Đề tài: Tác động của việc điều hành lãi
suất của NHTW hiện nay tới huy động
vốn của các doanh nghiệp VN
Các thành viên:
1. Đào Thị Khánh Hòa CQ528275
2. Phạm Phương Thảo CQ 528672
3. Nguyễn Đình Nam CQ532572
4. Nguyễn Thị Thùy Dung CQ528113
5. Nguyễn Thị Kim Chi CQ528070
6. Hà Thị Dung CQ510650
7. Nguyễn Thị Mai Anh CQ530106
8. Nguyễn Ngọc Sơn Tùng CQ511056
9. Nguyễn Thị Hoài Thương CQ535066
10. Phạm Thị Thu Trang CQ535031
1
1.1. Tổng quan vốn
1.1.1 Khái niệm vốn
Theo sự phát triển của lịch sử, các quan điểm về vốn xuất hiện và ngày
càng hoàn thiện, tiêu biểu có các cách hiểu về vốn như sau của một số nhà kinh tế
học thuộc các trường phái kinh tế khác nhau.
Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ
phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng
khoán của công ty. Như vậy, các nhà tài chính đã chú ý đến mặt tài chính của vốn,
làm rõ được nguồn vốn cơ bản của doanh nghiệp đồng thời cho các nhà đầu tư thấy
được lợi ích của việc đầu tư, khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào mở rộng và
phát triển sản xuất.
Theo khái niệm trong giáo trình Tài chính doanh nghiệp của Trường Đại
học Kinh tế quốc dân thì khái niệm về vốn được chia thành hai phần: Tư bản
(Capital) là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Vốn được quan tâm đến khía cạnh giá
trị nào đó của nó mà thôi. Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm . Vốn được nhà doanh nghiệp dùng để đầu tư
vào tài sản của mình. Nguồn vốn là những nguồn được huy động từ đâu. Tài sản
thể hiện quyết định đầu tư của nhà doanh nghiệp; Còn về bảng cân đối phản ánh
tổng dự trữ của bản thân doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp có dự trữ tiền để mua
hàng hoá và dịch vụ rồi sản xuất và chuyển hoá, dịch vụ đó thàng sản phẩm cuối
cùng cho đến khi dự trữ hàng hoá hoặc tiền thay đổi đó sẽ có một dòng tiền hay
hàng hoá đi ra đó là hiện tượng xuất quỹ, còn khi xuất hàng hoá ra thì doanh
nghiệp sẽ thu về dòng tiền (phản ánh nhập quỹ và biểu hiện cân đối của doanh
nghiệp là ngân quỹ làm cân đối dòng tiền trong doanh nghiệp).
Một số quan niệm về vốn ở trên tiếp cận dưới những góc độ nghiên cứu
khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Vì vây, để đáp ứng đầy đủ yêu
cầu về hạch toán và quản lý vốn trong cơ chế thị trường hiện nay, có thể khái quát
vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng vật chất và tài sản chính được các cá
nhân, tổ chức bỏ ra để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận.
2
1.1.2 Các đặc trưng cơ bản của vốn
Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định. Có nghĩa là vốn được biểu
hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh.
Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhât định mới có thể phát huy
tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Vốn có giá trị về mặt thời gian. Điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư
và tính hiệu quả sử dụng của đồng vốn.
Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và
không có ai quản lý.
Vốn được quan niệm như một hàng hóa và là một hàng hoá đặc biệt có thể mua
bán quyền sử dụng vốn trên thị trường vốn, thị trường tài chính.
Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình ( bằng phát minh
sáng chế, các bí quyết công nghệ, vị trí kinh doanh, lợi thế trong sản xuất …)
1.1.3 Phân loại vốn.
1.1.3.1 Căn cứ theo nguồn hình thành vốn.
Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu là số vốn góp do chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số
vốn này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán,
không phải trả lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do kinh doanh có lãi của
doanh nghiệp đẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp cho mình. Tuỳ
theo loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức
khác nhau. Thông thường nguồn vốn này bao gồm vốn góp và lãi chưa phân phối.
