Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía...

Tài liệu Sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía bắc

.DOC
160
92
71

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................5 CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CÔNG TRONG GIẢM NGHÈO VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ........................9 1.1. Nghèo và vai trò của Nhà nước trong cuộc đấu tranh giảm nghèo...............9 1.1.1. Nhận thức chung về nghèo.....................................................................9 1.1.1.1. Các khái niệm và thước đo vềề nghèo................................................................................9 1.1.1.2. Chuẩn nghèo đói ở Việt Nam..........................................................................................13 1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến nghèo.................................................................16 1.1.3. Nhà nước với công cuộc chống nghèo..................................................17 1.1.3.1. Vai trò của nhà nước trong nềền kinh tềế th ị tr ường. ........................................................17 1.1.3.2. Các biện pháp nhà nước sử dụng để chốếng nghèo. ........................................................20 1.2. Sử dụng công cụ tài chính công để giảm nghèo..........................................22 1.2.1. Quan niệm về sử dụng công cụ tài chính công.....................................22 1.2.1.1. Chi Ngân sách nhà nước.................................................................................................23 1.2.1.2. Các quỹỹ tài chính cống ngoài ngân sách..........................................................................25 1.2.1.3. Tín dụng nhà nước..........................................................................................................29 1.2.2. Vai trò, tác động của công cụ tài chính công với giảm nghèo..............31 1.2.2.1. Vai trò của chi NSNN đốếi với mục tều giảm nghèo .........................................................31 1.2.2.2. Vai trò của tn dụng nhà nước với m ục tều giảm nghèo ................................................33 1.2.2.3. Vai trò của bảo hiểm cho người nghèo...........................................................................36 1.3. Kinh nghiệm sử dụng công cụ tài chính công cho công cuộc giảm nghèo của các nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam..........................................38 1.3.1. Kinh nghiệm của Ấn Độ.......................................................................38 1.3.2. Kinh ngiệm của Trung Quốc.................................................................45 1.3.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản...................................................................54 1.3.4. Bài học chính sách cho Việt Nam.........................................................59 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CÔNG NHẰM THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY..........................................65 1 2.1. Thực trạng nghèo đói ở các tỉnh Miền núi phía Bắc...................................65 2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới tình trạng nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc...........................................................................................65 2.1.1.1. Đặc điểm địa lý, điềều kiện tự nhiền, tnh hình dân sốế và lao đ ộng ..................................65 2.1.1.3. Ảnh hưởng của điềều kiện tự nhiền và kinh tềế - xã h ội đềến nghèo đói: ............................68 2.1.2. Tình trạng nghèo đói ở các tỉnh Miền núi phía Bắc..............................69 2.2. Tình hình sử dụng các công cụ tài chính công............................................85 2.2.1. Cơ sở pháp lý trong sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo......................................................................................................85 2.2.2. Thực trạng chi ngân sách trong giảm nghèo ở các tỉnh MNPB............87 2.2.2.1. Vềề chi đâều tư...................................................................................................................88 2.2.2.2. Chi chương trình mục tều quốếc gia..............................................................................102 2.2.3. Bảo hiểm với người nghèo..................................................................106 2.2.3.1. Bảo hiểm ỹ tềế cho người nghèo....................................................................................106 2.2.3.2. Vềề trợ câếp hưu trí..........................................................................................................116 2.2.3.3. Vềề các sản phẩm bảo hiểm...........................................................................................117 2.2.3.4. An sinh xã hội cho người nghèo....................................................................................118 2.2.4. Tín dụng nhà nước..............................................................................118 CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CÔNG THÚC ĐẨY CÔNG CUỘC GIẢM NGHÈO Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC.....................................................................................................................126 3.1. Chiến lược giảm nghèo trong phát triển kinh tế của Việt Nam:...............126 3.2. Định hướng và quan điểm sử dụng công cụ tài chính công nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam.....................................................................131 3.2.1. Những định hướng sử dụng công cụ TCC nhằm mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam.......................................................................................................131 