1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống và là địa bàn phân bổ các khu dân cư,
xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Trong kinh tế thị trường, đất đai là hàng hoá đặc biệt, trở thành yếu tố cơ bản
không thể thiếu trong quá trình sản xuất và đời sống. Đặc biệt, đất đai còn mang giá
trị lịch sử- xã hội; khó có thể lấy thước đo nào để xác định được đầy đủ giá trị của đất
đai. Tuy nhiên, đất đai là tài nguyên hữu hạn, con người không thể làm nó sản sinh
thêm ngoài diện tích tự nhiên vốn có, trong khi nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng
lên. Do đó, cần phải quản lý đất đai một cách chặt chẽ nhằm phát huy tốt hơn hiệu
quả sử dụng đất đai, bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ và tạo ra nguồn tài chính cho phát
triển kinh tế đất nước.
Theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành thì nguồn thu ngân sách nhà
nước từ đất đai bao gồm: tiền sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền sử
dụng đất; chuyển mục đích sử dụng đất từ đất được Nhà nước giao không thu tiền sử
dụng đất sang đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất; chuyển từ hình thức
thuê đất sang hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất; tiền thuê đất
đối với đất do Nhà nước cho thuê; thuế sử dụng đất; thuế thu nhập từ chuyển quyền
sử dụng đất; Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chuyển nhượng bất động sản; thuế
thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng bất động sản; tiền thu từ việc xử phạt vi
phạm pháp luật về đất đai; tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản
lý và sử dụng đất đai; phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
Hiện nay quản lý đất đai đặc biệt là quản lý các nguồn thu từ đất là lĩnh vực
hết sức phức tạp và nhạy cảm. Công tác quản lý đất đai ảnh hưởng trực tiếp tới phát
triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững. Làm tốt công tác quản lý đất đai nói chung và quản lý các khoản thu từ đất
nói riêng sẽ góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đảm bảo lợi ích của
nhà đầu tư và ổn định đời sống người dân.
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước công tác quản
lý nhà nước về các khoản thu từ đất đã đạt được những kết quả quan trọng góp phần
tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước như:
Chính sách, pháp luật đất đai nói chung và về các khoản thu từ đất nói riêng
từng bước được hoàn thiện, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế, góp phần giữ
vững ổn định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội; đã thu hẹp sự phân biệt giữa nhà đầu
2
tư trong nước và nước ngoài trong việc tiếp cận đất đai; khắc phục những bất cập về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đổi mới công tác giải quyết tranh chấp,
khiếu nại về thực hiện nghĩa vụ tài chính đối vơi việc sử dụng đất.
Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất đã tạo lập được cơ chế
hoạt động, phát triển tương đối đồng bộ; từng bước hoàn thiện chính sách tài chính
đất đai theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đã huy động được nguồn vốn xã hội
cho thị trường, thu hút đầu tư cho phát triển, đưa đất đai trở thành nguồn nội lực,
nguồn vốn để phát triển đất nước.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được triển khai đồng bộ ở các cấp; công tác
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện; cải cách thủ tục hành chính trong công
tác quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất được đẩy mạnh. Công tác quản lý
nhà nước về các khoản thu từ đất đã có nhiều chuyển biến, hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước về thuế nói chung và về các khoản thu từ đất nói riêng từng bước
được củng cố, cán bộ làm công tác quản lý các khoản thu từ đất được tăng cường.
Tuy nhiên, trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất
vẫn còn những tồn tại sau:
Pháp luật đất đai và các pháp luật khác có liên quan đến đất đai quy định còn
thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn dẫn đến việc áp dụng khó khăn. Mặt khác,
pháp luật về tài chính đối với các khoản thu từ đất còn một số nội dung chưa rõ ràng,
chưa phù hợp. Việc phân cấp thẩm quyền trong quản lý các khoản thu từ đất chưa đi
đôi với quy định cơ chế bảo đảm quản lý thống nhất của Trung ương. Công tác thanh
tra, giám sát thi hành pháp luật chưa nghiêm, trong khi chế tài xử lý vi phạm pháp
luật đối với các khoản thu từ đất còn thiếu và chưa đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi
vi phạm.
Nguồn lực tài chính về đất đai chưa được khai thác và phát huy đầy đủ để trở
thành nguồn nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc
sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp. Nhiều diện tích đất đã thu hồi để
thực hiện các dự án đầu tư nhưng tiến độ sử dụng chậm, còn để hoang phí đất đai, gây
nhiều bức xúc trong xã hội. Nhiều địa phương chưa quan tâm thực hiện cơ chế tạo
quỹ đất “sạch” để đấu giá quyền sử dụng đất, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Công tác quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất vẫn còn hạn chế, bất
cập. Quy hoạch sử dụng đất chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ với các quy hoạch
chuyên ngành, tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn yếu. Đăng
ký đất đai, đặc biệt là đăng ký biến động làm chưa tốt.
Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền định đoạt
3
của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải quyết hài hòa về
lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực hiện các
quyền. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất chưa nghiêm.
Quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai nói
chung và quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất nói riêng còn chưa đáp ứng
được yêu cầu dẫn đến nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp, kéo dài; nhiều bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành; tình hình khiếu nại,
tố cáo, tranh chấp trong lĩnh vực tài chính về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất còn bộc lộ những yếu
kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm” khá phổ biến. Tình
trạng đầu cơ đất đai còn xảy ra đẩy giá đất tăng cao đã có tác động không nhỏ đến ổn
định kinh tế vĩ mô. Chưa đáp ứng được nhu cầu nhà ở, đất ở của các đối tượng chính
sách xã hội, cán bộ công chức, người có thu nhập thấp. Việc cấp giấy chứng nhận đối
với đất ở tại đô thị còn chậm. Chính sách thuế chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết thị
trường bất động sản.
Thủ tục hành chính phục vụ công tác hành thu các khoản thu từ đất vẫn còn
rườm rà, thời gian giải quyết còn dài; một số địa phương còn quy định thêm thủ tục,
giấy tờ, chưa cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho người dân và doanh nghiệp;
chưa gắn việc thực hiện quy trình giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất với thủ tục về đầu tư và xây dựng; sự phối hợp giữa các cơ quan có liên
quan trong việc thực hiện các thủ tục chưa tốt.
Tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý các khoản thu từ đất còn
chưa đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ, nhất là ở cấp cơ sở. Đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý các khoản thu từ đất còn hạn chế.