Vốn vay:
3
Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn
đi vay, đi chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị cá nhân và sau một thời gian nhất
định, doanh nghiệp phải hoàn trả cho nguời cho vay cả lãi và gốc. Phần vốn này
doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định (như thời gian sử dụng,
lãi suất, thế chấp...) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay
có hai loại là vốn vay ngắn hạn và vốn vay dài hạn.
1.1.3.2 Căn cứ theo thời gian huy động vốn.
Vốn thường xuyên.
Vốn thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định và dái hạn mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vao ftài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu
động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động doanh nghiệp. Nguồn vốn này
bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
Vốn tạm thời.
Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh số
có thể sử dụng để đap sứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm
các khoản vay ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của bạn hàng.
1.1.3.3 Căn cứ theo công dụng kinh tế của vốn.
Vốn cố định.
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận đầu tư ứng trước về tài sản cố
định và tài sản đầu tư cơ bản, mà đặc điểm luân chuyển từng phần trong nhiều chu
kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết
thời gian sử dụng.
Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định nhưng các
đặc điểm của tài sản cố định lại ảnh hưởng đến sự vận động và công tác quản lý cố
định. Muốn quản lý vốn cố định một cách hiệu quả thì phải quản lý sử dụng tài sản
cố định một cách hữu hiệu.
4
Để quản lý chặt chẽ, hữu hiệu tài sản cố định, có thể phân loại tài sản cố
định theo các tiêu thức sau:
Vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và
tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được
thực hiện thường xuyên liên tục.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn, thường xuyên luân chuyển
trong quá trình kinh doanh. Tài sản lưu động tồn tại dưới dạng dự trữ sản xuất
(nguyên vật liệu, bán thành phẩm, công cụ, dụng cụ... ) sản phẩm đang trong quá
trình sản xuất (sản phẩm dở dang), thành phẩm, chi phí tiêu thụ, tiền mặt... trong
giai đoạn lưu thông. Trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu
động chủ yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có thanh
khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn kho.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Vì vậy, quản lý và sử
dụng vốn lưu động hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc hoàn thành nhiệm
vụ chung của doanh nghiệp, trong đó có công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để quản lý vốn lưu động có hiệu quả, cần tiến hành phân loại vốn lưu động:
5
Nhận xét: Mỗi cách phân loại cho ta hiểu rõ thêm về vốn theo từng khía cạnh.
Mỗi loại vốn đều có ưu nhược điểm riêng đòi hỏi phải được quản lý sử dụng hợp lý
và chặt chẽ. Đồng thời, mỗi loại vốn sẽ phát huy tác dụng trong những điều kiện
khác nhau, trong một cơ cấu vốn thích hợp.
1.1.4 Vai trò của vốn.
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng cần
phải có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển
của các doanh nghiêp.
Về mặt pháp lý: mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên
doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định ( lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng
6
loại hình doanh nghiệp ) khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập.
Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp
trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện
mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá
sản, giải thể, sát nhập…Như vậy, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở
quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp
trước pháp luật.
Về kinh tế: trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không những đảm
bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ để phục vụ cho quá
trình sản xuất mà mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
thường xuyên, liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này
càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng
ngay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư
hiện đại hoá công nghệ … Tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi
doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản suất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh,
vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm
bảo vốn của doanh nghiệp tiếp tục mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có
thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
1.2 Các hình thức huy động vốn qua công cụ nợ
1.2.1 Khái quát huy động vốn qua công cụ nợ
7
Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ
nhiều nguồn khác nhau. Huy động vốn là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp.
Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác
là các ràng buộc khác nhau như:
+ Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy
động vốn phải chịu sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy
động tối đa có thể (Luật DNNN).
+ Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói
riêng sẽ là những điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho
doanh nghiệp.
+ Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng
vốn cần thiết huy động của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực
hiện huy động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp.
1.2.2 Phát hành trái phiếu:
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát
hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và
bán cho công chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh
nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh
doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm
soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp
lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi
phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của
ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản
cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh
8
nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái
phiếu.
1.2.3 Tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, biểu
hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Để thanh toán hoặc đòi tiền lẫn nhau,
các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu
nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ này, nếu còn giá trị, đều có thể chuyển
nhượng lại.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nợ một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa
vụ phải thanh toán nợ của người mua. Giấy nợ trong quan hệ tín dụng thương mại
được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh
phiếu.
Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ
trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người hưởng
thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.
Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một số
tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại:
- Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng không
chuyển nhượng cho người khác.
• Ưu nhược điểm của tín dụng thương mại:
Ưu điểm :
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh
nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt
9
đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời
giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.
Tiện dụng: Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh
nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Tính linh hoạt: tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết,
uy tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp
phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ
chiết khấu thương phiếu.
Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại.
Nhược điểm :
Tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có
thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần
đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc bán ra.
Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực hiện được
giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau.
Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh cung
cấp, vì vậy qui mô tín dụng chỉ được giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ
có. Nếu doanh nghiệp vay vốn có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không
thể đáp ứng được.
Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không
phù hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp
không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại
không thể xảy ra.
Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.
10
1.2.4 Thuê tài sản
Thuê tài sản có hai hình thức:
Thuê tài chính: là hình thức tín dụng trung và dài hạn theo đó bên đi thuê xác
định tài sản cần dùng và ký hợp đồng với bên cho thuê tài sản
Thuê vận hành: một hoạt động thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê
và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu
đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền
lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê. (Điều 1- Nghị định 16)
Trong một giao dịch thuê, về pháp lý, bên cho thuê có quyền sở hữu tài sản, bên
thuê không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian thuê.
Có nhiều lý do khiến việc lựa chọn hình thức thuê tài sản ngày càng trở nên phổ
biến, trong đó lý do chủ yếu là lợi ích có thể mang lại từ việc thuê tài sản. Cụ thể:
Đối với bên thuê: khi mua một tài sản, người sử dụng phải đối đầu với rủi ro do
sự lạc hậu của tài sản. Thuê là một cách để giảm hoặc tránh rủi ro này, bên cho
thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ phải gánh chịu rủi ro về sự lạc hậu của tài sản. Với các
hợp đồng thuê tài sản huỷ ngang, bên thuê có thể thay đổi tài sản một cách dễ dàng
hơn so với việc sở hữu tài sản. Bên thuê cũng được hưởng một khoản lợi từ thuế so
với việc vay để mua hoặc mua trả chậm, vì chi phí thuê (gồm khấu hao và lãi)
được tính toàn bộ vào chi phí trước khi xác định lợi nhuận chịu thuế, vì vậy chi phí
thực tế mà bên thuê chịu là chi phí thuê sau khi khấu trừ phần giảm thuế. Trong khi
đó, nếu đi vay để mua hoặc mua trả chậm, thuế chỉ được tính giảm trên chi phí lãi,
phần nợ gốc không được khấu trừ thuế. Ngoài ra, khi thuê tài sản, bên thuê sẽ có
được tài sản sử dụng trong điều kiện hạn hẹp về ngân quỹ, không có tiền để mua
tài sản hoặc không có vốn đối ứng cho các hợp đồng vay để mua tài sản; Hoặc khi
công ty có tài sản cố định nhưng thiếu tiền để mua nguyên vật liệu, thanh toán
lương, … thì cũng có thể thực hiện giao dịch “Bán rồi thuê lại”.
Đối với bên cho thuê: trong suốt thời hạn cho thuê, bên cho thuê vẫn có quyền
sở hữu pháp lý đối với tài sản, do đó bên cho thuê có quyền lấy lại tài sản nếu xét
11
thấy bên thuê có biểu hiện vi phạm hợp đồng. Mặt khác, trong trường hợp bên thuê
lâm vào tình trạng phá sản thì tài sản thuê vẫn không bị phát mãi mà vẫn bảo đảm
quyền sở hữu hợp pháp của bên cho thuê đối với tài sản này.