3.2.1.1. Định hướng chính sách.................................................................................................131 3.2.1.2. Tạo mối trường kinh doanh bình đ ẳng.........................................................................132 3.2.1.3 Duỹ trì sự ổn định kinh tềế vĩ mố.....................................................................................133 3.2.1.4. Cải cách hành chính......................................................................................................134 2 3.2.2. Quan điểm sử dụng công cụ TCC nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam....................................................................................................134 3.2.2.1. Quan điểm tềếp cận vâến đềề nghèo đói và xoá đói, giảm nghèo .....................................134 3.2.2.2. Quan điểm phát triển hệ thốếng ASXH...........................................................................135 3.2.2.3. Quan điểm câền quán triệt trong s ử dụng các cống c ụ tài chính cống ...........................136 3.3. Các giải pháp sử dụng công cụ tài chính công để giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc.............................................................................................137 3.3.1. Chính sách chi ngân sách....................................................................137 3.3.1.1. Vềề phân bổ chi ngân sách..............................................................................................137 3.3.1.2. Vềề cơ chềế sử dụng nguốền vốến.......................................................................................138 3.3.1.3. Vềề cơ chềế kiểm tra, giám sát chi ngân sách...................................................................139 3.3.1.4. Giải pháp đốếi với chương trình mục tều quốếc gia........................................................140 3.3.1.5. Giải pháp đốếi với nguốền vốến ODA.................................................................................141 3.3.2. Chính sách bảo hiểm trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam...............................................................................................................142 3.3.2.1. BHYT cho người nghèo.................................................................................................142 3.3.2.2. Trợ câếp hưu trí..............................................................................................................144 3.3.2.3. Nguốền tài chính của Nhà nước.....................................................................................145 3.3.2.4. Cải thiện hệ thốếng bảo hiểm sản xuâết và b ảo trợ xã h ội ...............................................146 3.3.3. Chính sách TDNN trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam...............................................................................................................148 3.3.3.1. Vềề huỹ động nguốền vốến tn dụng..................................................................................149 3.3.3.2. Vềề tăng trưởng dư nợ cho vaỹ XĐGN............................................................................151 3.3.3.3. Vềề nâng cao châết lượng tn dụng đốếi với ng ười nghèo.................................................151 3.3.3.4. Vềề cơ chềế cho vaỹ TDNN...............................................................................................152 3.3.4. Các giải pháp khác..............................................................................152 3.3.5. Giảm nghèo hướng tới đối tượng là trẻ em.........................................154 3.4. Điều kiện thực hiện giải pháp....................................................................156 3.4.1. Về hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật..................................156 3.4.1.1. Sửa đổi, bổ sung các văn bản đã ban hành...................................................................156 3.4.1.2. Ban hành các văn bản mới............................................................................................157 3.4.2. Về nguồn lực tài chính........................................................................157 3 3.4.3. Về tổ chức thực hiện...........................................................................158 KẾT LUẬN..........................................................................................................159 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Luận án Trong hơn 20 năm qua, quá trình đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở Việt Nam. Tuy nhiên người nghèo vẫn còn rất nhiều và giúp họ thoát nghèo là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Xóa đói giảm nghèo (XĐGN) là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội để họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. XĐGN được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Phát triển kinh tế phải đồng thời với XĐGN, nếu XĐGN không được giải quyết một cách vững chắc thì không một mục tiêu nào về phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, ổn định xã hội, bảo đảm quyền con người... được thực hiện. Giảm nghèo là góp phần giảm khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các tầng lớp dân cư, giảm nghèo chính là góp phần vào thúc đẩy quá trình hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá; giảm nghèo còn góp phần giữ vững và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Trên bước đường phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới, Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Trong việc thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có nhiều công cụ chính sách khác nhau được sử dụng, trong đó công cụ tài chính