BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ THỊ THANH NGA
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Luật dân sự
Mã số
: 60.38.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – Giảng viên –
Tiến sỹ Nguyễn Minh Tuấn, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành
khóa luận này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Luật dân
sự cùng các thầy cô trong trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và
cung cấp kiến thức cho em trong suốt quá trình em học tập và nghiên cứu chương
trình đào tạo thạc sỹ của trường.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên, tạo
mọi điều kiện để em hoàn thành khóa luận thành công, tốt đẹp.
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2012
Học viên
Vũ Thị Thanh Nga
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.
Học viên
Vũ Thị Thanh Nga
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA
VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM.
7
1.1. Khái quát về quyền thừa kế của cá nhân.
7
1.2. Khái quát về quyền và nghĩa vụ của người thừa thừa kế.
11
1.3. Qui định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của người
19
thừa kế từ thế kỷ XV đến nay
1.4. Pháp luật của một số nước về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
36
theo pháp luật
CHƯƠNG 2: QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VỀ QUYỀN VÀ
39
NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ.
2.1. Các quyền của ngươì thừa kế
39
2.2. Các nghĩa vụ của người thừa kế
58
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
70
VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.
3.1. Thực trạng áp dụng luật về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
70
3.2. Một số kiến nghị và hướng hoàn thiện.
75
Kết luận.
79
Danh mục tài liệu tham khảo.
81
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Thừa kế là quan hệ về tài sản có tính chất phổ biến trong đời sống xã hội.
Theo cách hiểu phổ thông nhất, thừa kế di sản là sự chuyển dịch di sản của cá
nhân đã chết cho những người còn sống. Quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ
thừa kế di sản tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người. Có thể thấy rằng sở hữu tài sản và thừa kế xuất hiện rất sớm
trong lịch sử xã hội loài người.
Ở nước ta, pháp luật về thừa kế có quá trình phát triển khá sớm trong tiến
trình lịch sử lập pháp của dân tộc, thể hiện rõ nhất từ các quy định về điền sản
áp dụng cho Tư điền sản do Vua Lê Nhân Tông ban hành trong niên hiệu Thái
Hòa thứ bảy (1449), được quy định tại Điều 388, 391 Quốc triều hình luật (năm
thứ 3 niên hiệu Quang Thuận năm 1482), Bộ luật Hồng Đức ban hành giữa sau
thế kỷ XV (khoảng năm 1483). Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm
1959, do những điều kiện nhất định, nên Sắc lệnh 90 ngày 10/10/1945 cho
phép tạm thời áp dụng những văn bản Pháp luật của chế độ cũ với điều kiện
“những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Viêt Nam và
chính thế cộng hòa”. Hiến pháp năm 1980 ra đời, quyền thừa kế của công dân
được tiếp tục ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất này Điều 27 Hiến pháp
80 quy định “Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Ngày
30/8/1990, Hội đồng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua pháp luật thừa kế. Qua hơn 4 năm thực hiện Pháp lệnh thừa kế và thực tiễn
xét xử đã cho thấy, pháp lệnh thừa kế đã đi vào cuộc sống và về cơ bản vẫn phù
hợp với thực trạng các quan hệ thừa kế hiện nay, bảo đảm quyền thừa kế của
công dân được các tầng lớp nhân dân đồng tình, chấp thuận. Do đó chế định
thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 1995 đã thừa kế hầu hết các quy định của
Pháp lệnh nói trên, tuy nhiên trong từng điều khoản cụ thể thì Luật dân sự năm
2
1995 có chỉnh lý, bổ sung nhằm đưa các quy định của Pháp luật về thừa kế vào
cuộc sống một các hữu hiệu hơn. Sau 10 năm thực hiện, các quy định thừa kế
của Bộ luật dân sự năm 1995 đã thực sự đi vào cuộc sống, góp phần điều chỉnh
ổn định các quan hệ về thừa kế tài sản trên thực tế, xuất phát từ giá trị thực tế
của các quy định về thừa kế tại phần thứ 4 của Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ
luật dân sự năm 2005 tiếp tục kế thừa, trong nội dung của Bộ luật dân sự năm
2005 phần quy định về thừa kế là phần ít sửa đổi bổ sung nhât. Qua nghiên cứu
các qui định về thừa kế trong pháp luật nước ta từ khi có các quy định về điền
sản áp dụng cho Tư điền sản do Vua Lê Nhân Tông ban hành cho đến nay có
thể thấy, quan hệ thừa kế không những chịu ảnh hưởng bởi chế độ chính trị xã
hội, chế độ sở hữu mà còn chịu ảnh hưởng bởi chế độ hôn nhân gia đình, phong
tục tập quán ở mỗi thời kỳ lịch sử trong một mức độ nhất định.