Để khắc phục các tồn tại trên thì trong thời gian tới công tác quản lý nhà
nước về các khoản thu từ đất cần phải giải quyết những vấn đề như:
Sửa đổi các chính sách pháp luật tài chính đối với các khoản thu từ đất nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế; khai thác, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm
năng, nguồn lực đất đai để phát triển kinh tế - xã hội.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất;
tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất từ
Trung ương đến cơ sở.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong quá trình tổ chức hành thu các
khoản thu từ đất vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả tài nguyên đất vừa bảo đảm
4
dân chủ, công khai, minh bạch, thuận tiện cho người sử dụng đất thực hiện các quyền
và giám sát việc thực hiện của các cơ quan nhà nước nhằm hạn chế tham nhũng, lãng
phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và tập trung giải quyết các vướng
mắc, bất cập trong quản lý các khoản thu từ đất, giảm các khiếu kiện trong lĩnh vực
thực hiện nghĩa vụ tài chính của các khoản thu từ đất.
Như vậy, trong điều kiện thực tế hiện nay việc quản lý các khoản thu từ đất
đang được nhà nước quan tâm và trở thành một nhiệm vụ cấp bách ở Việt Nam trong
thời gian tới. Vì thế, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nƣớc đối với các khoản thu từ
đất ở Việt Nam” để thực hiện Luận án Tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận án là đề xuất được hệ thống các giải pháp có
tính khoa học và thực tiễn nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất
ở Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Về lý luận: Luận án tập trung làm rõ cơ sở lý luận của việc quản lý nhà nước
về các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay bao gồm: Xây dựng ban
hành các chính sách thu từ đất; Thiết lập bộ máy thu và triển khai thực hiện chính
sách thu; Thanh tra giám sát và xử lý hành vi vi phạm chính sách thu từ đất.
Về thực tiễn: Luận án phân tích thực trạng kết quả quản lý nhà nước về các
khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những vấn đề hạn chế,
bất cập của chính sách thu từ đất hiện hành và công tác quản lý nhà nước đối với các
khoản thu từ đất và đề xuất giải pháp hoàn thiện các chính sách cũng như công tác
quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất.
Để đạt được mục đích trên, luận án sẽ phải trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
1. Nội dung quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất? Có những tiêu chí nào
để đánh giá hoạt động quản lý? Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý?
2. Thực trạng quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất ở Việt Nam hiện nay ở
mức độ nào? Có gì bất cập? Nguyên nhân do đâu?
3. Những quan điểm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với các khoản
thu từ đất ở Việt Nam trong thời gian tới?
4.Giải pháp nào cần triển khai thực hiện để hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với các khoản thu từ đất ở Việt Nam?
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5
* Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là quản lý nhà nước về các khoản thu
từ đất liên quan đến quá trình sử dụng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở Việt Nam
trong giai đoạn 2007-2015, nội dung quản lý như: hoạch định chính sách, tổ chức bộ
máy và phân cấp quản lý, thanh tra giám sát và xử lý vi phạp pháp luật của cơ quan
thuế các cấp, các tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả quản lý và nhân tố ảnh hưởng.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về chính sách: Luận án phân tích và làm rõ chính sách quản lý nhà nước đối với
khoản thu từ đất gồm những chính sách thu nào. Do chính sách thu từ đất khá đa dạng nên
luận án chỉ tập trung nghiên cứu chính sách thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thuê mặt
nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng bất động
sản, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, lệ phí trước bạ đối với đăng ký quyền sở hữu, sử
dụng tài sản là nhà, đất; không nghiên cứu các chính sách thuế phí khác.
Về chủ thể quản lý nhà nước: Tham gia quản lý nhà nước đối với các khoản thu
từ đất có nhiều chủ thể: Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, UBND các cấp… Do phạm vi nghiên cứu quá rộng, luận án không có điều kiện
nghiên cứu sâu (chỉ nghiên cứu tổng quan) hoạt động quản lý của tất cả các chủ thể, trên
cơ sở đó, tập trung nghiên cứu sâu công tác quản lý nhà nước của ngành thuế đối với các
khoản thu từ đất thông qua việc thực thi các chính sách thu nêu trên. Điều này xuất phát
từ quan điểm tiếp cận: các cơ quan quản lý thuộc ngành thuế là cơ quan trực tiếp tham
gia soạn thảo chính sách quản lý nhà nước trình cơ quan có thẩm quyền quyết định ban
hành chính sách; là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động quản lý thu nộp các
khoản thu từ đất và thanh tra, giám sát xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Về nội dung quản lý: Luận án tập trung nghiên cứu 3 nhóm nội dung lớn:
hoạch định chính sách, tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý, thanh tra giám sát và xử
lý vi phạm pháp luật. Trong các hoạt động quản lý của cơ quan thuế, luận án đi sâu
nghiên cứu, phân tích ba mảng hoạt động chính: quản lý đăng kí và cấp mã số thuế,
quản lý kê khai và thu nộp các khoản thu từ đất và hoạt động thanh tra giám sát.
Về thời gian nghiên cứu: Do Luật quản lý thuế có hiệu lực thì hành kể từ ngày
1/7/2007 và theo quy định của Luật quản lý thuế thì người nộp thuế sẽ chuyển sang cơ chế
tự khai, tự nộp và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nên phần thực trạng NCS nghiên
cứu cho giai đoạn 2007-2015 và phần phương hướng và đề xuất quản lý nhà nước về các
khoản thu từ đất áp dụng cho định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025.
Về không gian: Luận án nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với các
khoản thu từ đất ở Việt Nam giai đoạn 2007-2015, bao gồm quản lý về các khoản thu
từ đất và việc ban hành chính sách, quản lý thực thi chính sách.
4. Những đóng góp mới của luận án
6
Luận án đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn như sau:
Về lý luận: Phân tích rõ hơn nội dung quản lý nhà nước đối với các khoản thu
từ đất; xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
các khoản thu từ đất và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thu thuế và lệ phí liên quan đến sử dụng, chuyển nhượng quyền sử dụng nhà, đất.
Trên cơ sở kinh nghiệm về công tác quản lý các khoản thu từ đất ở một số
nước trên thế giới luận án đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Về thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về các
khoản thu từ đất (theo các tiêu chí đánh giá đã xác lập) trên cơ sở dữ liệu thu thập từ
Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Thuế, Tổng cục Thống kê và
dữ liệu sơ cấp thu thập được qua quá trình điều tra. Luận án đã rút ra những điểm
mạnh và kết quả đạt được, những hạn chế và các nguyên nhân dẫn đến các hạn chế
trong công tác quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Đề xuất hoàn thiện một số chính sách về các khoản thu từ đất ở Việt Nam hiện
nay như chính sách thu tiền sử dụng đất; chính sách thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
từ chuyển nhượng bất động sản; chính sách thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng
bất động sản.
Đề xuất thay thế chính sách thu Lệ phí trước bạ hiện nay bằng Luật thuế tài
sản.
Đề xuất hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước để thuận tiện trong công tác hành
thu các khoản thu từ đất.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách
của Vịêt Nam tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách cũng như hoàn thiện
công tác quản lý đối với các khoản thu từ đất.