Ưu nhược điểm của hình thức tín dụng này:
Ưu điểm :
Cho thuê tài chính cho phép bạn sử dụng linh hoạt đồng vốn của mình vào mục
đích khác, nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì phải đầu tư vốn để mua tài sản
cố định, giúp bạn tận dụng được cơ hội kinh doanh.
Sử dụng cho thuê tài chính sẽ không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của
doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng.
Cho thuê tài chính có phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt phù hợp với
chu chuyển vốn của doanh nghiệp.
Phí thuê tài chính được hạch toán vào giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp
giảm nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước.
Sử dụng tài sản thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.
Cho thuê tài chính giúp bạn có nhiều cơ hội chủ động trong lựa chọn thiết bị, dễ
dàng đổi mới công nghệ, tiếp cận và sử dụng những máy móc, thiết bị hiện đại
nhất.., từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tận dụng được cơ hội
kinh doanh.
Nhược điểm :
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ
biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 11 năm có mặt, thị
trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 12 công ty được thành lập dưới các hình
thức sở hữu khác nhau.
12
Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (thường là trên 1.000 tỉ
đồng). Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại
hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì:
Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài sản còn hạn
chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu.
Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc
các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ
biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20%
hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài
chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp
tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch
vụ cho thuê tài chính mang lại...
Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay
còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến
hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng
số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân
hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận
hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.
Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy
định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn
điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn.
Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5
triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp.
Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài
chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê
tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính.
13
1.2.5 tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng cho phép các tổ chức, cá nhân sử dụng
một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có
hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bao thanh toán, bão lãnh ngân hàng,
cho thuê tài chính và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới
các hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương
mại. Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với
hình thức này có ưu và nhược điểm
Ưu điểm:
Có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh
nghiệp cùng thamg gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh
nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt
nghèo.
Không làm thay đổi cơ cấu cổ đông
Tạo ra tiết kiệm thuế cho doanh nghiệp.
Nhược điểm
Thủ tục vay vốn phức tạp, rườm rà mất nhiều thời gian vay vốn
Áp lực phải trả lãi cho các khoản vay của Ngân hàng
Bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong thời gian cho vay.
1.3. Khái niệm lãi suất
1.3.1 Khái niệm
Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu
của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
14
1.3.2. Các loại lãi suất thường thấy
a. Lãi suất tiền gửi: là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người
đi vay.
b. Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của ngân hàng.
c. Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng làm cơ sở ổn định mức
lãi suất kinh doanh của mình.
d. Lãi suất trên thị trường mở OMO: là lãi suất mà NHNN bơm vốn cho
các NHTM trên thị trường mở. đây là dạng lãi suất cho vay nóng vì vậy giá
trị % cao nhất so với lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu
e. Lãi suất tái cấp vốn: NHTM huy động vốn từ khách hàng, đến hạn
phải trả nhưng ko đủ tiền, đành phải đi vay lại từ NHNN với ls cao để thanh
toán đúng hẹn với khách.
f. Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất mà NHTM mua lại giấy tờ có giá như
trái phiếu chưa đến hạn với giá chiết khấu.
g. Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất ưu đãi (thấp hơn) dành cho các
NHTM đang năm giữ trái phiếu của NHNN.
h. Lãi suất liên ngân hàng (lãi suất qua đêm): là lãi suất vay mượn lẫn
nhau giữa các ngân hàng, thông qua thị trường liên ngân hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
15
1.4.1 Ảnh hưởng của cung cầu quỹ cho vay
+ Cung quỹ cho vay là nhu cầu vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ
thể khác nhau trong xã hội (từ tiền gửi tiết kiệm của hộ gđ, vốn tạm thời nhàn
rỗi của DN or chủ thể nc ngoài, khoản thu chưa sd từ NSNN)
+ Cầu quỹ cho vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất hoặc tiêu dùng của
các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế (hộ gđ vay sx, td, DN vay mở rộng sx,
CP vay bù đắp thâm hụt..)