Ngày nay, trong chế độ xã hội nhà nước - pháp quyền, quyền thừa kế của
công dân là một trong những quyền cơ bản được Nhà nước công nhận và bảo
hộ. Công dân có quyền để lại tài sản cho cá nhân hoặc tổ chức theo di chúc
hoặc theo pháp luật, nhưng cũng có quyền hưởng di sản của người khác theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Các qui định pháp luật hiện hành về thừa kế đã được
xây dựng và không ngừng được hoàn thiện. Mặc dù vậy, qua thực tiễn xét xử
tranh chấp về quyền thừa kế tại Toà án các cấp cũng cho thấy, những quy định
về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế của BLDS hiện hành vẫn còn bộc lộ
nhiều bất cập, thiếu sót. Nhiều qui định về thừa kế trong BLDS vẫn chưa thật
sự phù hợp với thực tế của đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh nước ta ngày
càng có sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật thừa kế trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, lựa chọn đề tài nghiên cứu:
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM. Là thực sự cần thiết, thông qua
3
việc nghiên cứu đề tài, tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn
thiện pháp luật thừa kế được quy định trong Bộ luật dân sự của nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về thừa kế nói chung theo pháp luật ở nước ta còn dàn
trải và mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh cụ thể trong chế định về quyền
thừa kế như: thời điểm mở thừa kế; điều kiện của những người được hưởng di
sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc; quyền thừa kế di sản của con
nuôi…được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí luật học, Tạp chí dân
chủ và pháp luật. Một số bài viết chỉ tập trung phân tích, bình luận một tranh
chấp cụ thể như tranh chấp về xác định chủ thể hưởng di sản theo pháp luật,
người thừa kế thế vị hoặc chủ thể không được thừa kế theo pháp luật...
Vấn đề thừa kế cũng đã được nghiên cứu khái quát trong một số sách mang
tính kiến thức phổ thông như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế" của luật
sư Lê Kim Quế, "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế" của TS. Đinh Văn Thanh và luật
sư Trần Hữu Biền... với nội dung giải đáp các vấn đề cơ bản nhất về thừa kế trong
đời sống xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
4
Đề tài được nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ những quy định của
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người theo Pháp luật trong Bộ luật dân sự
Việt Nam để từ đó rút ra những kết luận:
- Nghiên cứu có tính chất tổng quát các quy định của pháp luật thực định
về các quyền, nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật.
- Trên cơ sở của kết quả nghiên cứu đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các
qui định về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luât.
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận của Pháp luật về thừa kế
và cụ thể là quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo Pháp luật; các quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật
về vấn đề này qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong những năm gần
đây.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ Luật học. Đề tài không nghiên cứu
tất cả các nội dung của chế định thừa kế mà chỉ tập trung nghiên cứu những
vấn đề cơ bản nhất, nhưng hiện có những cách hiểu rất khác nhau trong quá
trình áp dụng pháp luật về: quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo Pháp
luật.
- Đề tài được nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ những quy định của pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của người theo Pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt
Nam .
- Quá trình hình thành và phát triển pháp luật thừa kế ở nước ta qua các
giai đoạn lịch sử; nêu những cơ sở và luận điểm có tính chất tổng quát về tiến
trình phát triển pháp luật thừa kế ở nước ta về quyền và nghĩa vụ của người
5
thừa kế qua các thời kỳ lịch sử và phân tích để thấy rõ những nội dung kế thừa,
phát triển qua mỗi thời kỳ lịch sử.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây
dựng Bộ luật dân sự.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so
sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực
tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung
luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về thừa kế,
về quyền thừa kế đã được phân tích, làm sáng tỏ… để minh chứng tính đặc thù
của quan hệ thừa kế trong các quan hệ pháp luật dân sự.
Thừa kế theo quy định của BLDS được đặt trong mối liên hệ với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định để phân
tích, làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ thừa kế đó dưới góc độ khách quan và chủ
quan, được củng cố, ghi nhận được bảo vệ ngày một hiệu quả hơn. Qua đó làm
sáng tỏ quyền dân sự cơ bản của công dân, góp phần hoàn thiện về mặt lý luận
trong việc nâng cao trình độ ý thức pháp luật của cá nhân trong chế định thừa
kế. Từ đó sẽ góp phần khắc phục và loại bỏ những quy định pháp luật thừa kế
thiếu tính khái quát, không đồng bộ, không toàn diện trong BLDS.