5. Kết cấu của Luận án
Ngoài các trang bìa, mục lục, danh mục các bảng số liệu, các từ viết tắt và các
đồ thị, các phần mở đầu và kết luận danh mục các công trình đã công bố liên quan
đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia thành 4
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất ở Việt Nam
Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối
với các khoản thu từ đất ở Việt Nam
7
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Trong thời gian qua có rất nhiều các công trình nghiên cứu về đất đai và chính
sách về các khoản thu từ đất. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung đối với
việc huy động nguồn lực tài chính từ đất, các giải pháp về giá đất, các chính sách về
thuế đối với đối với thị trường bất động sản ...
* Các nghiên cứu về quản lý và khai thác các nguồn lực tài chính từ đất
Các nghiên cứu điển hình về vấn đề này gồm: Nguyễn Đình Bồng (tháng
12/2011) kỷ yếu Hội thảo khoa học động viên tài chính từ đất đai để đầu tư phát triển
hạ tầng cơ sở “Chính sách bồi thường khi thu hồi đất, những bất cập, vướng mắc và
kiến nghị”[11]; Lê Cao Đoàn (tháng 12/2011) kỷ yếu Hội thảo khoa học động viên tài
chính từ đất đai để đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở “Đất đai trong nền kinh tế thị
trường[16]; Trần Đức Thắng (Luận án tiến sĩ năm 2012) “Khai thác nguồn lực tài
chính từ đất đai tại Việt Nam”[42].
Tác giả Nguyễn Đình Bồng đã khái quát về chính sách bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất giai đoạn từ năm 1954 đến nay đặc biệt là giai đoạn từ năm 2003 đến
nay, tức là từ sau khi luật đất đai năm 2003 thì chính sách đền bù, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất đi vào bước hoàn thiện, có tác dụng trong việc đảm bảo cân
đối và ổn định cho phát triển, khuyến khích được nhà đầu tư và tương đối giữ được
nguyên tắc công bằng, người bị thu hồi đất được đặt vào vị trí trung tâm để giải quyết
mọi xung đột, các lợi ích phi vật thể bắt đầu được quan tâm, các hiệu quả xã hội …
Trong bài viết tác giả đưa ra tình hình thực hiện chính sách bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất; những bất cập của chính sách, pháp luật hiện hành về bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất; các giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất và cuối cùng tác giả đưa ra kinh nghiệm quốc tế về chính sách bồi
thường khi thu hồi đất. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến công tác bồi thường hỗ trợ,
tái định cư chưa đề cập đến Quản lý nhà nước từ các khoản thu từ đất ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Theo tác giả Lê Cao Đoàn để sử dụng một cách có hiệu quả và quản lý đất đai
với tính cách là một yếu tố, một nguồn lực đặc thù của sự phát triển kinh tế, cần phải
8
hiểu đất đai như thế nào trong một nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế thị trường
được xác lập, của cải mang hình thái hàng hoá và trao đổi, mua bán trở thành một
quan hệ, một quá trình quyết định thì cũng như tất cả của nền kinh tế thị trường, thì
đất đai tất yếu phải mang quan hệ giá trị, quan hệ hàng hoá. Là sản phẩm tự nhiên có
nhiều chức năng gắn với đất đai nên nó là một hàng hoá đặc biệt là một hàng hoá duy
nhất không sản xuất ra được, do nó là hàng hoá đặc biệt nên thị trường đất đai cũng là
thị trường đặc biệt.
Theo tác giả thì đất đai còn là một nguồn lực, một tư bản vốn, cụ thể:
Đất đai là một nguồn lực, là một yếu tố hợp thành của quá trình sản xuất, quá
trình làm tăng thêm giá trị, vì vậy, bản thân đất đai trong nền kinh tế thị trường cũng
như tất cả các nguồn lực khác, cũng mang hình thái tư bản, hình thái vốn tài chính.
Từ hai yêu tố chính trên tác giả đưa ra những vấn đề cốt yếu về đất đai trong
phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam như sau:
Cần phát triển một nền kinh tế thị trường phù hợp với sự phát triển hiện đại
làm cơ sở trong đó đất đai hoá và vận động với tính các là một nguồn lực, một động
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội;
Có một thể chế và bộ luật phản ánh làm cơ sở pháp lý cho quá trình đất đai
chuyển hoá thành một hàng hoá, thành các nguồn vốn, thành một lĩnh vực đầu tư kinh
doanh và thực hiện tốt chức năng thế chấp trong hệ thống thị trường vốn;
Thay đổi tư duy về sử dụng đất và quản lý đất;
Xác định rõ chủ thể sở hữu đất đai;
Đất đai là đối tượng vật chất và là hàng hoá đặc biệt.
Như vậy, trong bài viết tác giả chỉ đưa ra lý luận về đất đai trong nền kinh tế
thị trường hiện nay và đưa ra những kiến nghị để đất đai trở thành một hàng hoá, một
nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập đến vấn đề
quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong luận án tiến sĩ của Trần Đức Thắng tác giả đã đưa ra một số quan điểm,
định hướng và đề xuất một hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường khai thác nguồn
lực tài chính từ đất đai trong thời gian tới với 03 nhóm giải pháp từ quy hoạch hoàn
thiện cơ chế chính sách cho đến các giải pháp hỗ trợ, trong đó tác giả đặc biệt quan
tâm đến giải pháp về giá đất, tài chính đất đai, khai thác quỹ đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng. Trên cơ sở đó, tác giả đã mạnh dạn có các kiến nghị cụ thể đối với nhà nước
liên quan đến sửa đổi, bổ sung Luật đất đai năm 2003; Quy định sắp xếp, xử lý nhà
đất thuộc sở hữu, nhà nước; quy định quản lý khai thác, sử dụng đất đai đối với các
tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Về cơ sở lý luận và thực tiễn của các vấn đề liên quan đến tài chính đất đai tác
9
giả đã sử dụng phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, thống kê và các số liệu
giai đoạn từ 2000-2010 để nghiên cứu cho đề tài. Tuy nhiên, Luận án mới chỉ đề cập
đến việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai chưa đề cập đến quản lý nhà nước
đối với các khoản thu từ đất trong đó cụ thể chưa đề cập đến các chính sách về thu
khi chuyển nhượng bất động sản của các tổ chức và cá nhân và các khoản lệ phí phải
đóng góp khi đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản là nhà, đất.
* Các nghiên cứu về chính sách thuế, phí liên quan đến sử dụng và chuyển
nhƣợng quyền sử dụng đất
Về chính sách thu thuế và phí liên quan đến sử dụng và chuyển nhượng quyền
sử dụng đất có các công trình nghiên cứu sau: Chu Thị Thuỷ Chung (Luận án tiến sĩ
năm 2009) “Hoàn thiện chính sách thu đối với đất đai ở Việt Nam”[14]; Nguyễn Văn
Phụng (tháng 9/2011) kỷ yếu Hội thảo khoa học kiểm toán thu sử dụng đất với việc
tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý đất đai tại
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương “ Hệ thống chính sách thu tài chính liên
quan đến đất đai và thị trường bất động sản”[34]; Trịnh Hải Hà (tháng 9/2011) kỷ yếu
Hội thảo khoa học kiểm toán thu sử dụng đất với việc tăng cường quản lý thu ngân
sách Nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý đất đai tại các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương “ Các giải pháp hoàn thiện quy định về thu ngân sách nhà nước từ đất đai
tại Việt Nam”[19]; Đinh Văn Hải (Tạp chí tài chính số 10/2012) “Chính sách tài
chính đất đai: Kết quả đạt được và một số kiến nghị”[20]; Vương Đình Huệ (Tạp chí
tài chính số 10/2012) “Đổi mới chính sách pháp luật tài chính đất đai phục vụ phát
triển kinh tế” theo tác giả thì cùng với quá trình thực hiện “đổi mới”[24]; Ngô Xuân
Thanh (Tạp chí tài chính số 10/2012) “Hoàn thiện chính sách giá tính các khoản thu
từ bất động sản tại Việt Nam” [41]; Đặng Hùng Võ (Tạp chí tài chính số 10/2012)
“Đổi mới pháp luật về tài chính đất đai” [52]; Vũ Sỹ Cường (tháng 12/2011) kỷ yếu
Hội thảo khoa học động viên tài chính từ đất đai để đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở “
Nguồn thu từ đất đai với ngân sách địa phương ”[15];
Trong Luận án tiến sĩ của tác giả Chu Thị Thuỷ Chung tác giả đưa ra cơ sở lý
luận về đất đai, nguồn tài chính từ đất đai, bản chất nguồn thu NSNN từ đất đai và
các chính sách thu đối với đất đai. Phần thực trạng tác giả hệ thống các chính sách thu
từ đất của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2008 nêu lên thực trạng các chính sách thu
từ đất, thực trạng quỹ đất, những tồn tại của các chính sách. Từ đó tác giả đề xuất các
giải pháp hoàn thiện chính sách thu đối với đất cho giai đoạn 2010-2015.
Trong công trình nghiên cứu tác giả đã hệ thống hoá các vấn đề nghiên cứu
trong giai đoạn 2001-2008 cả về mặt lý luận và thực tiễn để phục vụ công tác nghiên
cứu. Tuy nhiên, Luận án mới chỉ dừng lại ở việc hệ thống các chính sách và nêu lên
những tồn tại của chính sách và đề xuất phương án hoàn thiện các chính sách thu mà
10
chưa đề cập đến công tác quản lý nhà nước về các khoản thu. Mặt khác, với đề xuất
giải pháp tác giả đưa ra giải pháp cho giai đoạn 2010-2015.
Theo tác giả Nguyễn Văn Phụng thì quy định hiện hành của pháp luật về đất
đai thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật.
Nhà nước ban hành các chính sách và pháp luật về tài chính nhằm động viên các
nguồn thu từ đất đai vào ngân sách nhà nước. Các tổ chức, cá nhân được Nhà nước
giao đất để sử dụng vào các mục đích khác nhau hoặc khi tham gia vào thị trường bất
động sản thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với từng hành vi cụ thể về sử dụng đất,
từng giao dịch về quyền sử dụng đất.
Theo quy định hiện hành thì hệ thống chính sách liên quan đến đất đai gồm có
các khoản thuế, lệ phí theo quy định của pháp luật và các khoản thu được ban hành
dưới hình thức Nghị định của Chính phủ trong khuôn khổ quy định của Luật đát đai,
Luật ngân sách nhà nước. Tác giả xét trên quá trình vận động của đất đai thị trường
bất động sản bao gồm các khoản thu:
Khi xác lập quyền sở hữu, quyền sử dụng và thu khi đăng ký quyền sở hữu, sử
dụng nhà, đất có các khoản thu: Tiền sử dụng đất; tiền thuê đất; tiền bán nhà thuộc sở
hữu nhà nước; lệ phí trước bạ.
Trong quá trình sử dụng đất có Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế nhà đất
(từ năm 2012 là Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp).
Khi chuyển nhượng quyền sở hữu, sử dụng có Thuế thu nhập cá nhân và thuế
thu nhập doanh nghiệp (đối với tổ chức).
Tác giả đã hệ thống lại toàn bộ hệ thống các chính sách này. Tuy nhiên, tác giả
chưa đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Theo tác giả Trịnh Hải Hà với quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do
Nhà nước thống nhất quản lý thì các chính sách thu ở giai đoạn này chỉ mang tính
chất tượng trưng để thể hiện vai trò quản lý của nhà nước chứ chưa thực sự phản ánh
đúng về giá trị đem lại nguồn thu cho NSNN cũng như thể hiện hiệu quả trong việc
sử dụng đất. Mặt khác, xét về góc độ kinh tế xã hội thì ở thời kỳ này, nền kinh tế vẫn
lấy nông nghiệp làm gốc nên khi xác định các tiêu chí để làm căn cứ xây dựng các
chính sách thu từ đất, thì các chính sách cơ bản, đem lại nguồn thu chính là thuế
SDĐNN, thuế nhà đất cũng vẫn sử dụng tiêu chí thuế SDĐNN, tức là tiêu chí để xác
định hiệu quả sử dụng đất vẫn phải xuất phát từ chất đất, hạng đất, độ phì, độ màu
của đất… là những yếu tố căn bản quyết định mức thuế SDĐNN. Các chính sách
khác như thu tiền SDĐ, tiền TĐ, lệ phí trước bạ đất cũng đã tính đến các yếu tố về lợi
thế thương mại của vị trí đất, tuy nhiên, thời kỳ này nền kinh tế vẫn còn vận hành
theo cơ chế bao cấp, sự quản lý của nhà nước về đất đai không tập trung, không rõ
11
ràng nên các khoản thu này cũng chưa được chú trọng, số thu từ đất đai hàng năm chỉ
chiếm khoảng 3% - 5% trong tổng thu ngân sách.
Từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện một số chính sách về là
thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế nhà đất, thu tiền thuê đất, thu tiền sử dụng đất.
Tuy nhiên, tác giả không đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Theo tác giả Đinh Văn Hải với sự ra đời của Luật đất đai năm 2003 đã đánh
dấu bước phát triển quan trọng trong chính sách tài chính đất đai bằng hàng loạt các
quy định đổi mới mang tính tiến bộ, phù hợp với cơ chế thị trường. Bên cạnh chính
sách thu ngân sách nhà nước đối với đất đai, Nhà nước đã ban hành chính sách khai
thác nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội và phát triển các công cụ
kinh tế để thực hiện chính sách này.
Tác giả mới chỉ tiếp cận vấn đề ở một số chính sách nhằm phát huy khả năng
thu ngân sách nhà nước đối với các khoản thù từ đất đồng thời kiến nghị một số giải
pháp liên quan đến giá đất, cơ chế bồi thường hỗ trợ, tái định cư. Tác giả không đề
cập đến quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất ở Việt Nam.