công (TCC) được xem là công cụ tác động có hiệu quả nhất tới tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Những công trình đã nghiên cứu về xoá đói giảm nghèo không nhiều, tính từ năm 1993 đến nay có 13 luận án nghiên cứu và phạm vi, mức độ nghiên cứu cũng rất khác nhau. Một số công trình tiêu biểu, đó là: Luận án Tiến sĩ của TS. Trần Đình Đàn(2001), “Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh”; Luận án Tiến sĩ của TS. Nguyễn Trung Tăng (2002), “Tín dụng cho người nghèo và các quỹ xoá đói, giảm nghèo”; Luận án Tiến sĩ của TS. Lê Văn Bình (2009), “Quản lý Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo vùng Bắc 5 Trung Bộ và duyên hải trung Bộ trong giai đoạn hiện nay”; Luận án Tiến sĩ của TS. Nguyễn thị Hoa (2009), “Hoàn thiện chính sách xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam đến 2015" Các công trình trên đây, ở góc độ và mức độ khác nhau đã tiếp cận, nghiên cứu về các chính sách xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam; tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu cả về lý luận, thực tiễn, và đưa ra giải pháp cụ thể đối với việc sử dụng các công cụ tài chính mà cụ thể là các công cụ tài chính công đối với việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Sử dụng công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc” để nghiên cứu, thực hiện luận án tiến sĩ kinh tế. 2. Mục đích nghiên cứu của luận án Luận án tập trung vào khai thác 3 khía cạnh cơ bản sau đây - Trình bày lý luận cơ bản, tổng quan về công cụ tài chính công, làm sáng tỏ sự tồn tại tất yếu khách quan, vai trò của công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo. Tham khảo kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước phát triển trên thế giới, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình sử dụng các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam - Đánh giá thực trạng sử dụng công cụ tài chính công để giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay; qua đó làm rõ những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế, tồn tại và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế để làm căn cứ, cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp sử dụng công cụ tài chính công để giảm nghèo ở Việt Nam. - Đề xuất các quan điểm, mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, lộ trình giảm nghèo bằng việc sử dụng các công cụ tài chính công ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào công cụ tài chính công và việc sử dụng các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới; từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện việc sử dung công cụ tài chính công nhằm muc tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian tới. 6 Sử dụng các công cụ tài chính công (chính sách thuế, phí; đầu tư ngân sách; tín dụng ưu đãi; trợ cấp, trợ giá;..) là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò to lớn và nhiều mặt của Nhà nước đối với quá trình giảm nghèo trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có nhiều phân tích về nguyên nhân của thành công và không thành công xuất phát từ khía cạnh chủ quan cũng như khách quan. Chẳng hạn, sự thiếu đồng bộ trong tài trợ; sự đáp ứng không đầy đủ nguồn vốn; các hiện tượng tiêu cực; sự phối kết hợp giữa các ngành, các bộ phận chưa tốt; quản lý bất tài và yếu kém... Luận án đi vào xem xét vấn đề theo một cách tiếp cận khác, đó là xem xét tác động trực tiếp của các công cụ tài chính đến quá trình giảm nghèo, các công cụ tài chính cũng chỉ là một phương tiện tác động nhằm đạt đến một mục tiêu cụ thể là mục tiêu giảm nghèo . Do đó, nó chỉ có nghĩa là tổng thể những phương thức và những yếu tố (khách quan và chủ quan) vận hành những phương thức này nhằm phát huy những tác động tích cực của tài chính đối với quá trình giảm nghèo. Xét đến cùng, những tác động của tài chính đối với quá trình giảm nghèo chính là hệ quả của những chức năng tài chính. Cơ chế tác động của tài chính phải xuất phát từ việc nhận thức những tác động khách quan vốn có của tài chính để hoạch định và triển khai những phương thức thích hợp nhằm đạt được hiệu quả tác động tối ưu. Mỗi một công cụ tài chính công có tác động nhất định đến giảm nghèo. Ví dụ như công cụ thuế, khác với những công cụ khác, chính sách thuế, phí là những công cụ chủ yếu trong chính sách thu của Nhà nước. Thông qua chính sách thu có phân biệt theo hướng ưu đãi cho những ngành nghề, sản phẩm nằm trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà nhằm tới 2 tác động: - Tạo một lực kéo bổ (cho lực tác động của thị trường) đối với việc phân bổ nguồn lực cho các ngành nghề sản xuất - kinh doanh nhằm kiến tạo một cơ câú kinh tế theo định hướng. Lực kéo này có thể tác động trực tiếp về phía cung bằng những ưu đãi cho nhà đầu tư và cũng có thể tác động gián tiếp thông qua những ưu đãi cho người tiêu dùng để tạo nên lực kéo của cầu. - Nâng đỡ khả năng tự tích luỹ của người nghèo. Do đó, cơ chế tác động của chính sách thuế, phí nói một cách khái quát là thông qua các quyết định về đối tượng chịu thuế, phí; về phạm vi đánh thuế, thu phí; các mức thuế suất (hoặc mức phí) phân biệt đối với từng đối tượng, quy định 7 miễn giảm và các ưu đãi khác nhằm tạo động lực thúc đẩy và định hướng quá trình chuyển dịch cơ cấu tính tế (CCKT) nhằm mục tiêu giảm nghèo. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án tác giả đi vào phân tích tác động trực tiếp của một số công cụ chủ yếu có thể định lượng tác động tới kết quả giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc, công cụ chi ngân sách, tín dụng nhà nước và Bảo hiểm cho người nghèo. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án đã áp dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, lịch sử, phát triển, so sánh, đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Các phương pháp này dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 5. Những đóng góp của luận án - Trên phương diện lý luận: Hệ thống hoá, tổng quan những lý luận cơ bản về công cụ tài chính công và việc sử dung công cụ tài chính công dể giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía bắc. Phân tích và đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng sử dung các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam. - Trên phương diện thực tiễn: Đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả các công cụ tài chính công nhằm mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam thời gian tới. 6. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, danh mục các bảng và đồ thị, Luận án gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về sử dụng công cụ tài chính công trong giảm nghèo và kinh nghiệm quốc tế. Chương 2: Thực trạng sử dụng các công cụ tài chính công nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn từ năm 1990 đến nay. Chương 3: Các giải pháp sử dụng công cụ tài chính công thúc đẩy công cuộc giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. 8 CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CÔNG TRONG GIẢM NGHÈO VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 1.1. Nghèo và vai trò của Nhà nước trong cuộc đấu tranh giảm nghèo 1.1.1. Nhận thức chung về nghèo Trên thế giới, vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau với các nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Uỷ ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9 năm 2003, các quốc gia trong khu vực đó thống nhất cho rằng: "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương". Đây là khái niệm tương đối đầy đủ về nghèo đói. 1.1.1.1. Các khái niệm và thước đo về nghèo Có ba khía cạnh liên quan mật thiết với nhau để mô tả tình trạng sống của con người, bao gồm : nghèo ; bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tiêu dùng và trong các lĩnh vực khác ; tình trạng dễ bị tổn thương. Tập trung vào nghiên cứu nghèo, phần này của luận án chỉ đề cập tới sự liên quan giữa hai khía cạnh đầu. Khái niệm và thước đo nghèo: Nghèo bao gồm nhiều mặt, thay đổi tuỳ theo địa điểm, thời gian. Tuy nhiên, có những khái niệm chung dựa trên những thước đo về tình trạng nghèo khác nhau. Nghèo theo thước đo thu nhập: Một người được coi là nghèo khi mức tiêu dùng hay thu nhập của người đó thấp hơn ngưỡng tối thiểu thiết yếu để đáp ứng nhu cầu cơ bản, ngưỡng tối thiểu đó được gọi là “chuẩn nghèo”. Tuy nhiên, mức độ thiết yếu để thoả mãn nhu cầu cơ bản lại thay đổi theo thời gian và không gian. Vì vậy, chuẩn nghèo cũng thay đổi theo thời gian, địa điểm và mỗi nước sử dụng chuẩn nghèo riêng phù hợp với trình độ phát triển, các chuẩn mực và giá trị của xã hội mình. Vì vậy, có thể đưa ra hai khái niệm chung về nghèo dưới đây: Nghèo tuyệt đối : Đo lường số người có thu nhập dưới một ngưỡng nhất định hoặc một số hộ gia đình không có đủ tiền để chu cấp cho những hàng hoá và dịch vụ thiết yếu nhất định là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (ăn, mặc, nhà ở thích hợp, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường, chăm sóc y tế, giáo dục). 9 Chuẩn nghèo tuyệt đối của thế giới do Ngân hàng thế giới (WB) xác định là 1 USD và 2USD mỗi ngày mỗi người tính theo ngang giá sức mua (PPP) năm 1993. Ngưỡng 1USD/ngày/người thường được sử dụng cho các nước kém phát triển, chủ yếu là châu Phi; ngưỡng 2USD/ngày/người được dùng cho các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình như Đông Á, Mỹ Latinh1. Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định. Đo lường quy mô, theo đó một hộ gia đình được coi là nghèo nếu nguồn tài chính của họ thấp hơn một ngưỡng thu nhập được xác định là chuẩn nghèo của bình quân đầu người trong một nền kinh tế. Chẳng hạn, năm 2001, ở EU, những người được coi là nghèo khi có thu nhập ít hơn 60% mức thu nhập trung bình đầu người. Tuy nhiên, chuẩn nghèo tương đối theo cách đo như vậy trên thực tế phản ánh rất ít mức sống của con người do khi thu nhập đồng loạt tăng hoặc giảm thì tỷ lệ người nghèo vẫn không đổi mặc dù thu nhập của họ có thay đổi. Vì vậy, trong ngưỡng nghèo tương đối có pha trộn cả vấn đề phân phối thu nhập. Vì vậy trên thực tế, không có sự phân định rõ ràng giữa nghèo và giàu nên ngưỡng nguy cơ nghèo cũng hay được dùng thay cho ngưỡng nghèo tương đối. Chỉ số nghèo con người: Trong một vài thập kỷ gần đây đã xuất hiện cách tiếp cận rộng và nhiều hơn so với thước đo thu nhập đối với tình trạng nghèo của thế giới (1USD hay 2 USD mỗi ngày/người), trong đó bên cạnh chỉ tiêu thu nhập các chỉ tiêu xã hội cũng được tính đến - như cơ hội được đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật, khả năng ảnh hưởng tới những quyết định chính trị; gần đây trong “Báo cáo phát triển thế giới 2004” WB còn đưa thêm bên cạnh các yếu tố quyết định khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và lòng tự trọng. Chỉ số nghèo con người (Human Poverty Index - HPI) của Liên Hợp Quốc (UN) là một chỉ tiêu đo lường mức sống của một thước đo UN xây dựng, ngoài nhân tố thu nhập còn đưa thêm các nhân tố về mù chữ, suy dinh dưỡng của trẻ em, chết sớm, dịch vụ y tế nghèo nàn, thiếu khả năng tiếp cận với nước sạch. Đối với các nước phát triển, UN cho rằng HPI phản ánh tốt hơn so với chỉ số phát triển con người (HDI) về mức độ nghèo cùng cực. các công thức tính HPI như sau2: 1 Nguồn tài liệu : báo cáo World Bank 1995 2 Nguồn : Tài Liệu Xuất bản Liên Hợp Quốc 10 + HPI cho các nước đang phát triển (HPI-1): Đó là chỉ số tổng hợp đo lường tình trạng nghèo cùng cực theo ba khía cạnhcủa HDI - sống thọ và sống khoẻ mạnh, kiến thức và sống khá. Công thức tính HPI như sau: HPI – 1 = [ (P + P + P ] Trong đó, P1 là xác suất của việc không sống