6
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là cơ sở để tiếp tục có những kiến nghị
bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện chế định thừa kế trong BLDS. Mục tiêu của
việc nghiên cứu đề tài là nêu những kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định thừa
kế cho phù hợp với tổng thể các quy định trong BLDS và đồng bộ với các quy
định của các nghành luật khác. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng
dạy ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là trong lĩnh
vực thừa kế, là tư liệu tốt để các nhà khoa học tham khảo trong nghiên cứu
khoa học. Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong
một chừng mực nhất định cũng có thể giúp ích phần nào cho các cán bộ làm
công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sư, kiểm sát viên..) trong việc hiểu biết
một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật khi
áp dụng giải quyết phân chia di sản thừa kế theo quy định của Pháp luật
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo
Pháp luật trong Luật Dân sự Việt Nam.
Chương 2: Nội dung của quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo
Pháp luật.
Chương 3: Thực tế áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người
thừa kế theo pháp luật, một số kiến nghị và hướng hoàn thiện.
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát về quyền thừa kế của cá nhân.
1.1.1. Khái niệm thừa kế:
Là một thực thể trong đời sống xã hội, con người không thể tồn tại và
phát triển nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói cách khác, con
người không thể sống và lao động khi không có tài sản để thoả mãn các nhu
cầu thiết yếu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất. Nếu tư liệu tiêu dùng là
phương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất là phương tiện để thực hiện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thì tài sản nói chung là phương tiện sống của con
người. Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thoả mãn cho
nhu cầu của mình, khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người
còn sống. Quá trình dịch chuyển tài sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác được
gọi là thừa kế.
Nhìn nhận một cách tổng quan nhất thì “thừa kế là việc dịch chuyển tài
sản của người đã chết cho người còn sống”1. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là
thừa hưởng một cách kế tục. Theo phương diện này, Từ điển Tiếng Việt đã
định nghĩa: “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”2. Về mặt nội dung thì
thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được
hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có Nhà nước và pháp
luật, thì nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi Nhà
1, 2. Xem Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học NXB Đà Nẵng 2000.
8
nước xuất hiện, bằng pháp luật, nhà nước tác động đến quá trình dịch chuyển tài
sản nói trên, trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các
chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật.
Khi chưa xuất hiện nhà nước, thừa kế được dịch chuyển theo phong tục,
tập quán của các thị tộc, bộ lạc, thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch
chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống đã có sự tác động bằng
ý chí của nhà nước. Giai cấp thống trị thông qua quyền lực nhà nước để áp
dụng các phương pháp cưỡng chế nhằm tác động đến các quan hệ xã hội làm
cho các quan hệ đó phát sinh, phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp mình.
Nghĩa là khi có nhà nước thì mọi quan hệ cũng như mọi sự kiện ẩy ra trong đời
sống xã hội đều được pháp luật điều chỉnh. Thừa kế trong xã hội đã có nhà
nước cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế của cá nhân:
Thừa kế xuất hiện ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có
nhà nước và pháp luật thì quyền thừa kế của cá nhân chỉ ra đời và tồn tại trong
những xã hội đã phân chia giai cấp và có nhà nước.
Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật, nhà nước qui định quyền để lại
thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể, qui định trình tự và các điều kiện dịch
chuyển tài sản cũng như qui định các phương thức dịch chuyển tài sản từ người đã
chết sang những người còn sống khác. Tuy nhiên, mỗi một chế độ xã hội khác
nhau sẽ có sự khác nhau trong quy định về quyền thừa kế. Thậm chí ngay trong
một chế độ xã hội nhưng ở từng giai đoạn khác nhau sự quy định này cũng có thể
khác nhau. Điều đó có nghĩa rằng chế độ thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn
phát triển kinh tế, xã hội của một nhà nước và đặc biệt là do chế độ sở hữu quyết
định.
Như vậy, cùng với quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế không đơn thuần chỉ
còn là phạm trù kinh tế nữa, mà nó đã trở thành phạm trù pháp luật. Quan hệ sở
9
hữu và quan hệ thừa kế đều là những quan hệ pháp luật và giữa chúng có mối
liên hệ mật thiết với nhau, quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia, ngược lại
chúng lại là cơ sở của nhau theo những chuẩn mực pháp luật nhất định và mang
bản chất giai cấp sâu sắc. Quan hệ pháp luật về thừa kế hiện hành là một minh
chứng cho nhận định đó.
Điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế, pháp luật về thừa kế xác định quyền
của cá nhân trong việc hưởng di sản thừa kế, mà trong lý luận pháp lý được gọi
chung là quyền thừa kế.
Quyền thừa kế của cá nhân là chế định pháp luật và quan hệ thừa kế là
quan hệ pháp luật dân sự được các quy phạm pháp luật điều chỉnh phù hợp với
những điều kiện, trình tự để nhận di sản... của cá nhân tham gia vào quan hệ
đó.
Tất cả sự quy định của nhà nước nhằm tác động, điều chỉnh quá trình
dịch chuyển tài sản từ một người đã chết sang người còn sống sẽ hình thành
khái niệm quyền thừa kế theo nghĩa khách quan của nó.
Quyền thừa kế của cá nhân là một chế định của ngành luật dân sự bao
gồm một tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận nhằm điều chỉnh quá trình dịch chuyển những lợi ích vật chất từ người
chết cho những người còn sống khác.
Việc ghi nhận và xác định các quyền nói trên không phải hoàn toàn do ý
chí chủ quan tuyệt đối của giai cấp lãnh đạo xã hội, dù rằng pháp luật là ý chí
của giai cấp đó. Bằng ý chí chủ quan của mình trên cơ sở dựa vào điều kiện vật
chất của xã hội, Nhà nước ta đã ghi nhận các quyền trong lĩnh vực thừa kế cho
các cá nhân.
Như vậy, khi xem xét quyền thừa kế dưới góc độ một chế định pháp luật
thì có nghĩa là xem xét, nhìn nhận ở phương diện khách quan. Ngoài ra, quyền
10
thừa kế của cá nhân còn được xem xét ở một phương diện khác, phương diện
chủ quan.
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền năng cụ thể của mỗi một cá nhân
trong việc nhận di sản thừa kế, đó là những khả năng mà chủ thể được phép xử
sự theo quy định của pháp luật.
Quyền thừa kế cần được hiểu theo hai phương diện như sau:
- Về phương diện khách quan, quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các
quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chuyển
dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản (di sản) của người chết cho người còn
sống.
- Về phương diện chủ quan, quyền thừa kế của cá nhân được hiểu là
quyền dân sự cơ bản của công dân được nhận hoặc không nhận di sản thừa
kế theo một trình tự và thủ tục pháp luật nhất định.
Như vậy, thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch di sản của người chết
cho người còn sống theo mối quan hệ ràng buộc về huyết thống, gia đình hay
thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật bảo đảm quyền của người có tài sản được để lại tài sản
của họ khi họ chết, nếu không thực hiện quyền định đoạt bằng việc lập di chúc
hoặc tuy có lập di chúc, song việc định đoạt đó bị hạn chế bởi pháp luật hay di
chúc họ lập ra không có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Thừa kế theo
pháp luật về bản chất là bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống,
gia đình hay thân thuộc với người có tài sản khi người này chết.
Quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống
được gọi là thừa kế hay được gọi là quan hệ thừa kế? Tương tự như vậy, quá
trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống khi đã có sự
tác động của pháp luật được gọi là quyền thừa kế hay được gọi là quan hệ pháp
luật về thừa kế?
11
Như vậy, thừa kế theo pháp luật là quá trình dịch chuyển di sản từ người
đã chết cho người còn sống. Sự dịch chuyển trên được thực hiện “Theo hàng
thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định”.
1.2. Khái quát về quyền và nghĩa vụ của người thừa thừa kế:
1.2.1.Khái niệm, đặc điểm quyền của người thừa kế theo pháp luật:
1.2.1.1. Khái niệm quyền của người thừa kế theo pháp luật:
Quyển thừa kế là quyền tài sản của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân
sự nói chung và quan hệ thừa kế nói riêng. Với tư cách là một chủ thể có quyền
trong quan hệ thừa kế, pháp luật cho phép người thừa kế thực hiện các hành vi
ứng xử theo ý chí của mình phù hợp với các qui định của pháp luật
Quan hệ thừa kế là quan hệ tuyệt đối, chủ thể mang quyền đựơc xác
định là người thừa kế, do vậy quyền của người thừa kế là các khả năng mà
pháp luật cho phép người thừa kế xự sự với phần di sản mà mình được hưởng.
Các khả năng đó được cụ thể hoá bằng các qui định về thừa kế trong BLDS
2005.
Căn cứ BLDS 2005 thì quyền thừa kế của cá nhân gồm những quyền
sau đây: Quyền nhận di sản thừa kế (Điều 632. 636), quyền từ chối hưởng di
sản thừa kế (Điều 642), Quyền quản lý di sản thờ cúng, Quyền quản lý di sản
(Điều 638. 640), Quyền quản lý di sản thờ cúng (theo di chúc theo thoả thuận),
Quyền từ chối nhận di sản (Điều 642), Quyền thoả thuận hạn chế chia di sản
(Điều 686), Quyền khởi kiện chia di sản (Điều 645), Quyền hưởng di sản
không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 669)….
1.2.1.2. Đặc điểm về quyền của người thừa kế theo pháp luật:
Thừa kế là quan hệ tuyêt đối cho nên quyền của người thừa kế là quyền
đối vật, trong khoa học pháp luật dân sự, người ta thường dựa vào những tiêu
12
chí khác nhau để phân chia quan hệ pháp luật dân sự thành các loại khác nhau:
- Nếu dựa vào tính xác định của chủ thể mang quyền và chủ thể mang
nghĩa vụ thì quan hệ pháp luật dân sự được phân thành quan hệ pháp luật dân
sự tuyệt đối và quan hệ pháp luật dân sự tương đối. Quan hệ pháp luật dân sự
tuyệt đối là quan hệ mà trong đó chỉ xác định được chủ thể mang quyền, tất cả
các chủ thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ. Quan hệ pháp luật dân sự tương đối
là quan hệ mà trong đó, tương ứng với chủ thể mang quyền đã được xác định
cụ thể là chủ thể mang nghĩa vụ cũng đã được xác định cụ thể, theo đó quyền
của chủ thể bên này là nghĩa vụ của chủ thể bên kia và ngược lại.
Như vậy, theo cách phân loại trên ta coi thừa kế là một quan hệ thì quan
hệ pháp luật thì thừa kế sẽ thuộc nhóm quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối.
- Nếu dựa vào cách thức thực hiện quyền dân sự của thể mang quyền
thì quan hệ pháp luật dân sự được phân chia thành quan hệ vật quyền và
quan hệ trái quyền. Quan hệ vật quyền (hay còn gọi là quyền đối vật) là quan
hệ pháp luật dân sự mà trong đó, chủ thể mang quyền thực hiện quyền dân
sự bằng chính hành vi của mình mà hoàn toàn không phụ thuộc vào hành vi
của người khác. Ví dụ: quan hệ pháp luật về sở hữu được coi là quan hệ vật
quyền vì trong đó khi thực hiện quyền dân sự của mình, chủ sở hữu (chủ thể
mang quyền) bằng chính hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật để thực
hiện việc chiếm hữu, việc sử dụng và định đoạt tài sản của mình. Quan hệ
trái quyền là quan hệ pháp luật dân sự mà trong đó, quyền của chủ thể bên
này muốn được thực hiện phải thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên
kia. Ví dụ: quan hệ nghĩa vụ vay nợ được coi là một quan hệ trái quyền vì
quyền thu hồi nợ của bên cho vay chỉ được thực hiện chừng nào bên vay
thực hiện hành vi trả nợ.
Theo cách phân loại trên ta coi thừa kế là một quan hệ pháp luật, thì quan
hệ pháp luật về thừa kế được xếp vào quan hệ vật quyền. Bởi lẽ, thừa kế là việc
13
để lại tài sản và việc nhận tài sản mà việc để lại tài sản của người đã chết (dù có
di chúc hay không) thì về bản chất, đều là quyền định đoạt tài sản của một chủ
sở hữu. Việc nhận di sản chính là việc người thừa kế tiếp nhận quyền định đoạt
của người để lại thừa kế.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật:
1.2.2.1. Khái niệm về nghĩa vụ của người thừa kế theo Pháp luật:
Theo qui định tại Điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005, thì việc thực hiện
nghĩa vụ tài sản thuộc về những người hưởng di sản thừa kế: “Những người
hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản
do người chết để lại...”. Quy định này cần được hiểu là người hưởng thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải với tư cách là chủ
thể mới “bước vào quan hệ nghĩa vụ”, có nghĩa là họ không thay thế vị trí chủ
thể. Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết để lại, hay nói
cách khác, họ phải trả nợ chỉ vì họ tiếp nhận tài sản có của người chết để lại (nợ
của người chết không phải là nợ của người hưởng di sản).
Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại và những chi
phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản không còn (nghĩa vụ tài sản và các
chi phí khác bằng hoặc lớn hơn khối tài sản mà người chết để lại) thì khi đó
không còn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì không có quan hệ nhận di sản
thừa kế.
Ví dụ: Một người để lại khối di sản thừa kế trị giá 360 triệu đồng nhưng
lúc còn sống, người đó vay nợ 200 triệu đồng và nợ tiền thuế Nhà nước là 160
triệu đồng; trước lúc chết người đó chưa kịp thực hiện các nghĩa vụ này. Như
vậy, di sản để lại ngang bằng với các khoản nợ. Sau khi thanh toán không còn
di sản để chia cho những người thừa kế.
Thứ nữa, theo quy định tại Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005 thì người
thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải
14
thực hiện việc trả nợ thay cho người để lại di sản. Nếu từ chối nhận di sản cũng
có nghĩa từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, họ không phải thực
hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, vì không phải là món nợ của bản thân họ.
Điều này chứng tỏ rằng, người thừa kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ. Nếu quan niệm nghĩa vụ
tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi trường hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu
người thừa kế thực hiện việc trả nợ.
Vậy, nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật là cách xử xử bắt buộc
của người được hường thừa kế mà theo quy định của pháp luật họ phải thực
hiện khi được hưởng di sản thừa kế của người chết thay cho người chết trong
phạm vi di sản do người chết để lại.
1.2.1.2.Đặc điểm về nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật:
- Nghĩa vụ của người thừa kế mang tính phái sinh (nếu nhận di sản thì
mới phải thực hiện nghĩa vụ).
Khi mở thừa kế, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản thì không phải
thực hiện nghĩa vụ của người chết. Trái lại, nếu nhận di sản thì phải thực hiện
nghĩa vụ của người chết trong phạm vi di sản hưởng. Theo qui định tại Điều
636 BLDS: “Kể từ thời điểm mở , những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại”. Như vậy, việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do
người chết để lại là những nghĩa vụ mà người để lại di sản đáng lẽ phải thực
hiện khi còn sống nhưng chưa thực hiện được thì người đó đã chết, vì vậy
những nghĩa vụ này được chuyển cho người hưởng di sản. Nghĩa vụ về tài sản
do người chết để lại mà người hưởng di sản thực hiện được hiểu là người thừa
kế kế quyền tài sản, đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết
để lại trong phạm vi kế quyền đó. Hiểu theo nghĩa khác, thì người thừa kế nếu
không từ chối quyền hưởng di sản thì trước khi nhận phần di sản thuộc về mình
15
thì dùng một phần di sản để thực hiện nghĩa vụ thay cho ngươì để lại lại di sản.
Trường hợp thực hiên thay nghĩa vụ mà không còn di sản thì người thừa kế
không được hưởng di sản thừa kế. Do vậy, nghĩa vụ về tài sản do người chết để
lại không phải là di sản thừa kế. Di sản thừa kế chỉ là những tài sản và quyền về
tài sản do người chết để lại được đem chia thừa kế. Sự thanh toán nghĩa vụ về
tài sản do người chết để lại chính là xác định di sản để chia thừa kế hoặc không
còn di sản để chia thừa kế. Di sản thừa kế là những tài sản và quyền tài sản của
người chết để lại được chia cho những người có quyền hưởng theo pháp luật.
Tuy nhiên phải xác định những nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân
người chết chấm dứt cùng thời điểm mở thừa kế, vì nghĩa vụ gắn liền với nhân
thân người chết chấm dứt cùng thời điểm mở thừa kế. Do vậy người hưởng di
sản thừa kế theo pháp luật chỉ phải thanh toán nghĩa vụ về tài sản của người
chết để lại trong phạm vi di sản của người đó. Nguyên tắc này có trong quy
định tại khoản 1 Điều 637 BLDS “Những người thừa kế có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác”.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trường và
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay vấn đề tài sản thuộc quyền
sở hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Vì thế, di sản thừa
kế và việc xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận
và thực tiễn cần giải quyết. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế là xác định
đúng khối di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế theo kỷ phần mà người
thừa kế có quyền được hưởng.
Vì thế, khi nói về di sản thừa kế có nhiều cách hiểu khác nhau. Hiện nay,
trong khoa học pháp lý vấn đề di sản thừa kế vẫn còn tồn tại ba quan điểm khác
nhau:
- Xem thêm -