Theo tác giả Vương Đình Huệ thì cùng với quá trình thực hiện “đổi mới” và sự
hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì
chính sách, pháp luật về đất đai cũng đã từng bước được thay đổi cho phù hợp. Từ
Luật Đất đai năm 2003, lần đầu tiên, vấn đề tài chính đất đai được đề cập đầy đủ, toàn
diện với tư cách vừa là một công cụ quản lý nhà nước về đất đai, vừa là đối tượng,
nguồn lực cần phải được quản lý, khai thác sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu
quả.
Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và yêu cầu không
ngừng hoàn thiện thể chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, Luật Đất đai
năm 2003 nói chung và chính sách, pháp luật về tài chính đất đai nói riêng đã bộc lộ
một số hạn chế như: chưa xác định rõ và vận dụng có hiệu quả phương thức quản lý,
sử dụng đất đai cũng như các công cụ điều tiết trong kinh tế thị trường; sự thiếu hụt
các chế định rõ ràng về xác định giá đất theo thị trường, đặc biệt về điều tiết giá trị
tăng thêm không do người sử dụng tạo ra; vì vậy, nguồn thu từ đất chưa được tập
trung đầy đủ vào ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước
cũng chưa dẫn dắt, kiểm soát được thị trường bất động sản theo hướng có lợi cho Nhà
nước và đông đảo nhân dân, khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả. Trong
phạm vi bài viết tác giả trao đổi về 02 vấn đề lớn có liên quan đến tài chính, đó là: giá
đất và tài chính đối với đất đai.
Tác giả đưa ra trao đổi về 02 vấn đề lớn có liên quan đến tài chính, đó là: giá
đất và tài chính đối với đất đai. Tuy nhiên, tác giả không đề cập đến vấn đề quản lý
12
nhà nước đối với các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Theo tác giả Ngô Xuân Thanh hiện nay, hệ thống chính sách thu từ bất động
sản (BĐS) ở Việt Nam với 7 khoản thu có thể được phân chia thành 3 nhóm: (i) Các
khoản thu khi xác lập quyền sở hữu; (ii) Các khoản thu khi sử dụng BĐS; (iii) Các
khoản thu phát sinh trong quá trình chuyển nhượng BĐS.
Trong mỗi chính sách thu trên, có 3 yếu tố cấu thành chủ yếu là thuế suất, diện
tích và giá tính thu. Trong đó, thuế suất và diện tích BĐS tính thu về cơ bản là rõ
ràng, dễ xác định, duy chỉ có giá tính các khoản thu liên quan đến nhà đất hiện nay là
chưa thống nhất về phương pháp xác định. Mỗi địa phương có cách xác định giá khác
nhau, tạo nên nhiều loại giá khác nhau và gây khó khăn không ít cho việc triển khai
các chính sách thu liên quan đến BĐS ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, toàn bộ các chính sách thu từ bất động sản (nhà, đất) và
chính sách giá để tính các khoản thu bất động sản tại Việt Nam bên cạnh những thành
công, còn có không ít hạn chế. Các chính sách thu và chính sách giá tính các khoản
thu từ bất động sản cần được hoàn thiện, nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản phát
triển ổn định, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước. Tác giả đã đưa ra những kết
quả đạt được và những mặt hạn chế và đưa ra giải pháp thực hiện về chính sách giá
tính các khoản thu. Tác giả chưa đề cập đến quản lý nhà nước đối với các khoản thu
từ đất ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Theo tác giả Đặng Hùng Võ việc tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính đất đai
trong Luật Đất đai có tầm quan trọng đặc biệt, giúp khơi thông nguồn lực tài chính từ
đất đai, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Bài viết đặt ra vấn đề nghiên
cứu đổi mới hệ thống quản lý giá đất trong dự án Luật Đất đai sửa đổi nhằm phát huy
hiệu quả nguồn lực từ đất đai. Tác giả đưa ra những bất cập chủ yếu hiện nay mặc dù
Luật Đất đai đã quy định giá đất của Nhà nước phải phù hợp giá thị trường nhưng cả
khung giá đất của Chính phủ và bảng giá đất của UBND cấp tỉnh đều thấp hơn giá thị
trường khá nhiều. Nhiều UBND thành phố lớn đều cho rằng không thể đưa bảng giá
đất lên cao hơn vì khung giá của Chính phủ rất thấp. Luật Đất đai có quy định giá đất
của Nhà nước được sử dụng vào tất cả mọi mục đích nhưng vì bảng giá đất quá thấp
nên Chính phủ đã quy định UBND cấp tỉnh phải quyết định giá cho phù hợp với thị
trường trong 4 trường hợp gồm: Nhà nước giao đất, Nhà nước cho thuê đất, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và cổ phần hóa DNNN có giá trị quyền sử dụng đất.
Đây là một khoảng không hợp lý của Luật Đất đai năm 2003 mà Chính phủ đã điều
chỉnh cho hợp lý, cần xem như một thực tiễn đã được kiểm định để điều chỉnh lại nội
dung của Luật Đất đai. Tác giả chưa đề cập đến quản lý nhà nước về các khoản thu từ
đất ở Việt Nam nói chung.
Theo tác giả Vũ Sỹ Cương nguồn thu từ đất đai với ngân sách địa phương ”
13
trong bài viết tác giả đã đề cập đến vai trò của thu từ đất đai trong ngân sách địa
phương cụ thể là:
Chính quyền địa phương là người trực tiếp cung cấp các dịch vụ công cộng
như giáo dục, y tế, môi trường nên họ phải được bù đắp chi tiêu từ nguồn thu đất đai
đánh trên các đối tượng hưởng lợi trực tiếp là người sử dụng đất đai, bất động sản.
Địa phương cũng là cấp chính quyền hiểu rõ nhất chất lượng dịch vụ và điều kiện
sinh sống mà họ cung cấp cho dân cư nên họ sẽ sử dụng nguồn tài chính từ đất đai có
hiệu quả hơn Trung ương.
Thu ngân sách từ đất đai phải có tương quan chặt chẽ với các điều kiện về cơ
sở hạ tầng và các dịch vụ công cộng tại địa phương.
Trong nguồn thu từ đất đai thì thuế với đất đai, bất động sản giữ vai trò quan
trọng nhất vì là những loại thuế có thể đã ứng được nguyên tắc lợi ích.
Tác giả đề cập đến các nguồn thu từ đất đai trong ngân sách nhà nước và ngân
sách địa phương bao gồm:
Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
Thu từ cho thuê đất;
Thu từ thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp;
Như vậy tác giả chỉ đề cập chủ yếu vai trò của một số nguồn thu từ đất đai đối
với ngân sách địa phương, chưa đề cập đến quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ
đất ở Việt Nam.