sót qua tổi 40 ( nhân với 100) kể từ khi sinh; P2 là tỷ lệ người lớn mù chữ; P3: trung bình không tính trọng số của dân số không có khả năng tiếp cận ổn định tới nguồn nước tốt hơn và trẻ em thiếu cân tính theo lứa tuổi; và α = 3. + HPI cho một số nước OECD chọn lọc (HPI-2): Đó là một chỉ số tổng hợp đo lường tình trạng nghèo cùng cực theo ba khía cạnh của HDI - sống thọ và sống khoẻ mạnh,kiến thức và sức sống khá - và cũng đo lường cả tình trạng bị loại trừ v khía cạnh xã hội. Công thức tính như sau: HPI - 2 = [ (P + P +P) ] Trong đó, P1 là xác suất của việc không sống sót qua tuổi 60 (nhân với 100) kể từ khi sinh; P2 là tỷ lệ người lớn thiếu các kỹ năng đọc theo chức năng; P 3: dân số sống dưới chuẩn nghèo tính theo thu nhập ( 50% mức thu nhập khả dụng đã điều chỉnh trung bình của hộ gia đình); P 4: tỷ lệ thất nghiệp dài hạn (12 tháng trở lên); và α = 3. Các thước đo về sự bất bình đẳng: Đo lường sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữ vai trò quan trọng trong phân tích và đánh giá tình trạng nghèo. Các thước đo chủ yếu như sau: (1) Hệ số Gini: đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối. Hệ số này được xác định như một tỷ số với giá trị nằm trong khoảng từ 0 tới 1, trong đó tử số là diện tích nằm giữa đường cong phân phối Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối (đường phân giác); mẫu số là tổng diện tích mà dưới đường bình đẳng tuyêt đối. Chỉ số Gini là hệ số Gini được thể hiện ở dạng phần trăm và bằng hệ số Gini nhân với 100. Một hệ số bất lợi của hệ số Gini là không phân rã được; do đó, hệ số Gini tổng thể, ví dụ của toàn xã hội, không bằng tổng Gini của các nhóm tổng thể đó. Một cách ước lượng hệ số Gini khi chúng ta có thông tin tỷ lệ dân số chia theo mức khác nhau của chi tiêu trung bình đầu người như sau: Gini = 2[( (Pi + Pi+1) - (Xi + Xi+1))(Pi+1 - Pi) ] 11 Trong đó Pi là tỷ lệ tích luỹ của dân số trong khoảng Y và X i là tỷ lệ tích luỹ của chi tiêu trong khoảng i. Giá trị đầu tiên trong ngoặc đơn lớn là độ cao của mỗi phần chia, từ đường chéo tới đường Lorenz, trong đó có giá trị cuối cùng trong ngoặc đơn là nhỏ là “ độ rộng” của mỗi phần chia. (2) Chỉ số Theil: là số thống kê đo lường của sự bất bình đẳng kinh tế do nhà toán thống kê Henri Theil xây dựng công thức sau: T= ( ln ) Trong đó Xi là thu nhập của người thứ i, = X i là thu nhập trung bình, và N là số người. Số hạng đầu bên trong dấu ngoặc là tỷ trọng thu nhập cá nhân i trong tổng thu nhập và số hạng thứ hai là thu nhập của cá nhân đó so với thu nhập trung bình. Nếu tất cả mọi người đều có thu nhập như nhau ( nghĩa là bằng thu nhập trung bình) thì khi đó, chỉ số này bằng 0. Nếu 1 người có tất cả thu nhập thì khi đó chỉ số này bằng LnN. Một ưu điểm của chỉ số theil là có thể phân rõ được, theo nghĩa đó tổng bình quân gia quyền của sự bất bình đẳng trong các nhóm, Ví dụ, sự bất bình đẳng của nước Mỹ là tổng bình quân gia quyền của sự bất bình đẳng giữa thu nhập của từng bang so với toàn bộ nước Mỹ. Cách tính như sau: nếu dân số của một nước chia thành m nhóm k, Tk là chỉ số Theil của nhóm đó, và k là thu nhập trung bình trong nhóm k, thì chỉ số Theil la: T= SkTk + Skln Vì vậy, ta có thể nói rằng 1 nhóm dân số “đóng góp” vào lượng bất bình đẳng của cả nước. (3) Tỷ số giữa thu nhập tiêu dùng của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất của một nước là tỷ số trong tử số và thu nhập/tiêu dùng trên đầu người của nhóm người nghèo nhất. Cũng có thể thay 20% bằng con số % khác, ví dụ 5% hay 10%. Đây là một đại lượng sử dụng rất phổ biến ở cả nước phát triển và đang phát triển. Hạn chế của thước đo xác định sự bất bình đẳng này là bỏ ra thu nhập/tiêu dùng của 60% dân số có mức thu nhập/tiêu dùng trung bình và nó không tính đến sự thu nhập /tiêu dùng trong các nhóm người nghèo nhất. (4) tỷ trọng thu nhập/tiêu dùng của x% người nghèo nhất Một điểm bất lợi của hệ số Gini và chỉ số Theil là chúng thay đổi khi phân phối thu nhập, bất kể sự thay đổi đó xảy ra ở nhóm thu nhập nào, có nhóm thu 12 nhập cao nhất, trung bình hay thấp nhất (chúng thay đổi khi có bất cứ sự chuyển giao thu nhập nào giữa hai cá nhân).Vì vậy, chỉ tiêu đo lường tỷ trọng thu nhập của x%, ví dụ 20%, người nghèo nhất. Thực tế cho thấy tình trạng dễ bị tổn thương trước nạn đói hay lũ lụt, thiếu vệ sinh, dễ bị nhiễm bệnh, chế độ ăn thiếu dinh dưỡng và không có khả năng tiếp cận tới giáo dục là những dấu hiệu đói nghèo, tương tự như tình trạng nghèo cùng cực về vật chất; Do vậy, trong nhiều trường hợp, biện pháp cung cấp các dịch vụ xã hội và cơ sở cho người nghèo còn giúp họ nhiều hơn trong việc thoát nghèo so với chỉ đơn thuần tăng thu nhập của họ. Các quan niệm về nghèo đói nêu trên phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo: Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người, có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng và thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Như vậy, nghèo đói là khái niệm động, mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư do thu nhập thấp, không cho phép thoả mãn các nhu cầu tối thiểu của bản thân con người, trước hết là ăn - gắn liền với dinh dưỡng. Nghèo tương đối lại gắn với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư khi so sánh với mức sống trung bình của cộng đồng địa phương trong một thời kỳ nhất định, phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và vị trí xã hội. Do đó, nhiều nhà khoa học cho rằng chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối là hiện tượng luôn có trong xã hội, vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo và hạn chế sự phân hoá giàu, nghèo. 