hơn ở trên cạn, thường ít hơn đến 20 làn. Hầu như không bao giờ thấy ở trên cạn bị thiếu ôxi vì mặt đất đã có cây xanh sản xuất liên tục ôxi cho người và động vật trên cạn. ỏ nước tuy cũng cđ thực vật (chủ yếu là tảo), nhờ hoạt động quang hợp mà chúng cũng thải ra ôxi, nhưng do khả năng hoà ta i ôxi của nước bị hạn chế nên tình trạng thiếu ôxi rất dễ xảy ra, nhất là ở các ao hồ bón quá nhiều phân hữu cơ hoặc thả dày cá. Do bốn tính chất cơ bản trên đây của nước mà các sinh vật ở nước, trong đđ có sinh vật thức ăn, cũng mang những tính chất độc đáo riêng so với các sinh vật ở trên cạn. Trước hết chúng ta xét đến những điểm giống nhau giữa sinh vật ở nước và ở cạn. Sinh vật ở nước cũng có tính đa dạng trong thành phần loài và cũng thường có một hay một số loài ưu thế -(ưu thế về số lượng, về khối lượng hoặc về vai trò trong chuyển hoá vật chất và nâng lượng của vực nước). Trong các sinh vật ở nước cũng có 7 ba nhóm thành phần sinh vật : sinh vật sản sinh (producent), sinh vật tiêu thụ (consument) và sinh vật phân huỷ (reducent). Xét về số lượng, sinh vật ở nước cũng theo quy luật chung như sinh vật ở cạn : sinh vật tiêu thụ bao giờ cũng ít hdn sinh vật sản sinh, sinh vật phân huỷ ' (vi khuẩn) bao giờ cũng phong phú về số lượng cá thể nhưng do kích thước nhỏ nên khối lượng thường không lớn v.v... Tuy nhiên, do những tính chất riêng của môi trường nước mà sinh vật ở nước lại có những đặc điểm riêng, khác hàn với sinh vật trên cạn. Sinh vật ở nước thường cđ kích thước nhỏ (còn gọi là kích thước hiển vi) ; kích thước như thế mới phù hợp với lối sống trôi nổi trong các tầng nước. Theo các nhà thuỷ sinh vật học nổi tiếng, kích thước nhỏ của các sinh vật sản sinh (tảo) và các sinh vật tiêu thụ bậc thấp (động vật phù du) là điều kiện để hình thành các chuỗi thức ăn dài trong vực nước, phù hợp với quy luật tăng dần kích thước của các bậc dinh dưỡng từ thấp lên cao. Do có kích thước nhỏ, cường độ trao đổi chất mạnh, lại sinh sản nhanh nên m ật độ các sinh vật ỏ nước như vi khuẩn, tảo... thường rất cao (hàng triệu cá thể trong 1 lít nước). Điều này chỉ thấy có ở một nhóm sinh vật trên cạn, đó là vi khuẩn. Với mật độ cao của sinh vật ở nước dẫn đến quan hệ giữa sinh vật sản sinh và sinh vật tiêu thụ cũng rất khác với ở trên cạn. Thông qua môi trường nước, các mối quan hệ giữa các sinh vật ở nước thường m ật thiết hơn ở trên cạn nhiều, ỏ nước, quan hệ thức ăn giữa các sinh vật rất phức tạp, sơ đồ 8 quan hệ thường có nhiều nhánh do thành phần loài của sinh vật ỏ nước đa dạng, chuỗi thức ăn gôm nhiều khâu trung gian từ thực vật đến động vật nhỏ, động vật lớn và cá. 1.2. CÁC KHÁI NIỆM VỀ THỬC ĂN Tự NHIÊN Việc tìm hiểu thức ăn tự nhiên của cácó liên quan đến một số khái niệm mà dưới đây sẽ lần lượt xét đến. Ibàn bộ khối lượng động vật, thực vật, kể cả các sản phẩm thải và phân huỷ của chúng có thể được sử dụng làm thức ăn cho mọi sinh vật ở nước đều được xếp chung vào khái niệm nguòn thức ăn của vực nước. Đây là một khái niệm rất rộng và không cụ thể. Khái niệm hay gặp hơn cả là ca sỏ thức ặn, nhằm chỉ lượng thực vật, động vật, chất hữu cơ trong vực nước dùng làm thức ãn chỉ cho một nhóm sinh vật ở nước nhất định. Cơ sở thức ăn chỉ là một bộ phận nhỏ của nguồn thức ăn trong vực nước và biến đổi theo thành phần của nhóm sinh vật ở nước.