+ Vậy ảnh hưởng như thế nào đến lãi suất?
*Khi cầu quỹ cho vay thay đổi => ls thay đổi (cùng chiều)
Mà nhân tố ảnh hưởng đến cầu quỹ vay là: tỷ suất lợi tức dự tính, lạm phát
dự tính, bội chi ngân sách
*Tương tự, khi cung quỹ cho vay thay đổi => ls thay đổi (ngược chiều)
Mà nhân tố ảnh hưởng đến cung quỹ cho vay: tài sản & thu nhập, tỷ suất lợi
nhuận dự tính từ việc gửi tiền vào ngân hàng, tính lỏng của các NH…
1.4.2 Lạm phát dự tính
16
Như ta đã biết, chi phí thực của việc vay tiền được đo 1 cách chính xác
hơn bằng lãi suất thực (= lãi suất danh nghĩa - lạm phát dự tính). Khi lạm
phát dự tính tăng thì lãi suất danh nghĩa phải tăng theo để đảm bảo lãi suất
thực không âm
Do đó 1 lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện
việc vay tiền giảm xuống => cầu tiền vay tăng lên => lãi suất cho vay tăng.
Mặt khác khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của những
khoản tiền gửi giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển vốn tiền tệ
vào 1 thị trường khác như tt bất động sản hay lập tức dự trữ hàng hóa, vàng
bạc… Kết quả lương cung tư bản cho vay giảm đối với bất kì lãi suất nào cho
trước => lãi suất huy động tăng.
1.4.3 Hoạt động thu chi của Nhà nước
NSNN vừa là nguồn cung tiền vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân
hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu chi ngân sách nhà nước là 1 trong những
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất.
Xét đến 2 trường hợp chủ yếu là bội chi ngân sách và sự thay đổi về thuế
Bội chi Ngân sách:
Bội chi ngân sách của NHTW se trực tiếp làm cho cầu quỹ cho vay tăng
làm tăng lãi suất
Bội chi ngân sách cũng tác động đến tâm lý dân chúng về mức gia tăng
lạm phát gây ra áp lực tăng lãi suất
Về phía chính phủ, khi bội chi NSNN thì chính phủ thường gia tăng phát
hành trái phiếu, tức là chính phủ đi vay từ ng dân. Như vậy lượng tiền trong
dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất
Về phía các NHTM, khi xảy ra bội chi NS, NHTW sẽ huy động vốn từ
các NHTM bằng cách tăng tỉ lệ dữ trữ. Các NHTM lại thiếu vốn, cầu huy
động vốn tăng => ls tăng.
Sự thay đổi về thuế
Thuế thu nhập cá nhân và thuế doanh nghiệp luôn tác động đến lợi nhuận
của họ. khi thuế thu nhập cá nhân tăng lên, số lượng tiền dành cho chi tiêu và
17
tiết kiệm có xu hướng giảm. tức là ảnh hưởng đến cung quỹ cho vay => lãi
suất huy động tăng.
Khi thuế thu nhập doanh nghiệp tăng => nó sẽ điều tiết bớt 1 phần thu
nhập cá nhân của doanh nghiệp làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, kinh doanh
chức khoán. Các DN tăng cầu vay vốn để hoạt động kd trong khu vực phi sản
xuất hoặc sản xuất đều tăng lên => ls cho vay tăng
1.4.4 Lượng tiền cung ứng
Qua phân tích trên cho thấy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
nhưng nhân tố ảnh hướng lớn và nhạy cảm với lãi suất nhất là lượng tiền
cung ứng.