* Các nghiên cứu về quản lý và kiểm toán thu sử dụng đất
Về quản lý nhà nước về đất và các khoản thu liên quan đến sử dụng, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất có các công trình nghiên cứu sau:
Vũ Công Nhĩ, Nguyễn Viết Uống, Phạm Văn Trung, Đỗ Thị Thùy Châu, Phan
Thị Biên, Hoa Hải Nam (đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành thuế năm 2013) “Giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh, chuyển
nhượng bất động sản”[32]. Lê Huy Trọng (tháng 9/2011) kỷ yếu Hội thảo khoa học
kiểm toán thu sử dụng đất với việc tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước và
nâng cao hiệu lực quản lý đất đai tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương “Mục
tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán thu tiền sử dụng đất do Kiểm toán Nhà
nước”[50]; Nguyễn Văn Hào (tháng 9/2011) kỷ yếu Hội thảo khoa học kiểm toán thu
sử dụng đất với việc tăng cường quản lý thu ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu
lực quản lý đất đai tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương “Kiểm toán nguồn
thu ngân sách Nhà nước từ nhà, đất gắn với việc tăng cường quản lý thu ngân sách
nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý đất đai tại các tỉnh, thành phố trực thuộc tung
14
ương” [22];
Đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động
kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản”. Trong đề tài nhóm tác giả chủ yếu đề cập
đến các loại thuế và phí như thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh
nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và lệ phí trước bạ (LPTB) từ hoạt
động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản. giớn hạn khảo sát trên địa bàn thành
phố Hải Phòng và một số tỉnh lân cận như Thái Bình, Nam Định và Bắc Ninh.
Đề tài là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh, chuyển
nhượng bất động sản; chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh, chuyển
nhượng bất động sản và thực tiễn hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động
sản có phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật bao gồm: Những lý
luận cơ bản về kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản; Thực tiễn công tác quản
lý thu thuế đối với hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản tại thành
phố Hải Phòng và một số tỉnh lân cận; Kết quả quản lý thuế; những vướng mắc,
bất cập trong quá trình thực hiện chức năng quản lý thuế đối với hoạt động kinh
doanh, chuyển nhượng bất động sản. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
thuế đối với hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản. Những ý kiến đề
xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách liên quan trực triếp đến các loại thuế phát
sinh từ hoạt động kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản.
Trong đề tài nhóm tác giả đã sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp,
phân tích để tổng hợp những sự việc phát sinh tại nơi làm việc và một số tỉnh lân cận
trên cơ sở đó nêu lên những điểm còn tồn tại mà chính sách chưa bao trùm hết đưa ra
các giải pháp nhằm quản lý đối với các đối tượng lợi dụng sơ hở trong chính sách để
trục lợi.
Tuy nhiên, trong đề tài nhóm tác giả mới chỉ tiếp cận dưới góc độ tổng hợp các
sự vụ cụ thể xảy ra tại thành phố Hải Phòng và một số tỉnh lân cận đối với các hồ sơ
liên quan đến hoạt động kinh doanh bất động sản. Đề tài chưa đề cấp đến vấn đề quản
lý nhà nước về đất đai hay quản lý các khoản thu từ đất.
Theo tác giả Lê Huy Trọng trong những năm gần đây, thu tiền sử đất là nguồn
thu quan trọng của ngân sách các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; nguồn thu
này liên tục tăng và trở thành một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển
kỉnh tế- xã hội của đất nước nói chung các địa phương nói riêng. Tuy nhiên, nguồn
thu sử dụng đất vẫn chưa tương xứng với tiềm năng quỹ đất; chính sách thuế và phí
trong lĩnh vực quản lý đất đai chưa điều tiết hợp lý nguồn thu từ đất vào ngân sách
Nhà nước; chưa trở thành công cụ quản lý thị trường, chống đầu cơ về đất đai,
khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả.
Mục tiêu kiểm toán sử dụng đất nhằm:
15
Xác định việc thu tiền sử dụng đất đảm bảo đúng, đủ, kịp thời vào Ngân sách
Nhà nước;
Đánh giá việc tuân thủ pháp luật trong tổ chức, quản lý thu tiền sử dụng đất ở
địa phương;
Phát hiện kịp thời hành vi tham nhũng, lãng phí, sai phạm trong quản lý đất
đai; xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và kiến nghị xử lý vi phạm;
Kiến nghị với đơn vị được kiểm toán về các sai phạm và biện pháp khắc phục
trong quản lý đất đai cũng như thu tiền sử dụng đất; đề xuất với Chính phủ và UBND
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương những kiến nghị sửa đổi, cải tiến cơ chế
quản lý, sử dụng đất nhằm tăng cường quản lý thu NSNN và nâng cao hiệu quả quản
lý đất của các địa phương.
Như vậy, trong khuôn khổ của bài viết tác giả chỉ đề cập đến cơ sở, nội dung
kiểm toán đối với tiền sử dụng đất tại một số tỉnh ở Việt Nam, tác giả chưa đề cập
đến vấn đề quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Theo tác giả Nguyễn Văn Hào đất đai là một tài sản đặc biệt bởi nó có cả giá
trị và giá trị sử dụng. Chính vì tính hữu hạn về diện tích và giá trị đặc biệt của đất,
nên việc sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả là một yêu cầu quan trọng đối với yêu
cầu quản lý của Nhà nước ta hiện nay. Vì vậy, kiểm toán nguồn thu NSNN từ nhà,
đất gắn với việc tăng cường quản lý thu NSNN và nâng cao hiệu lực quản lý đất đai
tại các tỉnh, thành phố thuộc trung ương, sẽ góp phần nhìn nhận, đánh giá lại việc
quản lý đất đai của nước ta trong thời gian qua, đặc biệt là vai trò của KTNN trong
việc góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất, từ đó có những kiến nghị để
công tác này ngày được tốt hơn
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà
nước, hoạt động độc lập tuân thủ theo pháp luật; thực hiện kiểm tra, đánh giá và xác
nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách
nhà nước; kiểm tra, đánh giá và xác nhận việc tuân thủ pháp luật, mà đơn vị được
kiểm toán phải tuân thủ; kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong
quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Những thông tin của Kiểm
toán Nhà nước thể hiện sự đánh giá khách quan của cơ quan chuyên nghiệp, độc lập
nên vô cùng quan trọng đối với các cơ quan, đơn vị trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình về ngân sách nhà nước và quản lý tài sản công.
Trong khuôn khổ bài viết tác giả đã nêu lên vai trò của cơ quan kiểm toán nhà
nước trong việc quản lý nhà nước đối với nguồn thu NSNN nói chung và các khoản
thu từ đất nói riêng. Tuy nhiên, về công tác quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất
ở Việt Nam tác giả chưa đề cập đến trong bài viết này.