- Ví dụ, khi nói-đến"cơ sở thứcăntự nhiê của cá" có nghĩa muốn nóiđến tất cả các loại sinh vật và sản phẩm phân huỷ của chúng mà các loài cá sống trong vực nước đó có thể sử dụng được. Tuy nhiên, lại cần đến những khái niệm hẹp hơn nữa. Ví dụ trong một khoảng thời gian nhất định cá chỉ có thể ăn hết một phần của cơ sở thức ăn mà thôi, vì vậy phần thức ăn mà cá thực sự án trong một khoảng thời gian được gọi là lượng thức ăn. Lượng thức ăn chỉ là một phần nhỏ của cơ sở thức ăn. 9 Trong thực tế, do thành phần thức ăn được cá sử dụng không giống nhau, lại do đặc điểm thích ứng về cấu tạo, sinh lý, sinh thái của từng loài cá để sử dụng những đối tượng thức ăn nào đó trong cơ sở thức ăn, người ta lại phân biệt diện thức ăn (còn gọi là phổ thức ăn). Đây chính là giới hạn về thành phần thức ăn của một loài sinh vật nào đó trong vực nước. Ví dụ, muốn biết cá có đặc tính của diện thức ăn nào phải dùng phương pháp định lượng để xét thức ăn nào là chủ yếu, có với lượng nhỉều nhất. Diện thức ăn có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn sinh trưởng của cá (cá lớn, cá bé), theo địa phương, theo mùa, theo ngày đêm, theo sự biến đổi của chính cơ sở thức ăn hoặc theo khả năng lấy thức ăn của cá... Tuỳ mức độ đa dạng của thành phần thức ăn mà diện thức ăn co' thể rộng (euryphage) hoặc hẹp (stenophage), hoặc đơn điệu chỉ ãn một loại (monophage). Nếu căn cứ theo loại thức ăn trong vực nước người ta chia thành loại ăn chất vẩn (detritophage), ăn thực vật (phytophage), ăn động vật (zoophage), ăn sinh vật nổi (planktophage), ăn sinh vật đáy (bentophage) hoặc đơn giản hơn, chia làm ba loại : loại ăn thực vật, loại ăn động vật và loại ăn tạp ăn cả thực vật và động vật. Theo mức độ ưa thích của loại thức ăn, người ta cũng chia ra ba loại : thức ăn chủ yếu (thức ăn cơ bản), thức ãn tình cồ (hoậc ngẫu nhiên) và thức ăn gượng ép (thức ăn mà cá bát buộc phải ăn) ; hoặc thức ăn ưa thích, thức ăn tình cờ và thức ăn thay thế. ỏ đây thức 10 ãh thay thế là thức ãn mà cá phải ăn khi ít co' thức àn ưa thích. Để đánh giá khả năng sản sinh ra và làm tăng chất hữu cơ của một vực nước, dưới dạng các sinh vật ở nước, người ta dùng khái niệm năng suất sinh học của vực nưóc. Khái niệm này cũng'tương tự như khái niệm về độ phì của đất trồng, khả năng tạo ra thu hoạch cao hay thấp của cây trồng. Tất nhiên, năng suất sinh học của vực nước có liên quan chặt chẽ với cả ba quá trình tạo thành, phân huỷ và tích tụ trong vực nước - mà trước hết là ở quá trình tạo thành. Vì vậy khả năng sinh trưởng và sinh sản của các quàn thể sinh vật ở nước cũng như khả năng đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc tồn tại và sinh sản tạo ra khối lượng mới của sinh vật ở nước rất quyết định đến năng suất sinh học. Có tập trung nghiện cứu năng suất sinh học của vực nước mới có thể từ đó đề ra những biện pháp co' hiệu quả để nâng cao năng suất, hiệu quả sử dụng và khai thác nguồn lợi các sinh vật ở nước được. Ỏ đây cần