Một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng gây ra 4 tác động đối với lãi
suất: tác dụng tính lỏng, tác dụng tính thu nhập, tác dụng mức giá, tác dụng
lạm phát dự tính
- Tác dụng tính lỏng cho biết 1 sự tăng lên của lượng tiền cung ứng sẽ
làm giảm nhẹ lãi suất, bởi vì đường cung tiền sẽ dịch chuyển sang phải.
- Tác dụng thu nhập chỉ ra rằng do tăng lượng tiền cung ứng sẽ có ảnh
hưởng tốt đến nền kt, sẽ làm tăng thu nhập khi đó lãi suất sẽ tăng lên. Vì
đường cầu tiền lúc này sẽ dịch chuyển sang phải.
- Tác dụng mức giá cho biết 1 sự tăng lượng tiền cung ứng sẽ làm mức
giá chung tăng lên => lãi suất cân bằng tăng
- Tác dụng lạm phát dự tính: sự tăng lên lượng tiền cung ứng sẽ làm
dân chúng dự tính 1 mức lạm phát cao hơn trong tương lai => ls tăng lên.
Vì vậy 1 sự tăng lượng tiền cung ứng dẫn đến việc tăng lãi suất trong
dài hạn.
1.4.5 Những thay đổi trong đời sống xã hội (nhân tố khách quan)
Ngoài những yếu tổ kể trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu tác động
của những thay đổi trong đời sống xã hội. ví dụ như sự phát triển của thị
trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng. Khi càng có nhiều tổ
chức tài chính ra đời, tính cạnh tranh sẽ cao hơn, gây tác động đến lãi suất.
Thêm nữa, tình hình về kinh tế, chính trị cũng như biến động tài chính
quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng
vốn đầu tư ra vào đối với các nước đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi lãi
suất của nước khác.
18
2.
Tác động của chính sách lãi suất của NHTW đến huy động vốn từ tín
dụng ngân hàng của doanh nghiệp.
2.1
Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW từ năm 2008 đến nay.
+ Năm 2008:
Kinh tế trong nước tăng trưởng quá nóng, lạm phát tăng cao. Diễn biến lãi
suất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi suất của các ngân
hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua
giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn.
Để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số
187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu
thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng
trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định,
Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao
gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời
gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu
Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức
tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng.
Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền
đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền
đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân
hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%,mặt bằng lãi suất cho vay của
các NHTM trên thị trường đã có những biến động bất thường và gây ra nhiều xáo
trộn trong nền kinh tế, trong đó khu vực doanh nghiệp là nơi chịu nhiều ảnh hưởng
nhất. Trong thời gian này lãi suất tiền gửi được đẩy lên liên tục, cao nhất là 1920%/năm. Theo đó lãi suất cho vay được đẩy lên đúng bằng lãi suất tối đa,
21%/năm. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy
động. Điều này dẫn đến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn, lãi
suất cho vay quá cao, nhiều doanh nghiệp phá sản, thiếu vốn kinh doanh phải đóng
cửa họa động
19
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động
là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc
đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh
trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN
về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các
tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay)
bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN
ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt
động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết
hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp
với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động
12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu
lực.
+ Năm 2009:
Bước sang năm 2009, mục tiêu của chính sách tiền tệ chuyển sang hướng
ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô. Trong tổng thể năm 2009, mặt bằng lãi
suất nhìn chung không biến động nhiều. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã giảm
lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam từ 8.5% xuống còn 7% (lãi suất cho vay tối đa
là 10.5%), lãi suất tái cấp vốn từ 9.5% xuống còn 5%/ năm. Bên cạnh đó, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam còn thực hiện gói giải pháp kích cầu trong đó có chính
sách hỗ trợ lãi suất.Từ đó, đã góp phần ngăn chặn được sự suy thoái của kinh tế
Việt Nam.
+ Năm 2010
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng
như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong
giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009.
Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở
mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong
hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.
20
- Xem thêm -