16
1.1.1.2. Tổng quan tính hình nghiên cứu nƣớc ngoài
Các nghiên cứu ngoài nước liên quan đến quản lý nhà nước về các khoản thu
từ đất không nhiều. Mặt khác các nghiên cứu ở nước ngoài đều xuất phát từ thực tiễn
của nước đó và hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan tương đối đầy đủ và có độ tin cậy
cao, trong khi ở Việt Nam hiện nay cơ sở dữ liệu không đầy đủ độ tin cậy của dữ liệu
thấp. Do đó, trong Luận án tác giả chỉ đưa ra một vài nghiên cứu ở các nước mang
tính đặc trưng có thể nghiên cứu và vận dụng được trong điều kiện Việt Nam. Cụ thể
có một số tác giả nghiên cứu như sau:
Dr William J MCCluskey (năm 2013) “Kinh nghiệm của các nước trên thế
giới bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển có điều kiện tương đồng với
Việt Nam liên quan đến chính sách thuế bất động sản”[55]; Jay K. Rosengard (năm
2011) “Cải cách thuế bất động sản tại các nước đang phát triển”[28].
Trong nghiên cứu của Dr William J MCCluskey tác giả đã giới thiệu một cách
có hệ thống chính sách thuế bất động sản ở một số nước trên thế giới đang áp dụng
hiện nay. Tác giả đưa ra cơ sở tính thuế, ai phải trả thuế, cơ quan nào quản lý thuế bất
động sản; tùy theo tính chất của từng loại thuế và pháp luật về xây dựng cơ chế quản
lý thuế để các nhà quản lý thuế có thể hoạt động ở cấp quốc gia (trên phạm vi cả nước
) hay cấp địa phương (từng địa phương). Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đề cập đến hệ
thống chính sách thuế về bất động sản mà chủ yếu là nhà chưa nói đến vấn đề quản lý
nhà nước đối với các khoản thu từ đất.
Theo tác giả Jay K. Rosengard đưa ra các nguyên tắc cải tổ trong cải cách thuế
bất động sản tại các nước đang phát triển đó là hiệu quả phân bổ và quản lý công
bằng theo chiều dọc hoặc chiều ngang và tính bền vững của hệ thống. Điều này tạo ra
được nguồn thu một cách bền vững về mặt tài chính, thúc đấy sự minh bạch trong
chính sách và rõ ràng về hành chính; sử dụng các biện pháp khuyến khích dành cho
cá nhân và tổ chức, tuyên truyền thông tin cho công chúng; tạo thuận lợi cho thay đổi
về chính sách thuế, cơ chế hành chính và hành vi còn người; cải thiện dịch vụ, liên
kết giữa chính sách với thực tiễn cũng như cơ chế quản lý của nhà nước, thực hiện
theo từng giai đoạn. Tác giả đưa ra kinh nghiệm cải cách về chính sách thuế bất động
sản của Indonesia, Philipines, Jamaica …
Tác giả mới chỉ đề cập đến việc cải cách chính sách thuế về bất động sản, các
biện pháp cải cách về chính sách thuế bất động sản để nhằm khuyến khích các tổ
chức, cá nhân, liên kết giữa chính sách với thực tế chưa tiếp cận đến vấn dề quản lý
nhà nước về các khoản thu từ đất nói chung.
Nghiên cứu về cải cách hệ thống thuế BĐS, nổi trội trong khu vực là các
nghiên cứu về cải cách thuế BĐS của Indonesia. Jay K. Rosengard (1998) [99] đã hệ
thống các thành công của ngành thuế Indonesia sau 6 năm nghiên cứu hoàn thiện
17
chính sách và cơ chế thuế BĐS trên cơ sở hợp nhất từ 7 luật thuế khác nhau liên quan
đến BĐS. Thành công trong cải cách thuế của Indonesia không những là có một hệ
thống thuế rõ ràng, thống nhất, đơn giản và phổ biến mà điểm nổi bật nhất của cải
cách này là hệ thống điểm nộp thuế (Sistem Tempat Pembaya - SISTEP), sau một
năm thực hiện, hiệu quả thu thuế tăng từ 65% đến 79%.
1.1.2. Giới hạn và khoảng trống nghiên cứu
1.1.2.1 Những giới hạn của các nghiên cứu trƣớc đây
Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan cho thấy: Hầu hết các
công trình đều sử dụng phương pháp định tính kết hợp với phương pháp phân tích,
thống kê, tổng hợp để giải quyết vấn đề. Với các Luận án tiến sĩ, đề tài cấp ngành
triển khai theo logic hệ thống từ cơ sở lý luận, đến phân tích thực trạng, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp khắc phục. Với các bài báo khoa học thì chủ yếu dừng lại ở việc
phân tích thực trạng của vấn đề để đưa ra định hướng giải pháp hoàn thiện. Tuy
nhiên, nghiên cứu của các tác giả trong nước cũng như nước ngoài còn có những giới
hạn sau:
Một là, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp là một tỉnh
chưa nghiên cứu ra phạm vi cả nước.
Hai là, các nghiên cứu này chỉ nghiên cứu đơn lẻ theo một vài chính sách như
chính sách về quản lý tài nguyên đất đai, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất hoặc chính
sách đền bù, giải phóng mặt bằng hoặc chỉ đề cập đến vấn đề liên quan đến thị trường
bất động sản.
Ba là, thời gian của các dữ liệu nghiên cứu phổ biến trong giai đoạn từ năm
2001-2011 trong khi nhiều chính sách đối với các khoản thu từ đất trong thời gian
qua đến nay có nhiều thay đổi đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Luật đất đai năm
2013 thay thế Luật đất đai năm 2003.
Bốn là, các tác giả chủ yếu đưa ra các giải pháp về khai thác nguồn thu mà
chưa làm rõ nội dung, quy trình quản lý nhà nước đối với các khoản thu.
1.1.2.2 Khoảng trống nghiên cứu
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có thể khẳng định rằng, cho đến thời
điểm hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý nhà
nước đối với các khoản thu từ đất. Hiện đang có một “khoảng trống” cả về lý luận
cũng như đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất giai đoạn 2007
đến 2015, cụ thể bao gồm các vấn đề chính sau:
- Cơ sở lý luận về nội dung, quy trình quản lý nhà nước nói chung, của ngành
thuế nói riêng đối với các khoản thu từ đất;
- Nội dung công tác quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất ở Việt
18
Nam; Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung quản lý và tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thiện của hoạt động quản lý nhà nước về các khoản thù từ đất;
- Các khảo sát, đánh giá toàn diện về thực trạng công tác quản lý nhà nước về
các khoản thu từ đất; ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý đối với
các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay;
- Các đề xuất có cơ sở khoa học và thực tiễn về định hướng và giải pháp hoàn
thiện công tác quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất ở Việt Nam giai đoạn từ nay
đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất.
Từ đó, cho phép NCS triển khai thực hiện đề tài luận án để làm rõ các khoảng
trống nêu trên. Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án, NCS có tham khảo, kế
thừa một số lý luận cơ bản về các khoản thuế, phí liên quan đến quản lý, sử dụng,
chuyển nhượng đất; các kết luận rút ra từ thực tiễn thực thi chính sách thu trong giai
đoạn trước đây; các phương pháp nghiên cứu mà tác giả của các công trình đã công
bố sử dụng nhằm hoàn thiện, phát triển và bổ sung cho các khoảng trống nghiên cứu
đã xác định.
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu luận án
* Phƣơng pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư duy quan điểm đường lối của Đảng
CSVN để tiếp cận có tính hệ thống, biện chứng, logic và lịch sử về các vấn đề nghiên
cứu.
* Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể:
1.2.1 Phƣơng pháp thu thập thông tin, dữ liệu
Để thực thiện đề tài luận án, NCS thu thập các thông tin, dữ liệu về các khoản
thu từ đất, về số thu, về công tác thực hiện chính sách, về công tác quản lý nhà nước
đối với các nguồn thu giai đoạn 2007 - 2015. Ngoài ra một số nguồn dữ liệu từ các
cấp các ngành có liên quan cũng được khai thác để có dữ liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài luận án.
Nguồn cơ sở dữ liệu:
+ Dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp là các ý kiến đánh giá của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá
nhân; các cán bộ làm việc tại: Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục
Thuế, các UBND như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Các dữ liệu sơ cấp được thu
thập thông qua phương pháp điều tra phỏng vấn bằng bảng hỏi. Ngoài ra, tác giả cũng
thực hiện phỏng vấn chuyên gia để thu thập những ý kiến đánh giá và định hướng
quản lý nhà nước về các khoản thu từ đất ở Việt Nam.
19
* Phương pháp điều tra, khảo sát qua bảng hỏi:
Nghiên cứu sinh đã tiến hành lập bảng hỏi điều tra đối với đối tượng là người
nộp thuế (doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân), cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản
lý nhà nước về đất đai (như UBND tỉnh, cơ quan tài nguyên và môi trường).
Đối tượng điều tra, bao gồm các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân; các
cán bộ làm việc tại: Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Thuế, các
UBND như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Danh sách các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân được lấy từ các Cục Thuế Hà Nội, Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh... Phương
pháp lựa chọn mẫu là phương pháp ngẫu nhiên theo địa bàn.
Mẫu phiếu khảo sát: xem phụ lục số 01
Cách thức điều tra: Phát và thu hồi phiếu trực tiếp hoặc qua email
Về loại hình và lĩnh vực hoạt động của các đơn vị thuộc mẫu điều tra
Tổng số mẫu điều tra là 500 trong đó (i) Nhóm chủ thể quản lý là các cán bộ
làm việc trong các cơ quan 380 phiếu gồm: Bộ Tài chính 30 phiếu, Bộ Tài nguyên và
Môi trường 20 phiếu, Tổng cục Thuế 100 phiếu, UBDN thành phố Hồ Chí Minh 20
phiếu, UBND thành phố Hà Nội 20 phiếu, UBND thành phố Đà Nẵng 20 phiếu,
UBND quận 1 thành phố Hồ Chí Minh 20 phiếu, UBND huyện Thành Trì thành phố
Hà Nội 20 phiếu, Cục Thuế thành phố Hà Nội 30 phiếu, Cục Thuế thành phố Hồ Chí
Minh 30 phiếu, Cục Thuế thành phố Đà Nẵng 20 phiếu, Sở Tài nguyên và môi trường
thành phố Hồ Chí Minh 20 phiếu, Sở Tài Nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội
20 phiếu, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng 10 phiếu; (ii) Nhóm
khách thể quản lý 100 phiếu gồm các tổ chức (Doanh nghiệp, công ty...) sử dụng đất
50 phiếu, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất 50 phiếu; (iii) Nhóm các nhà nghiên cứu
20 phiếu.
+ Dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được lấy từ các cơ sở dữ liệu của các Cục Thuế địa phương
trên cả nước, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Tổng Cục Thuế…
- Dữ liệu về các chính sách được tác giả thu thập từ danh mục các văn bản
pháp luật và chính sách của Nhà nước liên quan đến quản lý nhà nước về các khoản
thu từ đất (chủ yếu được tìm thấy trên trang web http://www.vanbanphapluat.vn và
trang web của các Bộ TN&MT, Bộ Tài chính www.mof.gov.vn và Tổng cục Thuế
www.gdt.gov.vn)
- Báo cáo Tổng kết tình hình thi hành Luật Đất đai 2003 và định hướng sửa
đổi Luật đất đai.
- Đề án phát triển Thị trường Bất động sản năm 2013-2014 của Bộ Xây dựng.
- Chiến lược phát triển nhà ở Quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
20
2030.
- Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý và pháp luật đất đai của Bộ Tài nguyên
và Môi trường.
- Tờ trình số 144/TTr-CP ngày 17/9/2009 của Bộ Tài chính về dự án Luật thuế
nhà, đất.
- Báo cáo tổng kết đánh giá tình hình thực hiện các khoản thu từ đất giải đoạn
2010-2014 của Tổng cục Thuế.
- Báo cáo công tác thuế từ năm 2011-2015 của Tổng cục Thuế.
- Tờ trình số 222/TTr-CP ngày 6/9/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
dự án Luật đất đai sửa đổi.
- Tờ trình số 302/TTr-CP ngày 24/10/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về dự án Luật đất đai sửa đổi.
- Đề án cải cách hiện đại hóa ngành thuế giai đoạn 2011-2020 của Tổng cục
Thuế.
Ngoài ra một số thông tin thứ cấp được NCS thu thập từ các trang website của
Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ TNMT, Tổng cục Thuế, Tổng cục Thống kê, Tổng cục
quản lý đất đai, Cục Thuế các tỉnh, thành phố…
1.2.2 Phƣơng pháp xử lý thông tin, dữ liệu
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để hệ thống hóa những vấn
đề về quản lý nhà nước đối với các khoản thu từ đất ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
này bao gồm việc xây dựng chính sách, thực thi chính sách và quản lý nhà nước.
Phương pháp thống kê mô tả: Được sử dụng để sắp xếp, phân loại và xử lý
tổng hợp số liệu thu thập, từ đó xây dựng các bảng biểu để phân tích dữ liệu đánh giá
hiện trạng và xác định các tiêu chí liên quan đến quản lý nhà nước về các khoản thu
từ đất ở Việt Nam.
Trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu thống kê mô tả, phân tích, tổng hợp
NCS sử dụng các biểu đồ, đồ thị đồng thời tham chiếu với kết quả định lượng bằng
phần mềm Excel để đưa ra các kết luận về thực trạng quản lý nhà nước về các khoản
thu từ đất theo các tiêu chí đánh giá.
Với tổng số phiếu phát ra để điều tra là 500 phiếu, NCS thu về được số phiếu
hợp lệ là 480 phiếu.
Trên cơ sở các mức điểm từ 1 đến 4 (trong đó 1 là mức kém nhất, 2 là mức
kém, 3 là mức tốt và 4 là mức tốt nhất) thông qua phần mềm Excel tính ra mức điểm
trung bình của các câu hỏi. Dựa vào kết quả định lượng, kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu định tính là cơ sở để NCS đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với
các khoản thu từ đất ở Việt Nam theo các tiêu chí ở chương 2, chỉ ra nguyên nhân của
- Xem thêm -