phân biệt rõ hơn hai khái niệm cơ bản dùng để đánh giá số lượng các sinh vật thức ăn trong vực nước. Khối lượng sinh vật (còn gọi là sinh vật lượng, sinh khối, biomass, ký hiệu là B) của vực nước là lượng sinh vật co' trong vực nước được xác định ở một thời điểm nhất định nào đo' bằng các phương pháp định lượng. Các đơn vị để biểu diễn khối lượng sinh vật thức ăn tự nhiên của cá là gam/1, gam/m2, gam/m3, v.v... 11 Sản lượng sinh vật (còn gọi là sức sản xuất, ký hiệu là P) là lượng chất sống do sinh vật sản sinh ra (biểu hiện ở độ tăng khối lượng sinh vật) trong một khoảng thời gian nhất định nào đó (1 ngày đêm, 1 năm ...) trong vực nước. Tuỳ loài sinh vật mà có thể tính trực tiếp p theo khối lượng tươi hay khô, hoậc có thể tính . gián tiếp theo lượng các-bon hấp thụ, lượng ôxi giải phóng ra trong quá trình quang hợp hay lượng nhiệt calo tương ứng sản ra trong một đơn vị thời gian. Đơn vị thường dùng để tính sức sản xuất của một vực nước là gam c/m2, gam 02/m2, kcal/m2 trong một ngày đêm hoặc trong một năm, gam/m2, gam/m3 sính vật tươi hay khô trong một năm. Hai khái niệm cơ bản trên cần được phân biệt rõ, nhờ chúng có thể đánh giá đầy đủ năng suất sinh học của vực nước, khả nâng khai thác sản phẩm, tình hình dự trữ thức ãn cho cá nuôi và nhiều vấn đề quan trọng khác. Nghề nuôi cá thường quan tâm nhiều đến sinh khối của các sinh vật thức ăn hơn và trong thực tế nhiều khi một lượng sinh khối nhỏ nhưng lại có sức sản xuất rất lớn và ngược lại. Để so sánh năng suất sinh học giữa các nhóm sinh vật thức ăn khác nhau, giữa các vực nước khác nhau người ta dùng hệ sổ P/B (quan hệ giữa sức sản xuất và sinh khối của một quần thể sinh vật thức ăn, hoặc chung cho cả một vực nước). Đd là sức sản xuất của một đơn vị sinh khối trong một khoảng thời gian nhất định, thường tính theo một năm. Thông thường h ệ 'số P/B ở thực vật phù du thường lớn hơn gấp nhiều lần ở động vật phù du, của động vật co' kích thưỏc nhỏ cũng lớn hơn của động vật có kích thước lớn. Theo nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nho, giá trị của hệ số P/B của 12 luận trùng Brachionus calyciílorus những năm 1976 - 1977 là 348,2 số này như thế là cao, chứng tỏ dưỡng, có khả năng tái sản xuất ở hồ Tầy (Hà Nội) vào - 365,4. Giá trị của hệ hồ Tầy là hồ giàu dinh tự nhiên lớn. Trong các nghiên cứụ về thức ăn tự nhiên của cá còn rất thường gặp các khái niệm về cường độ ăn, độ đảm bảo thức ăn và chỉ số lựa chọn thức ăn. Cường độ ăn lì lượng thức ăn được sử dụng trong ' một đơn vị thời gian chia cho khối lượng động vật. Cường độ ăn tăng cao khi vật ăn gặp thức ăn ưa thích, lượng thức ăn ở ngoài môi trường có nhiều, nhiệt độ nước và hàm lượng ôxi thích hợp... Ngoài ra, .các sinh vật ở nước, kể cả cá, có cường độ ăn thay đổi theo chu kỳ, theo ngày đêm, theo mùa, theo chế độ nước v.v... Khái niệm về độ đảm bảo thức ăn được GV Niconxki đề ra từ 1953, sáu ù) được TF Đêmentiêva và EV Bôrutski sửa lại, đó là, sự có mặt của thức ăn được sinh vật sử dụng và những điều kiện tương ứng để tiêu hoá nđ (những điều kiện tương ứng ở đây là nhiệt độ nước, chế độ khí, pH, sự ôxi hoá v.v. ...). Vì vậy ở một mặt. nào đó, độ đảm bảo thức ăn cũng gần tương tự như điều kiện sống của cá nói chung. Để biểu của các sinh ra chỉ sổ lựa của thức ăn theo % : diễn sự lựa chọn thức ăn bởi cá cũng như vật khác ở nước AA Sorưghin (1940) đã đề chọn thức ăn I. Đó là tỷ số giữa khối lượng có trong ruột và ở ngoài môi trường, tính 13 b a I Trong đó b là % của khối lượng thức ăn ở trong ruột ; a là % của khối lượng thức ăn ở ngoài môi trường. Ví dụ, nếu giáp xác bậc thấp Simocephalus vetulus sống trong môi trường có hai loại tảo Chlorella và Chlorococcum với lượng như nhau, còn trong ruột của chúng có hai loại tảo này với lượng tương ứng là 75 và 25% thì chỉ số lựa 75 chon Chlorella là li = — = 1,5 và đối với Chlorococcum 50 25 là Ỉ2 = — = 0,5. Vậy co' thê biết loài giáp xác này đã ÖU ăn Chlorella nhiều gấp 3 lần so với Chlorococcum. (RA Savina đã dựa vào chỉ số lựa chọn này để nghiên cứu về dinh dưỡng của cá mè trắng đối với các loại tảo khác nhau). Vê sau AS Kônstantinôp (1953) đề nghị đối với một loại thức ăn cần tính hai chỉ số : chỉ số lựa chọn I và b —a chi só loại bô r theo cống thức : I = ------- và a - b I = —ị-— . Cách tính này sẽ xác định chính xác hơn mức độ lựa chọn thức ăn của vật ăn. 2. CÁC LOẠI SINH VẬT Ở NƯỚC VÀ Ý NGHĨA THỨC ĂN CÙA CHÚNG Cơ sở thức ăn tự nhiên của cá bao gồm nhiều loại sinh vật ở nước, kể từ vi khuẩn cho đến tảo và thực vật 14 bậc cao, các loại động vật không xương sống trôi nổi trong tầng nước hoặc ở chìm trong đáy bùn và Cuối cùng phải kể đến cả một số loài động vật cđ xương sống nữa. Ngoài ra toàn bộ các sản phẩm thải của sinh vật ở nước và sản phẩm phân giải sau khi chúng chết đã tạo nên một loại "thức ăn" gồm nhiềụ thành phần và mang tên gọi chung là mùn bã hữu cơ (detrit). 2.1- VI KHUẨN Đây là một nhóm sinh vật thức ăn do tính phức tạp của nó mà đến nay vẫn còn ít được chú ý nghiên cứu. Vi khuẩn có với số lượng lớn cả ở trong lòng nước, cả ở trong bùn đáy. Nhờ sinh sản đơn giản bằng cách cát ngang cơ thể, một cá thể có thể cho hơn 4 nghìn vi khuẩn sau 6 giờ, còn sau 24 giờ cho 8 triệu. Nếu không co' gì cản trở thì con cháu của một vi khuẩn qua một ngày đêm sẽ là 115 triệu triệu cá thể ! Trong nước tự nhiên cđ một lượng lớn vi khuẩn. Một lít nước sông có từ 100 - 1000 vi khuẩn, có khi lên đến hàng vạn ; ở hồ con số này thay đổi từ 1 đến vài triệu cá thể. Còn trong 1 ml nước ao nuôi cá có thể có 19 triệu tế bào vi khuẩn tính ra một lít nước như thế sinh khối của chúng là 31,6 mg. ỏ những ao bón phân hữu cơ số lượng vi khuẩn càng phong phú. Trong 1 gam bùn đáy ao có thể có 5,9 tỉ tế bào vi khuẩn, nặng 6,8 mg ! Với kích thước dao động trong khoảng từ 1 đến 5 micrôn vi khuẩn là thức ăn rất cần thiết cho các loại động vật nguyên sinh, luân trùng, giáp xác thấp, giun, trai ốc, ấu trùng côn trùng và nhiều loại cá khi còn nhỏ. Chính vi khuẩn cố định 15 đạm Azotobacter, thậm chí cả vi khuẩn gây bệnh lỵ B. coli có trong nước bẩn cũng là thức ăn ưa thích của các loại giáp xác lọc sống phù du và động vật đáy. Khi trong nước có đủ ôxi, nhờ hoạt dộng sống của vi khuẩn mà các chất hữu cơ phân huỷ tương đối mạnh : cácbon và hydro chuyển thành CO2 và nước, đạm của các hợp chất prôtit thành nước tiểu và ammôniac. Những vi khuẩn nitrat hoá chuyển các hợp chất này thành đạm nitrat, loại đạm mà tảo lục hấp phụ rất tốt. Theo tính toán của các nhà khoa học (Vôrônôva, Lyăcnôvich, Astapôvich 1978) vai trò phân huỷ chất hữu cơ của vi khuẩn càng tăng trong những ao nuôi cá dày có bón phân và cho ăn thức ăn tinh. Trong 150 ngày đêm ở những ao như thế, vi khuẩn đã tái tạo được 131 kg nitơ và 8 kg phôtpho cho 1 hecta m ặt nước (một con số thật không nhỏ !). Sau khi vi khuẩn chết, chúng bị phân huỷ, vô cơ hoá và một lần nữa lại tham gia vào chu trình sinh vật biến đổi vật chất. 2.Ịỉ . Tà o , những sinh vật thức ản c ự c KỲ QUAN TRỌNG TRONG v ự c NƯỎC 2.2.1. Tâm quan trọn g Tảo là nhóm sinh vật thức ăn cực kỳ quan trọng của bất kỳ vực nước nào ; chúng là nguồn chủ yếu tạo ra chất hữu cơ trong các vực nước. Trong nước ngọt có 7 ngành tảo : tảo khuê, tảo lục, tảo lam, tảo mát, tảo giáp, tảo vàng và tảo vàng ánh. Ba ngành tảo nêu ra đầu theo thứ tự là phong phú về 16 số lượng và đa dạng nhất về thành phần loài. Tuy tảo có kích thước hiển vi nhưng ta vẫn "nhìn" thấy chúng trong nước qua màu sắc của cơ thể. Tbàn bộ chu trình sống của tảo đều ở trong nước, chúng là những sinh vật ở nước điển hình. Phần lớn tảo sống trôi nổi, chúng được mang một tên chung là tảo phù du (còn gọi là thực vật phù du, phytoplankton) ; một số lại chọn cách sống bám ở đáy và ở các giá thể khác, được gọi tên là tảo đáy (phytobenthos) (hình 1) Hình 1. Một sđ đại diện của‘ tảo phù du 1. Anabaena ; 2. Aphanizomenon ; 3. Microcystis , 4. Melosira ; 5. Pediastrum Xét về mặt tiến hoá của thể giới sinh vật thì họ hàng nhà tảo - nhất là tảo lam, là những sính vật co' diệp lục cổ xiía của trái- đất. Với bước nhảy vọt vỉ đại đầu tiên từ quang hợp kỵ khỉ (của vi khuẩn) đến quang hợp hiếu khí (của thực vật nói chung), tảo là những sinh 17 vật đ'âu tiên thải ra ôxi trên hành tinh. Nhờ có diệp lục và hàng loạt sác tố khác, với nguồn năng lượng bền vững và vô tận do ánh sáng mặt trời cung cấp, tảo có khả năng quang hợp để biến các chất vô cơ có trong nước thành chất hữu cơ của cơ thể. ___ Tào sinh sản nhanh với tốc độ kỷ lục ! Trong 3 giờ, tảo lục Chlorella nước ngọt có khả năng tăng trọng gấp đôi (trong khi đó muốn thế đậu tương phải cần đến hai tuần, nghỉa là tốỊỊ thời gian gấp hơn 300 lần). Một cá thể tảo khuê có thể sinh ra một thế hệ đông 100 triệu cá thể trong vòng một tháng ! Nhờ khả năng sinh sản lớn của tảo với những năng suất không ngờ và công suất của những "nhà máy tổng hợp prôtêin" này rất cao mà tảo sống trong nước với m ật độ đông đúc. Th không ngạc nhiên khi trong 1 ml nước có thể có đến 1300 triệu cá thể tảo, hoặc năng suất của tảo ở một hồ chứa nước bình thường cũng có thể đạt 2 - 3 tấn/ha/năm, một lít nước ao nuôi cá của ta cũng thường có hàng trăm triệu cá thể tảo. Tuy nhiên, để giữ cân bằng hệ sinh thái, tảo vừa luôn luôn sinh sản vừa chết đi và bị động vật ăn. v ì thế việc tảo cd phong phú trong nước chỉ mới nói đến một phần vai trò to lớn của chúng về mặt thức ăn cho cả và các động vật khác ở nước. Tầo có khả năng tổng hợp trong cơ thể mình một sinh khối cđ giátrị dinh dưỡng cao khi có đủ các muối dinh dưỡng cần thiết, ỏ tảo hầu như không có phần nào của cơ thể là không được sử dụng, mồ đa bào chỉ có với lượng khồng đáng kể (9-10%). Lượng prôtêin của tảo có khoảng 30 - 60% trọng lượng 18 Ị khô (lúa, gạo, ngô ... chỉ có 10 - 15%). Đạm có trong cơ thể tảo với khá đầy đủ những axít amin quan trọng và thường được các loại động vật tiêu hoá từ 60 - 80%, nghĩa là hơn hẳn nhiều loại thức ăn thực vật khác. Lượng lypit ở tảo có thể có 20 - 35% trọng lượng khô ; đây là loại "mỡ thực vật" có giá trị tiêu hoá cao. ỏ tảo, lượng hyđrat cacbon thường có từ 20 - 40%, bao gồm những loại đường kép dễ tan và động vật dễ hấp thụ. Nhiều tảo phù du tuy có chứa ít đạm và mỡ nhưng lại co' nhiều đường hơn so với động vật phù du. Tỷ lệ prôtêin (đạm : vô đạm) ở tảo rộng rãi hơn, nghĩa là các chất đạm có trong tảo tương đối ít, còn các chất vô đạm lại nhiều hơn so với các cơ thể động vật. Trong các ao ương vào đầu vụ ta thường gặp Spirogyra, một loại tảo lục dạng sợi. Tío này có chứa 17,75% prôtit 15,9% lypít ; 16% gluxit ; trong các yếu tố khoáng có p, Ca, K và Fe. Chính nhờ có giá trị dinh dưỡng cao như vậy mà tảo đã cung cấp cho cá và các động vật ở nước một nhiệt lượng khá lớn (bảng 1) Bảng 1. Nhiệt lượng của 100 gam chất hữu cơ tảo thuộc ba ngành tảo chính ở nước ngạt (theo GK Barascôp) lầo Prôtit % Gluxit % Lypit % Nhiệt lượng, calo Tto lục Tầo lam Tâo khuê 45 30 40 43 64 30 12 6 30 472 441 525 19 Một điều đặc biệt lý thú khác là những năm gần đây trong khi ngành chăn nuối của nông nghiệp săn lùng nhiều nguồn nguyên liệu để tìm ra vitamin bổ sung cho thức ăn của gia súc và gia cầm thì nghề nuôi cá đã cố tào - nhất là tảo đơn bào, vì chúng cho sinh khối cao và có chứa vitamin c, E, carôtin (tiền vitamin A), nhiều clorôphyn, những nhổm phytophyn mà từ đố cung cấp cho cá và các động vật khác ở nước vitamin K. Những loại tảo dạng sợi ỡ nước ngọt có đủ các loại vitamin quan trọng : Bi, pp, carôtin và c. Khi nái đến nguồn vitamin của tảo người ta thường so sánh chúng với chánh, cam, mận, táo, bắp cải, cà rốt. Các chuyên gia nổi tiếng về nuôi cá đã cho rằng tảo đơn bào chính là nguồn vitamin tự nhiên cho cá nuôi trong ao, nhất là khi ao cđ "hoa nước" của những tảo này. Còn tảo sợi nếu duy trì chúng phát triển với m ật độ vừa phải để không cản trở hoạt động bơi lội của cá con ; chúng sẽ là nơi cư trú của ấu trung muỗi, giun, ấu trùng côn trùng... làm thức ãn cho cá. Ngoài ra, nếu chúng ta không quên tảo sợi cđ tương đối ít mô đa bào (Spirogyra chỉ có với 7,8% trọng lượng khô) thì đấy chính là thức ăn tốt của cá chép và cá trám cỏ. Kết luận về việc sử dụng tảo vào mục đích này là muốn cd vitamin c và carôtin nên dùng tảo sợi tươi, còn muốn có các vitamin nhóm B nên dùng tảo sợi khô cho cá ãn. Với những lý lẽ trên, tảo thuộc nhóm sinh vật thức ăn quan trọng vào bậc nhất trong vực nước, là thành phần thức ăn cơ bản của tất cả các loại vực nước. Tầo là nguồn thức ăn vô tận để thu đượcprôtit, vitamin và các chất dinh dưỡng khác. Hiện nay ở ta, với việc sản 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
147