1.1.1.2. Chuẩn nghèo đói ở Việt Nam Chuẩn nghèo có thể hiểu là mức độ, giới hạn về mặt lượng của tiêu chí dùng để xác định nghèo đói, nếu người nào có mức thu nhập thấp hơn mức thu nhập do Nhà nước quy định về nghèo đói thì họ là người nghèo, nếu vượt qua giới hạn đó, họ không phải là người nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có quan hệ thuận chiều, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại. Trong nhiều tài liệu của Việt Nam, khái niệm về nghèo đói của thế giới được vận dụng vào nước ta có phần linh hoạt hơn. Chẳng hạn, đối với thế giới, nghèo tuyệt đối còn có nghĩa là người dân bị bần cùng hoá, bị tước bỏ các cơ hội và khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu. ở Việt Nam, khái niệm nghèo tuyệt đối được giải thích dễ hiểu hơn bằng khái niệm đói, do bất trắc hoặc do khả 13 năng thoả mãn quá thấp của kinh tế, tức là nghèo lương thực, thực phẩm. Còn nghèo tương đối cũng được hiểu theo nghĩa tích cực, khác với nghĩa bất bình đẳng trong phân phối và hưởng thụ. Hơn nữa, vấn đề nghèo đói cũng được nghiên cứu ở các cấp độ cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nghèo đói có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế, song với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, nghèo đói và sự phân hoá giàu, nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã hội. Trong sự phát sinh, diễn biến của vấn đề nghèo đói, nhân tố chính trị và văn hoá có phần tác động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng và cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo. Điều này thể hiện từ trong sự vận động nền kinh tế thị trường, của những biến đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm các giải pháp giảm nghèo (GN) ở nước ta và xây dựng một hệ thống giải pháp tài chính công nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Xuất phát từ chỗ thu nhập là cơ sở kinh tế quyết định mức sống của mỗi cá nhân hay hộ gia đình, do đó việc lựa chọn chuẩn nghèo được căn cứ vào mức thu nhập của mỗi cá nhân hay hộ gia đình. Thước đo này quan tâm đến phân phối thu nhập mà từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư. Ở Việt Nam, những năm qua chúng ta đã sử dụng 2 loại tiêu chí để xác định chuẩn nghèo, theo đó tồn tại song song hai chuẩn nghèo dùng làm căn cứ để đánh giá tình trạng phân tầng xã hội: Một là, chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê và Ngân hàng thế giới đưa ra để đánh giá nghèo đói trên giác độ vĩ mô, dựa theo mức chi tiêu tháng qua các cuộc điều tra mức sống dân cư. Hai là, chuẩn nghèo do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra để áp dụng trong công tác XĐGN, theo tiêu chí thu nhập bình quân đầu người. Ngày 8 tháng 4 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 10/2005/QĐTTg "về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 2010". Quy định về chuẩn nghèo đói của nước ta giai đoạn 1993 - 2010 được xác định theo Bảng 1.1. Bảng 1.1. QUY ĐỊNH VỀ CHUẨN NGHÈO ĐÓI CỦA VIỆT NAM 14 Chuẩn nghèo qua các giai đoạn 1993 - 1995 Phân loại người nghèo đói Mức thu nhập bình quân người / tháng Đói (Khu vực nông thôn) Dưới 8 kg Đói (Khu vực thành thị) Dưới 15 kg (Mức thu nhập quy Nghèo (khu vực nông thôn) ra gạo) Dưới 15 kg 1996 - 2001 Nghèo (khu vực thành thị) Dưới 20 kg Đói (Tính cho mọi khu vực) Dưới 13 kg (45.000đ) Nghèo (Khu vực nông thôn Dưới 15 kg (55.000đ) (Mức thu nhập quy miền núi, hải đảo) ra gạo tương đương Dưới 20kg (20.000đ) với số tiền) Nghèo (Khu vực thành thị) Dưới 25 kg (25.000đ) 2001 - 2005 Nghèo (Khu vực nông thôn, Dưới 80.000 đồng miền núi, hải đảo) (Mức thu nhập bằng tiền) Nghèo (khu vực nông thôn Dưới 100.000 đồng đồng bằng, trung du) 2006 - 2010 Nghèo (Khu vực thành thị) Dưới 150.000 đồng Nghèo (khu vực nông thôn). Dưới 200.000 đồng (Mức thu nhập tính Nghèo (Khu vực thành thị) bằng tiền) Dưới 260.000 đồng Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Trong thực tế, ngoài các tiêu chí là thước đo định lượng, căn cứ những tiêu chí định tính khác như mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người, đây là tiêu chí được coi là chỉ số đánh giá trính độ phát triển của một nước ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, ở nước ta nghèo đói không chỉ được biểu hiện ở các chỉ tiêu dinh dưỡng và quyền sở hữu tài sản, mà phải quan niệm và hiểu rộng hơn như chất lượng cuộc sống, mức sống. Do vậy, để thật sự XĐGN, cần phải thực hiện hàng loạt yêu cầu, không chỉ trong sản xuất mà còn trong các dịch vụ xã hội khác. 1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến nghèo Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói như: Thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu sức lao động, đông người ăn theo, thiếu vốn, thiếu đất sản 15 xuất, ốm đau tàn tật, do thiên tai rủi ro... các nguyên nhân này có sự khác nhau nếu so sánh ở các vùng miền khác nhau Bệnh tật và sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Vấn đề bệnh tật và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo mà người ta thường gọi là "bẫy nghèo". Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho việc Khám chữa bệnh (KCB), kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp. Do vậy chi phí khám chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh ( nước sạch, các chương trình y tế....) của người nghèo bị hạn chế và làm tăng khả năng bị mắc bệnh của họ.. Ở hầu hết các địa bàn đặc biệt là vùng núi người ta đề cập đến cải thiện cơ sở hạ tầng và tiếp cận các dịch vụ cơ bản. Người dân cũng nhấn mạnh rằng một số người vẫn nghèo dai dẳng và đối với một số khác thì việc thoát nghèo rất mong manh và có xu hướng kém đi. Trên tất cả các địa bàn hàng loạt các vấn đề môi trường ngày càng bức thiết đã được nêu ra. Các vấn đề môi trường này bao gồm phá rừng ở vùng cao, ô nhiễm của các xí nghiệp và các cơ sở(kể cả một bệnh viện) ở những khu vực gần các thị trấn, tình trạng vệ sinh kém ở các đô thị và một số vùng nông thôn.. Ngoài những khó khăn phổ biến của người nghèo ở tất cả các vùng nông nghiệp như chất lượng đất xấu và ít được tiếp cận các dịch vụ tài chính còn có nguyên nhân khác, ví dụ như ở Hà Giang, người dân nói về tình trạng "đói thông tin" như là một cản trở sự hội nhập đầy đủ của các nhóm dân tộc thiểu số ở vùng sâu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung. Có thể tóm lại những nguyên nhân của nghèo như sau: Thiếu đất, thiếu vốn, di cư tự do, sức khoẻ kém và thiếu sức lao động; Điều kiện khí hậu, địa lý khắc nghiệt; Thiếu lao động; Sức khoẻ kém và trở nên tàn tật, già yếu; Bị mắc các bệnh xã hội và tính lười biếng; Dân làng không có khả năng áp dụng các kỹ thuật công nghệ canh tác và trình độ học vấn thấp dẫn đến thiếu năng lực để áp dụng những kỹ thuật canh tác mới; Thất bại trong đầu tư, rủi ro trong nông nghiệp; Cơ sở hạ tầng yếu kém đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi và đường xá; Các chính sách và chương trình của Chính phủ ở cấp địa phương kém hiệu quả; Thiếu tính minh bạch, trách nhiệm dẫn đến kết quả là tham nhũng, thiếu sự tham gia của người dân 16 vào quá trình ra quyết định; Không có khă năng và sự yếu kém của chính quyền cấp cơ sở. 1.1.3. Nhà nước với công cuộc chống nghèo 1.1.3.1. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Nói đến sự cần thiết khách quan của nhà nước trong công cuộc chống giảm nghèo phải nói đến trước hết vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó thị trường quyết định về sản xuất và phân phối. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế, mà trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà sản xuất-kinh doanh tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Trong nền kinh tế thị trường, thị trường quyết định phân phối tài nguyên cho nền sản xuất xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có điều tiết-nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, nền kinh tế nước ta chịu sự điều tiết của thị trường và chịu sự điều tiết của Nhà nước (sự quản lý của Nhà nước). Sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự cần thiết khách quan, vì những lý do sau đây: - Thứ nhất, phải khắc phục những hạn chế của việc điều tiết của thị trường, bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra. Sự điều tiết của thị trường đối với sự phát triển kinh tế quan trọng nhưng vẫn có những hạn chế cục bộ, đặc biệt về mặt phát triển hài hoà của xã hội. Thị trường không phải là nơi có thể đạt được sự hài hoà trong việc phân phối thu nhập xã hội, trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội, trong việc phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng… Cùng với việc đó, thị trường cũng không khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã nêu ở trên. Tất cả điều đó không phù hợp và cản trở việc thực hiện đầy đủ những mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã đề ra. Cho nên trong quá trình vận hành kinh tế, sự quản lý của nhà nước đối với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết để khắc phục những hạn chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của thị trường, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của quàn lý nhà nước về kinh tế. 17 - Thứ hai, Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình. Nhà nước phải giải quyết những mâu thuẫn lợi ích kinh tế phố biến, thường xuyên và cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình hoạt động kinh tế, con người có mối quan hệ với nhau. Lợi ích kinh tế là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đó. Mọi thứ mà con người phấn đấu đều liên quan đến lợi ích của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi đối tác đều hướng tới lợi ích kinh tế riêng của mình. Nhưng, khối lượng kinh tế thì có hạn và không thể chia đều cho mọi người, nếu xẩy ra sự tranh giành về lợi ích và từ đó phát sinh ra những mâu thuẫn về lợi ích. Trong nền kinh tế thị trường có những loại mâu thuẫn cơ bản sau đây: (i) Mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau trên thương trường; (ii) Mâu thuẫn giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp; (iii) Mâu thuẫn giữa người sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên và môi trường, không tính đến lợi ích chung trong việc họ cung ứng những hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng, đe doạ sức khoẻ cộng đồng: trong việc xâm hại trật tự, an toàn xã hội, đe doạ an ninh quốc gia vì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra, còn nhiều mâu thuẫn khác nữa như mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa cá nhân; công dân với Nhà nước, giữa các địa phương với nhau, giữa các ngành, các cấp với nhau trong quá trình hoạt động kinh tế của đất nước. Những mâu thuẫn này có tính phổ biến, thường xuyên và có tính căn bản vì liên quan đến quyền lợi của con người, đến sự ổn định kinh tế-xã hội. Chỉ có nhà nước mới có thể giải quyết được các mâu thuẫn đó, điều hoà lợi ích của các bên. - Thứ ba, tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế, để thực hiện bất kỳ một hoạt động nào cũng phải giải đáp các câu hỏi: Có muốn làm không? Có biết làm không? Có phương tiện để thực hiện không? Có hoàn cảnh để làm không? Nghĩa là, cần có những điều kiện chủ quan và khách quan tương ứng. Nói cụ thể và dễ hiểu, không phải công dân nào cũng có đủ các điều kiện trên để tiến hành làm kinh tế, làm giàu. Sự can thiệp của Nhà nước rất cần thiết trong việc hỗ trợ công dân có những điều kiện cần thiết thực hiện sự nghiệp kinh tế. - Thứ tư, Tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước, Nhà nước hình thành từ khi xã hội có giai cấp. Nhà nước bao giờ cũng đại diện lợi ích của giai cấp thống trị nhất định trong đó có lợi ích kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho lợi ích dân tộc và nhân dân, Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước ta xác định và quản lý chỉ đạo là nhằm cuối cùng đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy vậy, trong nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với nước 18 ngoài, không phải lúc nào lợi ích kinh tế của các bên cũng luôn luôn nhất trí. Vì vậy, xuất hiện xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quá trình hoạt động kinh tế trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế, Nhà nước ta phải thể hiện bản chất giai cấp của mình để bảo vệ lợi ích của dân tộc và của nhân dân ta. Chỉ có Nhà nước mới có thể làm được điều đó. Như vậy là, trong quá trình phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất giai cấp của mình. Bốn lý do chủ yếu trên đây chính là sự cần thiết khách quan của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bên cạnh những ưu thế của kinh tế thị trường như: Tự động đáp ứng nhu cầu, có thể thanh toán được của xã hội một cách linh hoạt và hợp lý, có khả năng huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội, tạo ra động lực mạnh để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và thông qua phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém ; phản ứng nhanh, nhạy trước các thay đổi của nhu cầu xã hội và các điều kiện kinh tế trong nước và thế giới ; buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên các quy mô lớn ; tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ-kỹ thuật, nền kinh tế năng động và đạt hiệu quả cao... nền kinh tế thi trường còn có những khuyết tật nhất định đó là : Động lực lợi nhuận tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi phạm pháp luật, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần; sự cạnh tranh không tổ chức dẫn đến mất cân đối vĩ mô, lạm phát, thất nghiệp, sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế ; Sự cạnh tranh dẫn đến độc quyền làm hạn chế nghiêm trọng các ưu điểm của kinh tế thị trường ;Tạo ra sự bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo; lợi ích chung dài hạn của xã hội không được chăm lo ; Mang theo các tệ nạn như buôn gian bán lậu, tham nhũng; Tài Nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá một cách có hệ thống, nghiêm trọng và lan rộng ; Sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế. 1.1.3.2. Các biện pháp nhà nước sử dụng để chống nghèo. Các biện pháp mà nhà nước sử dụng để tránh hạn chế của nền kinh tế thị trường qua đó tránh sự phân hoá xã hội và chống giảm nghèo, gồm bốn biện pháp phổ biến như sau : - Thứ nhất, về cải cách kinh tế: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm đựoc coi là những đóng góp quan trọng nhất mà chính phủ có thể làm để giảm nghèo. Chính sách công có thể tiếp cận đến người nghèo thông qua những trợ cấp 19 định hướng cho các đối tượng ưu tiên, và đồng thời có thể làm tăng tài sản cho họ, đặc biệt trong giáo dục và y tế. Tuy nhiên các chương trình mục tiêu và các chính sách phát triển con người không giúp được nhiều lắm nếu không gắn với sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Việc giảm dần sự tham gia của Nhà nước trong các hoạt động kinh tế, cùng với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao đáng khâm phục,GDP trên đầu người ở Việt Nam tăng gấp hơn hai lần trong thập kỷ qua, và nó có thể tăng với nhịp độ như vậy trong vài năm tới. Có được kết quả tăng trưởng đáng kể trên là nhờ có hệ thống quản lý vĩ mô hiệu quả, tăng hiệu quả phần lớn là do sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường hàng hoá và dịch vụ, cạnh tranh nhiều hơn thể hiện ở mức độ hội nhập ngày càng tăng của kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới.. Phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn sẽ đòi hỏi những cải cách đáng kể trong quản trị nhà nước, các hệ thống quản lý chi tiêu công thường xuyên và các chương trình đầu tư công còn rất yếu. Sự kém hiệu quả và nguy cơ tham nhũng là những hậu quả chính, sự kém cỏi trong quá trình lập kế hoạch. Hiện nay vẫn có sự tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo là bước đột phá trong việc xác định rõ ràng các mục tiêu phát triển, gắn chính sách với việc đạt được các mục tiêu và theo đó giúp định hướng lại chi tiêu công hiện đại, nhưng ở các cấp thấp hơn đặc biệt ở nhiều tỉnh, phương pháp quản lý theo kiểu mệnh lệnh như cũ vẫn tồn tại. Chính quyền ở một số tỉnh đã quyết tâm hơn so với các tỉnh khác trong cải cách, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển. Đồng thời cũng có sự khác nhau trong quá trình lập kế hoạch, dự toán ngân sách, trong hiệu quả thực hiện các dịch vụ xã hội giữa các tỉnh. Trên thực tế, những tiến bộ không đồng đều trong cải cách cơ cấu, xã hội và quản lý nhà nước giữa các tỉnh là một trong những điểm nổi bật trong quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam, kết quả là kinh nghiệm giảm nghèo giữa các tỉnh cũng rất đa dạng. Sự cần thiết phải hoàn thành chuyển đổi sang kinh tế thị trường, cải cách khu vực tài chính, và cải thiện tính hiệu quả và minh bạch trong quản lý khu vực Nhà nước được xác định là những ưu tiên. Duy trì tăng trưởng ổn định, và qua đó tạo khả năng tiếp tục giảm nghèo tuỳ thuộc nhiều vào khả năng thực hiện những ưu tiên đó ở Việt Nam. - Thứ hai, về cung cấp dịch vụ : Một phần đáng kể trong chi tiêu công liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ cơ bản. Giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, chăm sóc sức khoẻ, nước, điều kiện vệ sinh là các dịch vụ chủ yếu do Nhà nước cung cấp. Ngay cả công tác khuyến nông ở nông thôn, thậm chí khi có các nhà cung cấp tư nhân tham gia, nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng thông qua các điều tiết hay trợ cấp. Ai có thể tiếp cận với các dịch vụ cơ bản này, với chi phí bao nhiêu và 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất