Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngoại ngữ Kiến thức tổng hợp Quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện phú hòa, tỉnh phú yên (2011 2019)...

Tài liệu Quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện phú hòa, tỉnh phú yên (2011 2019)

.PDF
113
1
97

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN LÊ NGỌC SƠN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN (2011-2019) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8229013 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Doãn Thuận i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận văn Lê Ngọc Sơn ii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i MỤC LỤC .................................................................................................... ii DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................. v MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 5 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 6 4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài ............................................................ 6 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 6 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ......................................... 6 5.1. Nguồn tài liệu....................................................................................... 6 5.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 6 6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 7 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 7 Chương 1. CƠ SỞ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN ................................................................................ 8 1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm xây dựng nông thôn mới .................................................. 8 1.1.2. Tính tất yếu và tầm quan trọng của việc xây dựng nông thôn mới ........ 11 1.1.3. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ................................................................................................... 12 1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................. 18 1.2.1. Điều kiện tự nhiên .......................................................................... 18 iii 1.2.2. Tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội ................................................ 18 1.2.3. Hệ thống chính trị địa phương ........................................................ 21 1.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Phú Yên và Huyện ủy Phú Hòa ............. 22 1.3.1. Chủ trương của Tỉnh ủy Phú Yên ................................................... 22 1.3.2. Chủ trương của Huyện ủy Phú Hòa ................................................ 24 Tiểu kết chương 1.................................................................................... 27 Chương 2. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN (2011 - 2015) .............................................. 28 2.1. Xây dựng quy hoạch tổng thể .......................................................... 28 2.1.1. Quy hoạch sử dụng đất và cơ sở hạ tầng ......................................... 28 2.1.2. Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, môi trường ................ 30 2.1.3. Quy hoạch khu dân cư .................................................................... 32 2.2. Xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội ..................................................... 33 2.2.1. Xây dựng hạ tầng giao thông, mạng lưới thủy lợi, điện................... 33 2.2.2. Xây dựng hạ tầng giáo dục, văn hóa ............................................... 39 2.2.3. Xây dựng hạ tầng chợ, bưu điện, nhà ở dân cư ............................... 41 2.3. Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội................. 46 2.3.1. Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế............................................. 46 2.3.2. Phát triển văn hóa, xã hội, môi trường ............................................ 49 2.4. Xây dựng hệ thống chính trị ............................................................ 56 2.4.1. Xây dựng hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật .......................... 56 2.4.2. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội .......................................... 57 Tiểu kết chương 2.................................................................................... 59 Chương 3. HOÀN THÀNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN (2016 - 2019) .............................................. 62 3.1. Hoàn cảnh lịch sử mới trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên ................................................................ 62 3.2. Thực hiện điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể ........................ 63 iv 3.3. Tăng cường xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội................................. 64 3.3.1. Xây dựng hạ tầng giao thông, mạng lưới thủy lợi, điện................... 64 3.3.2. Xây dựng hạ tầng giáo dục, văn hóa ............................................... 66 3.3.3. Xây dựng hạ tầng chợ, bưu điện, nhà ở dân cư ............................... 68 3.4. Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội................. 69 3.4.1. Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế............................................. 69 3.4.2. Phát triển văn hóa, xã hội, môi trường ........................................... 74 3.5. Xây dựng hệ thống chính trị ............................................................ 76 3.5.1. Xây dựng hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật .......................... 76 3.5.2. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội .......................................... 78 Tiểu kết chương 3.................................................................................... 80 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 88 PHỤ LỤC QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao) v DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Kí hiệu Chữ viết tắt TTCP Thủ tướng Chính phủ UBND Ủy ban nhân dân UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam CTMTQG Chương trình Mục tiêu quốc gia BCĐXDNTM Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới XDNTM Xây dựng Nông thôn mới ANTT An ninh trật tự TTATXH Trật tự an toàn xã hội ANCT An ninh chính trị BHYT Bảo hiểm y tế XĐGN Xóa đói giảm nghèo THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông QĐ Quyết định KH Kế hoạch TNHH Trách nhiệm hữu hạn CNXD Công nghiệp xây dựng NTM Nông thôn mới TH Tiểu học MN Mầm non HTX Hợp tác xã THT Tổ hợp tác 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là cơ sở và nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, góp phần vào việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó vấn đề phát triển nông nghiệp được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhiều thành tựu đạt được lại chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng miền. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Nhìn chung nông thôn Việt Nam vẫn ở mức lạc hậu, kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, năng suất lao động thấp và mất cân đối (giữa miền núi và đồng bằng), cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, giao thông đi lại khó khăn, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,… Những điều này đã gây trở ngại cho tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hóa. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề cấp thiết đặt ra như tỉ lệ dân số ở khu vực nông thôn tăng khá nhanh, gây sức ép về việc làm, ruộng đất và nhà ở. Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn, thành thị và giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Bộ máy quản lý hành chính cấp cơ sở hoạt động chưa cao, hiệu quả hoạt động của các loại hình kinh tế và kinh doanh nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng... Để khắc phục tình trạng trên, ngày 05/8/2008 Ban Chấp hành TW khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp - nông dân - nông thôn nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng 2 còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới…. Tiếp sau đó, Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới và phê duyệt chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông thôn Việt Nam phát triển, dần đẩy lùi sự lạc hậu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa nông thôn. Huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên nằm ở vị trí đồng bằng châu thổ sông Đà Rằng, phần lớn địa bàn cư trú dân cư ở huyện Phú Hòa là khu vực đồng bằng với nhiều làng mạc trù phú nối nhau. Với diện tích tự nhiên 258,76 km2 (2019), huyện Phú Hòa là huyện thuần nông, nhân dân trong huyện sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Từ khi Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai, đời sống vật chất và tinh thần nhân dân không ngừng được cải thiện; cơ sở hạ tầng được đầu tư, nâng cấp. Đặc biệt, Chương trình đã khơi dậy được sự đồng thuận cao của toàn thể cộng đồng dân cư nông thôn, tạo sức lan tỏa và phát huy sức mạnh đoàn kết, tính chủ động, sáng tạo của cộng đồng. Huyện Phú Hòa tiến hành thực hiện xây dựng nông thôn mới từ năm 2011 đến năm 2019 hoàn thành và được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, là huyện thứ hai đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh (huyện Tây Hòa đạt chuẩn năm 2018); Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho nhân dân và cán bộ huyện Phú Hòa trong việc thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020”. Kết quả đạt được trong phong trào xây dựng nông thôn mới đã khẳng định và nâng cao vị thế của huyện, tạo tiền đề góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa huyện Phú Hòa phát triển nhanh, bền vững và đạt huyện nông thôn mới nâng cao trước năm 2025. Để nghiên cứu sâu hơn về quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa với những thành tựu, hạn chế và tác động của nó đối với phát triển 3 kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay và những chặng đường tiếp theo, tác giả quyết định chọn vấn đề “Quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên (2011-2019)” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tại Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tiêu biểu như - Tác giả Nguyễn Quang Ngọc và Phan Đại Doãn với tác phẩm “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” (1994) xuất bản tại Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này đã nghiên cứu những vấn đề lịch sử trong phát triển nông thôn nước ta. - Tác giả Phạm Xuân Nam với cuốn sách “Phát triển nông thôn” (1997) xuất bản tại Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội đã nghiên cứu về bối cảnh nông thôn Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân của thực trạng, những yêu cầu có tính quy luật và giải pháp phát triển nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu khác như “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam (bản dịch) (2000) của tác giả Tống Văn Chung tại Nxb Thế giới, Hà Nội. - Công trình “Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” (2002) của Ban Tư tưởng văn hóa TW, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xuất bản tại Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã luận giải lý do, cách thức, con đường CNH, HĐH của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. - Tác phẩm “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại” (2004) của tác giả Vũ Trọng Khải xuất bản tại Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu công phu về mô hình phát triển của nông thôn Việt Nam dưới góc độ kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. 4 - Công trình nghiên cứu “Nông dân, nông thôn và nông nghiệp - Những vấn đề đang đặt ra” (2008) của Viện Nghiên cứu phát triển IDS ấn hành tại Nxb Tri thức, Hà Nội đã nghiên cứu sâu sắc vấn đề tam nông, đặc biệt nhấn mạnh tới những vấn đề còn tồn tại cần giải quyết trong tam nông. - Hoàng Ngọc Hòa (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã nêu ra một số giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm góp phần phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Công trình nghiên cứu: “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của Bộ Chính trị” do PGS,TSKH Lê Đình Thắng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 1998 đã đề cập nhiều nội dung quan trọng liên quan đến chủ đề nghiên cứu như phân tích quá trình phát triển nông nghiệp của Việt Nam dưới tác động của hệ thống chính sách, đi sâu phân tích một số chính sách cụ thể trong phát triển nông nghiêp, nông thôn nước ta. - Nguyễn Văn Bích (2000), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi mới – quá khứ và hiện tại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình nghiên cứu này đã phân tích những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp và đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn Việt Nam sau hơn hai mươi năm đổi mới. - Công trình “Một số giải pháp đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay (nghiên cứu vùng duyên hải Nam Trung bộ)” do tiến sĩ Phạm Đi làm chủ biên Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông năm 2018 nghiên cứu xây dựng nông thôn mới ở vùng duyên hải Nam Trung bộ, trong đó có tỉnh Phú Yên, nhưng chưa đề cập đến huyện Phú Hòa. - Trịnh Phạm Thúy Hằng, với Luận văn Thạc sĩ (2020), “Quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2011-2018)” đã nghiên cứu về hoàn cảnh lịch sử và quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. 5 - Trên các tạp chí cũng đăng nhiều bài viết, tiêu biểu như tác giả Đào Thế Tuấn với bài “Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong thời kỳ đổi mới” (Tạp chí Cộng sản, số 3, 2007); tác giả Tô Huy Rứa với bài “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đổi mới ở Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” (Tạp chí Cộng sản, số 12, 2008). Các công trình nghiên cứu trên, đã nghiên cứu về các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Việt Nam sau thời kì đổi mới; vai trò của giai cấp nông dân trong phát triển nông thôn; sự chuyển biến của nông thôn Việt Nam qua các thời kì. Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2019. Vì vậy, các công trình trên là một trong những cơ sở lý luận để tác giả nghiên cứu, có cái nhìn khách quan, chính xác về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; là cơ sở để tác giả giải quyết mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến năm 2019. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau: - Quá trình triển khai chủ trương, chính sách, chương trình của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. - Nghiên cứu thực trạng thực hiện bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. - Phân tích, đánh giá thành tựu, hạn chế của quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. 6 - Về không gian, thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quá trình xây dựng nông thôn mới giới hạn tại một đơn vị hành chính là huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến năm 2019. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các chỉ tiêu đánh giá về quá trình xây dựng nông thôn mới trong phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Phú Yên nói riêng, đề tài làm rõ quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa với thành tựu và hạn chế. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng nông thôn mới hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Khi thực hiện đề tài này, tác giả đề ra một số nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu cơ sở thực hiện xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. - Làm rõ quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến năm 2019. - Đánh giá những thành tựu đạt được, hạn chế của quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. - Làm rõ những tác động và đóng góp của quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa đối với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Đề tài hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu khác nhau: - Các công trình chuyên khảo, tham khảo liên quan đến đề tài. - Tài liệu lịch sử địa phương; các Báo cáo; các Kế hoạch, thống kê của huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên về xây dựng nông thôn mới. - Tài liệu thực địa qua nghiên cứu điền dã. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 7 Để hoàn thành đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng thêm các phương pháp liên ngành khác như: phương pháp biện chứng, phương pháp thu thập số liệu, thống kê số liệu, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp điền dã… nhằm làm sáng tỏ vấn đề và trình bày luận văn một cách khoa học. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn hoàn thành sẽ có những đóng góp chủ yếu sau: - Khôi phục lại quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên 2011 – 2019 với những thành tựu, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm. - Làm rõ những tác động của quá trình xây dựng nông thôn mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên 2011 – 2019. - Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách có những chủ trương, chính sách sát với thực tiễn hơn trong công cuộc xây dựng nông thôn mới nâng cao ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên trong thời gian tiếp theo. - Đóng góp về nguồn tư liệu cho địa phương trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Chương 2: Bước đầu xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên (2011-2015). Chương 3: Hoàn thành xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên (2016-2019). 8 Chương 1 CƠ SỞ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm xây dựng nông thôn mới 1.1.1.1. Khái niệm nông thôn Khái niệm nông thôn thường đồng nghĩa với làng, xóm, thôn. Theo các tài liệu nghiên cứu, “làng” là từ nôm, là tiếng nói dân dã, ngạn ngữ của đời sống dân gian ăn sâu vào trong tâm lý, ý thức của người Việt. Trong công trình nghiên cứu về “Hệ thống chính trị ở nông thôn nước ta hiện nay”, tác giả Hoàng Chí Bảo cho rằng làng Việt vốn hình thành một cách tự nhiên, ra đời không qua bàn tay nhào nặn của chính quyền Trung ương, mang nét đặc trưng riêng; cùng với sự biến thiên của các triều đại phong kiến trị vì trong lịch sử mà tên gọi của làng cũng khác nhau, “làng” cũng gọi là “thôn” hoặc “làng xóm”, cũng có khi làng chính là “xóm”. Từ các quan điểm về phân công lao động xã hội của C. Mác và F. Ăngghen, về nông thôn của tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy: Nông thôn là nơi sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nông dân tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường trong một thể chế chính trị nhất định; chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác, phân biệt với đô thị. Theo Mác, sự phân công lao động trong nội bộ của một dân tộc trước hết là do sự tách rời giữa lao động công nghiệp với lao động nông nghiệp và do đó gây ra sự tách rời giữa thành thị và nông thôn. Sự hình thành đô thị cũng là quá trình làm cho xã hội nông thôn được khẳng định. Vì vậy, giữa nông thôn và đô thị có những điểm khác biệt. Tuy nhiên, quan niệm về nông thôn có thể khác nhau ở mỗi quốc gia. Ngày nay, khái niệm “nông thôn” đã mở rộng nội hàm so với “làng”, bao gồm cả những thị trấn mà sự tồn tại và phát triển của nó phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, gắn liền với nông thôn và bảo đảm các dịch vụ cần thiết cho dân cư ở nông 9 thôn. Hiện nay, khái niệm về nông thôn đã được nêu rõ tại Nghị định 41 ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ, cụ thể là: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã”. Từ đó, nông thôn được xác định theo ba đặc trưng cơ bản cụ thể: Về lĩnh vực sản xuất: Đặc trưng rõ nét nhất của nông thôn là sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, còn có thể kể đến cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm: dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò rất lớn đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội: Ở nông thôn con người sinh sống chủ yếu ở đây là nông dân và còn một số đối tượng khác cùng sinh sống như cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, thợ thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, v.v... Về lối sống, văn hóa của từng loại tập quán: Nông thôn thường rất đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng, xã. Đặc trưng này bao gồm rất nhiều khía cạnh như từ hệ thống dịch vụ, sự giao tiếp, đời sống tinh thần, phong tục; tập quán, hệ giá trị, chuẩn mực của hành vi… Đó là những đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội học để nhận diện nông thôn và phân biệt với thành thị. Chính đặc trưng thứ ba đã tạo ra bản sắc riêng, diện mạo riêng cho hệ thống xã hội nông thôn. 1.1.1.2. Khái niệm xây dựng nông thôn mới Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp - nông dân - nông thôn, đã đưa ra mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo 10 nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[1]. Tại Nghị quyết này, nông thôn mới được hiểu là khu vực nông thôn mà trong đó đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới, có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Xây dựng nông thôn mới là Chương trình mục tiêu quốc gia nhằm thực hiện cụ thể hóa Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH Trung ương Đảng (Khóa X) về nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Đây là Chương trình mục tiêu quốc gia mang tính tổng thể toàn diện, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, lâu dài ở khu vực nông thôn, hướng đến “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới, nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia được Quy định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là một chương trình khung, bao gồm 11 chương trình mục tiêu Quốc gia và 13 chương trình, 19 tiêu chí, được khái quát thành 5 nhóm nội dung: (1) quy hoạch, (2) hạ tầng kinh tế - xã hội, (3) kinh tế và tổ chức sản xuất, (4) văn hóa - xã hội - môi trường, (5) hệ thống chính trị. Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn. Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết, có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động đóng góp của các 11 tầng lớp dân cư và được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng của mỗi địa phương. 1.1.2. Tính tất yếu và tầm quan trọng của việc xây dựng nông thôn mới Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực, lương thực, thực phẩm cho xã hội, là nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ một nước còn gặp nhiều khó khăn sau chiến tranh, Việt Nam đã hồi sinh mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp, nông thôn. Từ một đất nước phải nhận viện trợ về lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều loại nông sản. Việt Nam đã thực sự đẩy lùi được đói nghèo, lạc hậu để bắt tay vào xây dựng đời sống mới. Tuy nhiên, những năm qua lĩnh vực này vẫn còn gặp nhiều khó khăn và đang bộc lộ những hạn chế cần khắc phục như: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực hạn chế. Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng, giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt… còn thiếu và yếu; môi trường sinh thái ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn lớn, nhiều vấn đề mới đang phát sinh và tiềm ẩn, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế, môi trường ngày càng ô nhiễm, tệ nạn xã hội ngày một gia tăng, nét đẹp văn hóa bị mai một dần… Trên cơ sở đó, Đảng ta chủ trương tiến hành xây dựng nông thôn mới một cách đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị với phương châm “nông dân là trung tâm, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng”. Xây dựng nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ; sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an 12 ninh chính trị và trật tự xã hội. Như vậy, mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong điều kiện hiện nay. 1.1.3. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng nông thôn mới 1.1.3.1. Quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trước khi ban hành Nghị quyết 26 Ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cụ thể: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) trong bối cảnh đất nước đang tạm thời bị chia cắt, cuộc kháng chiến chống Mĩ ngày càng ác liệt, Đảng vẫn chủ trương “…xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ…”[13, tr. 182-183]. Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ VI (khóa IV) đã ban hành Nghị quyết số 20 – NQ/TW ngày 20/9/1979 “Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách” nhằm khắc phục những tồn tại và khuyến khích sản xuất phát triển, trước hết là sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Đối với sản xuất nông nghiệp, Đảng ta đề ra chủ trương cần phải “Mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp”. Ngày 13/01/1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100-CT/TW (gọi tắt là Chỉ thị 100) về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”[2, tr. 2]. Chỉ thị 100 là bước đột phá về cơ chế quản lý nông nghiệp, thực sự đã thổi luồng gió mới, tạo sinh khí mới vào nền nông nghiệp Việt Nam và điều đặc biệt hơn là được hầu hết nông dân, xã viên hợp tác xã hồ hởi đón nhận. 13 Từ thực tiễn 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm sau thống nhất đất nước, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (năm 1982), Đảng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Như vậy, từ Đại hội III đến Đại hội V của Đảng, chúng ta có thể khẳng định rằng tuy chưa đề cập đến cụm từ “nông thôn mới” nhưng Đảng luôn xác định nông nghiệp có một vị trí rất quan trọng, là mặt trận hàng đầu, đồng thời đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số bất cập trong chính sách nông nghiệp, nông dân và nông thôn, do đó sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong giai đoạn này tiếp tục tăng trưởng chậm. Để tìm lối thoát giải quyết vấn đề, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Thực hiện chủ trương của Đại hội VI về đổi mới kinh tế, trong đó quan tâm hàng đầu tới đổi mới lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới quản lý kinh tế. Từ những tư tưởng chỉ đạo trên và rút kinh nghiệm từ khoán theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (Khóa IV), Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị (Khóa VI) đã thổi vào nông nghiệp, nông thôn nước ta một luồng gió mới, cuộc sống của người dân đã được cải thiện nhanh chóng. Việc thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW đã làm cho cơ chế bao cấp bị phá vỡ. Đó là sự phá vỡ của quan hệ sản xuất mang nặng tính tập thể hóa, tập trung hóa, quan liêu hóa; chính sách một giá được xác lập; đảm bảo tự do lưu thông, tiêu thụ trên thị trường cả nước; thương mại hóa vật tư, từng bước xác lập vai trò tự chủ của kinh tế hộ, giải quyết những vấn đề cấp bách về ruộng đất. Đó chính là tiền đề của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. 14 Đến Đại hội VII, Đảng ta đã chỉ rõ “Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội”[12, tr. 67]. Tại hội nghị Trung ương V (khóa VII) năm 1993, Đảng ta một lần nữa khẳng định cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội nông thôn, quyết định 4 vấn đề trọng yếu: sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải theo hướng sản xuất hàng hóa, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu; thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn sản xuất với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Hội nghị Trung ương VIII (khóa IX) năm 2003 của Đảng cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thể hiện tư tưởng chỉ đạo mang tính đột phá nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp, đổi mới diện mạo nông thôn, nâng cao thu nhập cho nông dân… Từ sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (khóa IX) năm 2002, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, trong đó trọng tâm là phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa gắn với công nghiệp chế biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn theo hướng tiến bộ. Tiếp tục thực hiện tốt những giải pháp cụ thể trong phát triển nông nghiệp, nông thôn từ đó tạo động lực cho nền nông nghiệp Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng theo hướng hiện đại, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và là tiền đề cho những chính sách mới ra đời bằng điểm nhấn là Hội nghị Trung ương VII (khóa X) với Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 (gọi tắt là Nghị quyết 26) về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là nghị quyết mang tầm chiến lược về “tam nông” đã mở ra một giai đoạn mới cho phát triển nông thôn Việt Nam.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan