Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học lịch sử và khắc ...

Tài liệu Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học lịch sử và khắc sâu kiến thức lịch sử ở trường thcs&thpt q

.PDF
18
37
90

Mô tả:

MỤC LỤC 1. PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………….1 1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………...........2 1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………..2 1.4.. Phương pháp nghiêm cứu……………………………………….....…..2 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………….........2 2.2.. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………3 2.3. Cách tổ chức thực hiện……………………………………….................5 2.4 Hiệu quả của “Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử” …..........12 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. ……………………………………………………….......... 14 3.2. Kiến nghị...............................................................................................14 0 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Lịch sử không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội mà trong chừng mực không nhỏ còn là công cụ giáo dục tình cảm, đạo đức, phẩm chất. Đó là giáo dục lòng yêu nước, trung thành với dân tộc, với cách mạng, với Đảng... là việc noi gương người xưa để hành động trong ngày hôm này sao cho phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc. Nhưng hiện nay trong xã hội và nhà trường môn lịch sử bị xem là là môn phụ. Kết quả học tập của học sinh rất yếu kém và đáng báo động. Vậy nguyên nhân do đâu? Phải chăng dạy và học lịch sử hiện nay chưa tìm ra một phương pháp đúng đắn, chuẩn xác để định hướng đi chung. Hiện nay việc dạy và học lịch sử đang thu hút sự chú ý của toàn xã hội. Xuất phát từ thực tế đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các ban ngành liên quan đã có những biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy và học lịch sử trong trường phổ thông, như tổ chức các chuyên đề về sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy- học môn Lịch sử, tích hợp các nội dung khác trong quá trình giảng dạy. Có rất nhiều cá nhân và tổ chức quan tâm đến vấn đề này, đặc biệt là những giáo viên trực tiếp dạy lịch sử cũng có những nỗ lực để tìm ra con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả việc dạy và học lịch sử hiện nay. Và trên thực tế đã xuất hiện nhiều quan niệm, phương pháp dạy và học đáp ứng phần nào những đòi hỏi đó. Tuy vậy khoa học luôn đòi hỏi tìm ra những biện pháp, con đường mới để áp dụng vào thực tiễn cho hiệu quả. Vì thế việc tìm ra con đường nhằm nâng cao việc dạy và học lịch sử là điều hết sức quan trọng, cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Là một giáo viên trực tiếp dạy học lịch sử, trong tôi cũng đang có những suy nghĩ về việc dạy học lịch sử như hiện nay. Tôi cũng mong tìm ra con đường, biện pháp tích cực để áp dụng trong công việc của mình đang làm và tìm ra nhiều hướng đi hơn cho tư duy của bản thân trong quá trình dạy lịch sử. Hiện nay ở các trường phổ thông đã áp dụng rất nhiều phương pháp dạy học, nhiều phương tiện kĩ thuật mới và bước đầu mang lại những hiệu quả thiết thực cho quá trình dạy và học lịch sử. quá trình sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học là một xu thế hiện nay đã mang lại hiệu quả đáng kể. Hay áp dụng nguyên tắc dạy học liên môn, dạy học theo vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học qua các chương trình học lịch sử... đã góp phần tích cực vào quá trình tìm ra con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử. Đặc biệt, tôi đang công tác tại một trường vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hóa, học sinh ôn thi đại học chủ yếu là khối C (Ngữ văn, Lịch sử, 1 Địa lí), phần lớn học sinh lựa chọn tổ hợp Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân) để thi xét tốt nghiệp trung học phổ thông. Việc củng cố và nâng cao kiến thức môn Lịch sử là điều cần thiết vì vậy tôi chọn và thực hiện đề tài “Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử ở Trường THCS&THPT Quan Hóa” 1.2. Mục đích nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu phương pháp lấy ví dụ gợi mở trong giảng dạy môn Lịch sử nhằm gây hứng thú học tập và ghi nhớ kiến thức lịch sử đối với học sinh. 1.3 Đối tượng nghiên cứu. - Đề tài xoay quanh việc “Lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử tại Trường THCS&THPT Quan Hóa” - Các tiết học Lịch sử tại Trường THCS&THPT Quan Hóa, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết; - Phương pháp nghiên cứu tài liệu hỗ trợ. - Phương pháp phát vấn, nêu vấn đề, đặt câu hỏi gợi mở. - Thao giảng, dự giờ trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, thống kê, xử lý số liệu. - Áp dụng kinh nghiệm phương pháp mới trên lớp. - Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Bản thân lịch sử xã hội loài người và bộ môn Lịch Sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ, bởi vì qua môn học này tầm nhìn của họ đối với cuộc sống quá khứ - hiện tại - tương lai được mở rộng hơn, họ tìm thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng cho hôm nay và ngày mai. Trong học tập lịch sử ở trường THPT, học sinh không chỉ biết mà còn phải hiểu lịch sử để rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động thực tiễn. Cũng như việc học tập các môn học khác ở trường phổ thông, học tập lịch sử là một quá trình 2 nhận thức, quá trình thu nhận thông tin và sử dụng thông tin, mà mỗi học sinh phải tự thực hiện cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn, sửa chữa, bổ sung của thầy cô và việc tìm hiểu các loại tài liệu và những phương tiện học tập khác. Trên con đường nhận thức ấy, hứng thú đóng vai trò vô cùng quan trọng làm tăng hiệu quả của nhận thức, làm nảy sinh khát vọng, hành động chiếm lĩnh tri thức và đưa vào đời sống thực tiễn. Quá trình học tập lịch sử được thực hiện theo quy định chung của việc nhận thức lịch sử: không trực tiếp quan sát được hiện thực quá khứ, không thể tiến hành thí nghiệm lịch sử như đối với các bộ môn tự nhiên, công nghệ. Tuy nhiên không vì thế mà cho rằng học tập lịch sử không cần tư duy mà chỉ cần ghi nhớ thuộc lòng. Quan niệm sai lầm này là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông bị giảm sút. Từ sự thấu hiểu nhận thức lịch sử của học sinh, người dạy học hướng vào xây dựng giáo án bài dạy khách quan khoa học, gây hứng thú học tập, tìm hiểu lịch sử đối với học sinh, khắc sâu kiến thức, hiểu được bản chất của các sự kiện lịch sử, tìm ra mối liên hệ lôgíc của các sự kiện lịch sử. Việc lấy ví dụ gợi mở sẽ giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử, vận dụng vào ôn thi trung học phổ thông quốc gia, cũng như vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Theo bản thân tôi, ví dụ gợi mở là những ví dụ được giáo viên lựa chọn có nội dung dễ hiểu và gần gũi đối với học sinh, từ nội dung của ví dụ, giáo viên sử dụng các câu hỏi gợi ý giúp học sinh rút ra nội dung của bài học lịch sử. 2.2. Cơ sở thực tiễn Mỗi môn học trong nhà trường đều có vai trò và vị trí đặc biệt, nhưng đều hướng vào mục tiêu “giáo dưỡng, giáo dục, phát triển kĩ năng” cho học sinh. Môn Lịch sử là môn học đặc thù - học sinh phải đứng từ hiện tại để nhìn về quá khứ, qua đó người học tư duy để tìm ra bản chất của sự vật hiện tượng. Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ thông tin, giáo viên có thể vận dung các hình ảnh, tư liệu làm cho bài học thêm sinh động, thu hút hơn đối với học sinh. Tuy nhiên, một thực trạng cho thấy hiện nay là “dân ta chưa biết nhiều về sử ta”, vẫn còn tình trạng “dạy ” Lịch sử bằng cách treo một tấm biển ở ngã ba đường với nội dung: “Phan Bội Châu là một nhà cách mạng theo xu hướng cải cách, Phan Châu Trinh là nhà cách mạng theo xu hướng bạo động và tổ chức phong trào Đông Du”, học sinh nhầm lẫn rằng “Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư sở Hà Nội”.... và còn bao nhiêu câu chuyện thật như bịa khác nữa đã xảy ra như Phan Đình Tùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai anh em...... Vậy tại sao học sinh nói riêng và rất nhiều người Việt Nam nói chung lại có sự nhầm lẫn về những địa danh lịch sử, những nhân vật lịch sử, con đường cứu 3 nước của các bậc tiền bối? Theo tôi, nguyên nhân là từ cả hai phía: phía người dạy và phía người học. Tâm lý chung của học sinh cho rằng môn Lịch sử là môn học khô khan, học những gì trong quá khứ, nhiều sự kiện, khó nhớ nên ngại học, ngại tìm hiểu, chán nản. Thời gian vừa qua, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực đã được áp dụng trong dạy học lịch sử, tuy nhiên sự áp dụng đó chưa đồng bộ, phụ thuộc vào khả năng của từng giáo viên, cơ sở vật chất của từng trường, từng địa phương. Bản thân tôi đang giảng dạy tại Trường THCS&THPT Quan Hóa, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, sau một thời gian công tác tại trường, tôi nhận thấy còn tồn tại những thực trạng sau, đặc biệt đối với các em học sinh khối 10: học sinh đến trường nhưng nhiều em chưa có mục tiêu, động lực học tập rõ ràng, đi học để được nhận chế độ trợ cấp của nhà nước, đi học cho bằng bạn bằng bè; học sinh đọc chưa thông thạo văn bản; không chịu nghiên cứu trước bài học ở nhà; thiếu sách giáo khoa để phục vụ học tập; nhiều học sinh cho rằng học lịch sử chỉ đơn thuần là ghi nhớ các sự kiện trong quá khứ, không gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, đa số học sinh còn lười học, chưa say mê môn học Lịch sử. Nếu học thì các em chỉ học đối phó còn sự say mê và hứng thú thật sự thì chưa có. Vì vậy việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Đa số các em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa, hay chỉ nêu một mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói lên sự kiện gì. Bởi vậy bản thân các em nên có một phương pháp học như thế nào để chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên. Đặc biệt với các em học sinh lớp 12 theo học xét tuyển đại học khối C, Môn Lịch sử vẫn là một môn rất khó học, khó ghi nhớ kiến thức, làm bài thi điểm cũng thấp so với môn Ngữ Văn và môn Địa lí. Trong những năm gần đây, Ban Giám Hiệu Trường THCS&THPT Quan Hóa đã tổ chức những đợt khảo sát thăm dò ý kiến của các em học sinh khối 10 về phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng như hứng thú của các em đối với các môn học. Ngay đầu năm học, nhà trường tiến hành khảo sát một số nội dung, sau một thời gian học tập tại trường, nhà trường tiến hành khảo sát đợt hai. Trên cơ sở kết quả khảo sát của hai đợt, nhà trường và các giáo viên trực tiếp giảng dạy có sự điều chỉnh phương pháp cho phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh và thực tiễn giáo dục của nhà trường. Đầu năm học 2017 - 2018, nhà trường tiến hành khảo sát ý kiến của học sinh khối 10 đối với môn Lịch sử, nội dung khảo sát và kết quả thu được (148 học sinh tham gia khảo sát) như sau : Nội dung 1. Về phương pháp giảng dạy của giáo viên a. Bạn cảm thấy giáo viên Nhanh Cấp độ Chậm Vừa phải 4 giảng bài 75 45 28 b. Bạn cảm thấy giáo viên Khó hiểu Dễ hiểu Rõ ràng, dễ trình bày nội dung các bài hiểu học 75 33 40 c. Giáo viên thường sử dụng Đọc bài cho Giảng dạy Đối thoại với phương pháp gì để truyền đạt học sinh chép cho học sinh học sinh cho học sinh hiểu 99 44 5 d. Trong các buổi học, bạn Căng thẳng Hài hòa, thoải Sôi nổi cảm thấy không khí trong mái lớp 80 68 0 e. Trong môn học, bạn cảm Ít Trung bình Nhiều thấy kiến thức thu được 40 68 40 2. Về mức độ quan tâm của giáo viên đối với học sinh a. Bạn cảm thấy được giáo Ít viên quan tâm đến thái độ học tập của học sinh b. Giáo viên tư vấn, giúp đỡ Thường xuyên học sinh học tập 40 c. Giáo viên quan tâm đến Quan tâm giáo dục đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật 44 3. Về phong cách, đạo đức giáo viên a. Trang phục (Quần áo, giầy dép, tóc…) b. Ngôn ngữ giao tiếp c. Thái độ ứng xử 4. Đánh giá chung Bạn có thích được giáo viên tiếp tục giảng dạy không? Trung bình 104 Nhiều 44 Thỉnh thoảng 108 Ít quan tâm 104 Không 0 Không quan tâm 0 Đẹp mắt Bình thường Luộm thuộm Lịch sự, rõ ràng Bình thường Thiếu lịch sự, khó nghe Hòa nhã, thân thiện Bình thường Thiếu tôn trọng Rất thích Có thể học tiếp 103 Không thích 5 40 Như vậy, đa số học sinh cảm thấy giờ học căng thẳng, nội dung bài học khó hiểu, không thích học môn Lịch sử, mà nguyên nhân chính là do phương pháp 5 “đọc bài cho học sinh chép”của nhiều giáo viên ở cấp THCS. Để khắc phục tình trạng trên và nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường, bản thân tôi đã lựa chọn “Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử ở Trường THCS&THPT Quan Hóa” 2.3. Cách tổ chức thực hiện Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử bản thân tôi thường áp dụng khi giảng dạy những nội dung kiến thức phần thông hiểu và vận dụng, đa số kiến thức không có sẵn trong sách giáo khoa. Hoặc những ví dụ minh chứng cho nội dung bài học nhưng gần gũi với cuộc sống để tạo hứng thú đối với học sinh và giúp học sinh khắc ghi sâu kiến thức. Xin đưa ra một số ví dụ điển hình như sau : Ví dụ 1 : Khi học bài 15 chương trình lịch sử lớp 10, ban cơ bản : Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập. Khi dạy mục I.1.b – Chính sách bóc lột về kinh tế và đồng hóa về văn hóa. Trong phần nội dung : chính sách của các triều đại phong kiến về văn hóa, nội dung chính sách như sau : + Truyền bá Nho giáo, mở lớp dạy chữ Hán + Bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán. + Đưa người Hán vào sinh sống cùng người Việt. Để giúp học sinh hiểu được tại sao với chính sách này các triều đại phong kiến lại thực hiện âm mưu đồng hóa về văn hóa, giáo viên lấy ví dụ gắn liền với thực tiễn cuộc sống của học sinh, cụ thể giáo viên chọn một học sinh có nhuộm tóc hoặc làm tóc xoăn và đặt câu hỏi: Có ai bắt em nhuộm (hoặc xoăn) tóc không? Nội quy của nhà trường là không cho học sinh nhuộm tóc, học sinh sẽ phải trả lời là không bị ai ép buộc, và dù bị cấm nhưng vẫn làm trái nội quy nhà trường vì em thấy người khác nhuộm cũng đẹp, không biết mình nhuộm có hợp hay không nhưng cũng muốn thử. Giáo viên kết luận: như vậy là em bắt chước người khác và tự thay đổi bản thân, không bị ép buộc. Sau đó, giáo viên lại chọn một học sinh khác không nhuộm tóc và hỏi quan điểm của học sinh này, đa số các em đều trả lời là do cảm thấy không phù hợp với bản thân, điều kiện kinh tế gia đình, không phù hợp với nét văn hóa truyền thống của địa phương, dân tộc. Sau khi giáo viên lấy ví dụ này sẽ gây sự chú ý của học sinh cả lớp, vì các em rất quan tâm đến câu trả lời của hai học sinh đã được giáo viên gọi lên và đặt câu hỏi. Hai học sinh trả lời xong, giáo viên cho ngồi xuống, hướng học sinh cả lớp quay lại nội dung bài học: như vậy, chính sách của các triều đại phong kiến về văn hóa là: + Bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán. + Đưa người Hán vào sinh sống cùng người Việt. Khi đưa người Hán sang sống cùng người Việt, có những phong tục tập quán của người Hán, dù họ không ép buộc nhưng nhiều người Việt sẽ học theo, 6 làm theo, bắt chước (gọi là đồng hóa tự nhiên), mặt khác chúng bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục, tập quán theo người Hán. Như vậy, với hai gọng kìm: 1. Bắt buộc, áp bức; 2. Đồng hóa tự nhiên, chính quyền phong kiến phương Bắc hy vọng nhân dân ta sẽ quên hết phong tục tập quán của người Việt và theo phong tục tập quán của người Hán, chúng sẽ đạt được âm mưu đồng hóa nhân dân ta về văn hóa. Cũng với ví dụ trên, giáo viên có thể sử dụng khi dạy mục I.2.b – Những chuyển biến về văn hóa, xã hội. Trong phần chuyển biến về văn hóa, nội dung kiến thức học sinh cần nắm gồm: những chuyển biến về văn hóa nước ta thời Bắc thuộc; kết luận nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa; nguyên nhân vì sao nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa. * Chuyển biến về văn hóa: + Một mặt ta tiếp thu những yếu tố tích cực của văn hóa Trung Hoa thời Hán - Đường như ngôn ngữ, văn tự. + Bên cạnh đó nhân dân ta vẫn giữ được phong tục,tập quán: nhuộm răng, ăn trầu, làm bánh chưng, bánh dày, tôn trọng phụ nữ. Kết luận: nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa. Sau khi đã tổ chức cho học sinh nắm nội dung cơ bản trên, giáo viên phát vấn: vì sao nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa? * Nội dung kiến thức: nhân dân ta không bị đồng hóa về văn hóa vì: + Nước ta có một nền văn hóa phát triển rực rỡ - Văn hóa Đông Sơn. + Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, có ý thức biết tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực từ bên ngoài. + Chính sách cai trị, từ sau khi lật đổ chính quyền của Hai Bà Trưng, chính quyền đô hộ mới cử quan lại cai trị tới cấp huyện, ở các làng xã vẫn giữ được các yếu tố văn hóa bản địa. + Những người thuộc tầng lớp trên (con em quan lại hoặc gia đình giàu có) mới có điều kiện đi học, tiếp thu chữ Hán và Nho giáo. Giáo viên hướng học sinh cả lớp quay lại ví dụ đã sử dụng ở trên để hướng dẫn học sinh nắm một trong ba nguyên nhân trên, đó là nhân dân ta có truyền thống yêu nước, có ý thức biết tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực từ bên ngoài. Giáo viên phân tích câu trả lời của hai học sinh về nguyên nhân bản thân đã nhuộm và không nhuộm tóc, như vậy hai em học sinh có hành động khác nhau do ý thức và nhận thức khác nhau, vậy thời Bắc thuộc nhận thức của nhân dân ta như thế nào mà chúng ta không bị đồng hóa về văn hóa? Ta có tiếp thu tất cả văn hóa của người Hán và bỏ hết văn hóa người Việt hay không? Trên cơ sở trả lời các câu hỏi dẫn dắt của giáo viên, học sinh sẽ rút ra được là nhân dân ta biết tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa tích cực từ bên ngoài. Với ví dụ đã sử dụng ở trên, giáo viên có thể liên hệ thực tế đến nguy cơ đánh mất bản săc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay khi mà giới 7 trẻ thường bắt chước một cách máy móc về trang phục, lối sống của các ca sĩ, cầu thủ bóng đá nổi tiếng trên thế giới. Khi sử dụng ví dụ gắn liền với đời sống của học sinh trong khi truyền tải các nội dung bài học, bản thân tôi nhận thấy: học sinh chú ý hơn đến nội dung bài học, học sinh được nêu lên chính kiến của bản thân, lớp học sôi nổi, học sinh dễ ghi nhớ nội dung bài học. Đặc biệt, đã có tác động nhất định đến nhận thức của học sinh, cụ thể em Lộc Thị Bươn, học sinh lớp 10D (khóa học 2013 – 2016), ngay sau buổi học em đã đi nhuộm tóc đen trở lại. Ví dụ 2 : Khi học bài 32 chương trình lịch sử lớp 10, ban cơ bản: Cách mạng công nghiệp ở châu Âu. Khi dạy mục 1 – Cách mạng công nghiệp ở Anh. Nội dung cần truyền tải cho học sinh gồm: thời gian mở đầu và kết thúc cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh; những phát minh về may móc; tại sao Anh là nước đầu tiên thực hiện cách mạng công nghiệp; tại sao nước Anh lại đi đầu từ công nghiệp nhẹ, hệ quả của cách mạng công nghiệp ở Anh. Ở Anh, những phát minh kĩ thuật đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp dệt vải bông, giáo viên tích hợp kiến thức môn Địa lí để giúp học sinh rút ra kết luận nước Anh đi đầu từ công nghiệp nhẹ. Giáo viên phát vấn: vậy tại sao nước Anh lại đi đầu từ công nghiệp nhẹ? Khi giáo viên đặt câu hỏi này, rất ít học sinh khối 10 tại trường THCS&THPT Quan Hóa có thể trả lời được, vì phần lớn học sinh ở đây là dân tộc thiểu số, các em lại không chịu nghiên cứu bài trước ở nhà nên khả năng liên hệ, vận dụng kiến thức không cao. Sau khi đặt câu hỏi, nếu học sinh không trả lời được, bản thân tôi thường lấy ví dụ về hai sản phẩm của ngành công nghiệp nặng và ngành công nghiệp nhẹ để học sinh so sánh, ví dụ là một chiếc áo và một chiếc ô tô, đây là những sản phẩm thiết thực trong đời sống hiện nay. Giáo viên đưa ra nội dung so sánh, gọi các học sinh trong lớp hoàn thiện bảng so sánh. Nội dung Chi phí đầu tư Giá thành sản phẩm Nhu cầu thị trường Khả năng tiêu thụ Khả năng thu hồi vốn Áo Thấp Thấp Cao Nhanh Nhanh Ô tô Cao Cao Cao Chậm Chậm Từ bảng so sánh trên, học sinh dễ nhận thấy rằng đầu tư ban đầu vào công nghiệp nhẹ sẽ có lợi hơn. Bằng cách lấy ví dụ dẫn dắt và so sánh như trên, ngay cả những học sinh yếu kém trong lớp cũng dễ hiểu bài, chú ý đến bài học và nắm được nội dung của bài. 8 Ví dụ 3: Khi học bài 10 chương trình lịch sử lớp 12, ban cơ bản: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa. Khi dạy mục I.1. – Nguồn gốc và đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. Nội dung kiến thức của mục: * Nguồn gốc: + Do đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người. + Sự bùng nổ về dân số và sự cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên * Đặc điểm: + Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. + Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu khoa học. Khi giảng dạy nội dung này, kiến thức cần truyền tải cho học sinh không phải là kiến thức khó, để học sinh ghi nhớ khắc sâu kiến thức nguồn gốc của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ là do đòi hỏi của cuộc sống nhằm đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, bản thân tôi đã dùng phương pháp yêu cầu học sinh lấy ví dụ về những nhu cầu, mong muốn về những phát minh kĩ thuật để phục vụ cuộc sống và sản xuất hiện tại của bản thân và gia đình. Giáo viên phát vấn: Ngoài những thành tựu khoa học và những phát minh kĩ thuật hiện nay đã ứng dụng, bản thân em có mong muốn, nhu cầu những phát minh kĩ thuật gì mới để phục vụ nhu cầu sản xuất, đời sống của bản thân em và gia đình em không? Giáo viên sẽ gọi vài học sinh trong lớp trả lời và lắng nghe ý kiến của các em, các em học sinh sẽ được tự do nói lên suy nghĩ và mong muốn của bản thân, không khí trong lớp học sẽ sôi nổi, thoải mái. Trong quá trình giảng dạy khối 12, có một ý kiến của học sinh mà tôi rất nhớ, em Vi Văn Thôn (lớp 12C, khóa học 2013 – 2016), em mong rằng bây giờ trên thế giới sẽ sản xuất ra một cái máy xử lý rác thải, chỉ cần đổ rác vào, máy sẽ tự động phân rác, những rác thải mềm như thức ăn thừa hoặc bùn đất thì máy tự động chế tạo thành phân vi sinh, những rác thải rắn như sắt thép hoặc thủy tinh thì máy tự động phân riêng từng lại chất rắn khác nhau và cô lại từng cục nguyên chất sạch sẽ và có thể đem tái sử dụng. Trên cơ sở những ý kiến của học sinh, giáo viên kết luận: như vậy mặc dù bây giờ khoa học – kĩ thuật rất hiện đại, nhiều loại máy móc đã được sản xuất để phục vụ đời sống và sản xuất, nhưng nhu cầu của con người là không bao giờ dừng lại, những mong muốn của các em có thể chưa có trong hiện tại, nhưng nhu 9 cầu của chúng ta thì không bao giờ dừng lại, khi chúng ta còn có nhu cầu thì sẽ còn những phát minh kĩ thuật mới để phục vụ đời sống. Với ví dụ trên, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức bài học, đối với các em ôn thi trung học phổ thông quốc gia khối Khoa học xã hội, làm bài trắc nghiệm môn Lịch sử, khi gặp câu hỏi: Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ có nguồn gốc sâu xa từ A. sự mất cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. B. yêu cầu giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới. C. những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống và sản xuất. D. nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cao cho các quốc gia. Với bốn đáp án như trên, chắc chắn học sinh sẽ chọn được đáp án C khi nhớ lại các vi dụ mà các em đã được phát biểu trong khi học bài. Ví dụ 4: Khi học bài 10 chương trình lịch sử lớp 12, ban cơ bản: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa. Khi dạy mục I. – Xu thế toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó. * Nội dung kiến thức học sinh cần nắm: - Toàn cầu hóa là gì. - Biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa. - Tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa đối với quốc gia, dân tộc. - Kệt luận: Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, “Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới, đó là vấn đề có ý nghĩ sống còn đối với Đảng và nhân dân ta” Trong phần kết luận, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận: Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam có những thời cơ (thuận lợi) và thách thức (khó khăn) gì? * Nội dung những thời cơ và thách thức của Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa gồm: - Thời cơ: + Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh bị đẩy lùi, xu thế chung của thế giới là hòa bình, ổn định và phát triển. + Các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển, lấy phát triển kinh tế làm trọng điểm, tăng cường hợp tác và tham gia các liên minh kinh tế khu vực và quốc tế, chúng ta có thể khai thác nguồn đầu tư vốn, kĩ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài để rút ngắn thời gian phát triển kinh tế đất nước. - Thách thức: 10 + Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu, các nước phải tìm ra con đường đi phù hợp để hạn chế thấp nhất rủi ro, sai lầm để có bước đi thích hợp và kịp thời. + Điểm xuất phát thấp về kinh tế và trình độ dân trí, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. + Sự cạnh tranh của thị trường thế giới, mối quan hệ quốc tế bất bình đẳng, bất lợi cho các nước đang phát triển. + Vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay từ bên ngoài. + Vấn đề ô nhiễm môi trường. + Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa từ bên ngoài. Phần nội dung trên không có sẵn trong sách giáo khoa, phần lớn học sinh không chịu tìm hiểu trước nội dung khi giáo viên đã giao nhiệm vụ về nhà từ cuối tiết học trước. Vì vậy, giáo viên cần dẫn dắt bằng các câu hỏi phát vấn, gợi mở, các ví dụ cụ thể để các em suy luận và lĩnh hội kiến thức. Đối với những lớp mà học sinh không chủ động tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức, bản thân tôi thường lấy ví dụ sau: Một gia đình hộ nghèo được nhà nước cho vay ngân hàng một khoản tiền vốn để xóa đói giảm nghèo (khoảng 50 tiệu đồng), với lãi suất thấp. Sau khi làm các thủ tục xong, người chồng đến ngân hàng lĩnh tiền, nhưng sau khi lấy tiền xong anh ta ra ngay cửa hàng bán xe máy mua luôn một chiếc xe máy LEAD trị giá 44 triệu đồng, mua một chiếc điện thoại smartphone thế hệ mới (khoảng 5 triệu đồng), sau đó anh ta vào một nhà hàng trong thị trấn ăn nhậu một bữa (hết khoảng 500 nghìn đồng), số tiền ít ỏi còn lại anh ta để dành đổ xăng xe và nạp thẻ điện thoại trong khoảng nửa tháng. Sau khi lấy ví dụ, giáo viên phát vấn: Vậy gia đình này đã sử dụng nguồn vốn vay xóa đói giảm nghèo hợp lí chưa? Kinh tế gia đình phát triển hơn không? Gia đình này liệu có trả được nợ gốc và lãi suất cho ngân hàng không? Việt Nam cũng là một nước đang phát triển, chúng ta vay vốn ODA của các nước phát triển, vay tiền từ ngân hàng thế giới... để phát triển kinh tế. Từ ví dụ trên em hãy nêu lên thách thức với chúng ta là gì? Từ ví dụ trên, học sinh sẽ rút ra được một trong những thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam là vấn đề cần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay từ bên ngoài. Ví dụ trên rất gần gũi với các em học sinh ở huyện Quan Hóa, từ ví dụ trên giáo viên có thể liên hệ đến tình trạng dân trí thấp, trình độ quản lý yếu kém, vấn đề đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt, giáo viên liên hệ đến thực trạng giáo dục ở Quan Hóa: học sinh học hết cấp THCS không muốn đi học tiếp, học sinh bỏ học giữa chừng ở cấp THPT, học sinh không chịu học bài và chủ động lĩnh hội kiến thức, tình trạng hộ nghèo còn chiếm tỉ lệ cao, vấn đề vay vốn xóa đói giảm nghèo nhưng không đạt hiệu quả như mong muốn...... Trên đây là vài ví dụ minh chứng mà bản thân tôi đã sử dụng trong quá trình dạy học tại Trường THCS&THPT Quan Hóa và đạt được hiệu quả nhất định 11 trong việc giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử, nâng cao chất lượng giáo dục môn lịch sử nói riêng và chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung. 2.4. Hiệu quả của phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử. Qua việc vận dụng phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử tại Trường THCS&THPT Quan Hóa, nhiều học sinh trong trường đã có hứng thú nhiều hơn với môn học Lịch sử, ví dụ như học sinh Đào Thu Thủy, học sinh lớp 12A (khóa học 2013 – 2016) đã nhận định: “ở cấp THCS em không thích học lịch sử, nhưng lên cấp THPT em lại rất thích học môn lịch sử, cô giáo có chọn em ôn đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử không để em chọn ôn môn khác”, điều đó chứng tỏ học sinh đã có hứng thú, say mê với môn lịch sử, từ niềm say mê đó học sinh sẽ chủ động tìm tòi, lĩnh hội kiến thức môn lịch sử, số học sinh thi đậu vào các trường Đại học (nguyện vọng 1- khối C) ngày càng nhiều, tổng số điểm ba môn ngày càng cao, đặc biệt môn Lịch sử điểm thi đại học đã cao hơn nhiều. Từ năm 2013 đến năm 2014, trong toàn trường học sinh thi đại học môn Lịch sử không có em nào đạt từ 7,0 điểm trở lên. Nhưng từ năm 2016, trường đã có học sinh thi đại học đạt từ 7,0 điểm trở lên (em Hà Thị Bắc lớp 12A1 đạt 7,5 điểm, em Hà Thị Duy lớp 12A1 đạt 8,0 điểm ), các em thi đậu thẳng vào những trường có điểm đầu vào cao như: Học viện hành chính quốc gia (Hà Phương Nam); Học viện Biên Phòng (Hà Văn Vinh); Đại học Nội vụ (Hà Thị Hạnh, Hà Thị Nga)... Trong năm học 2016 – 2017, Trường THCS&THPT Quan Hóa có 101/111 học sinh lựa chọn tổ hợp Khoa học xã hội để thi xét tuyển trong kì thi trung học phổ thông quốc gia, nhà trường đã không có học sinh nào bị điểm liệt môn Lịch sử. Dù số học sinh thi đại học môn lịch sử đạt điểm từ 7,0 điểm trở lên chưa nhiều, nhưng đã có sự tiến bộ so với các năm trước, điều đó khẳng định Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử tại Trường THCS&THPT Quan Hóa có tác dụng tích cực trong việc giúp học sinh khắc ghi kiến thức, nâng cao hiệu quả học tập trong toàn trường nói chung và ôn thi trung học phổ thông quốc gia đối với học sinh khối 12 nói riêng. Cuối năm học 2017 – 2018, Ban Giám Hiệu Trường THCS&THPT Quan Hóa đã tổ chức thăm dò, khảo sát ý kiến của học sinh đợt 2 về chất lượng giảng dạy của các giáo viên về các môn học trong nhà trường. Kết quả khảo sát môn Lịch sử (có 136 học sinh tham gia khảo sát) như sau: Nội dung 1. Về phương pháp giảng dạy của giáo viên a. Bạn cảm thấy giáo viên Nhanh Cấp độ Chậm Vừa phải 12 giảng bài b. Bạn cảm thấy giáo viên trình bày nội dung các bài học c. Giáo viên thường sử dụng phương pháp gì để truyền đạt cho học sinh 0 Khó hiểu 4 Dễ hiểu 33 Đọc bài cho Giảng dạy học sinh chép cho học sinh hiểu 0 125 d. Trong các buổi học, bạn Căng thẳng Hài hòa, thoải cảm thấy không khí trong mái lớp 0 103 e. Trong môn học, bạn cảm Ít Trung bình thấy kiến thức thu được 3 44 2. Về mức độ quan tâm của giáo viên đối với học sinh a. Bạn cảm thấy được giáo Ít viên quan tâm đến thái độ 0 học tập của học sinh b. Giáo viên tư vấn, giúp đỡ Thường xuyên học sinh học tập 92 c. Giáo viên quan tâm đến Quan tâm giáo dục đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật 110 3. Về phong cách, đạo đức giáo viên a. Trang phục (Quần áo, giầy dép, tóc…) b. Ngôn ngữ giao tiếp c. Thái độ ứng xử 4. Đánh giá chung Bạn có thích được giáo viên tiếp tục giảng dạy không? Đẹp mắt 51 Lịch sự, rõ ràng 114 Hòa nhã, thân thiện 114 132 Rõ ràng, dễ hiểu 103 Đối thoại với học sinh 11 Sôi nổi 33 Nhiều 89 Trung bình 40 Nhiều 96 Thỉnh thoảng 44 Ít quan tâm Không 0 Không tâm 0 26 Bình thường 85 Bình thường 22 Bình thường 22 quan Luộm thuộm 0 Thiếu lịch sự, khó nghe 0 Thiếu tôn trọng 0 Rất thích Có thể học Không thích tiếp 99 37 0 Như vậy, sau một năm học tập tại trường, thái độ, hứng thú học tập của học sinh đối với môn Lịch sử đã có sự chuyển biến tích cực, đầu năm học chỉ có 5/148 (3,4%) học sinh thích học môn Lịch sử, cuối năm học tăng lên 99/136 (72,8%), 13 điều đó khẳng định tính hiệu quả của các phương pháp mà giáo viên đã áp dụng trong quá trình giảng dạy, trong đó có phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử. 3. KẾT LUẬN 3.1. Kết luận. Như đã nói ở trên, môn Lịch sử là một môn học đặc thù, người học đứng ở hiện tại để nhìn lại quá khứ với rất nhiều sự kiện, nhân vật lịch sử thế giới và trong nước, đòi hỏi sự ghi nhớ chính xác. Tâm lí chung của phần đông học sinh là ngại học, không hứng thú với việc học môn lịch sử, cũng có những học sinh thích và say mê môn lịch sử nhưng lại chưa tìm ra phương pháp học phù hợp cho mình để lĩnh hội kiến thức. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy - học, sử dụng kết hợp các phương pháp, các phương tiện phù hợp với từng bài dạy, với đối tượng học sinh là điều cần thiết, giúp học sinh hứng thú hơn, khắc sâu kiến thức hơn khi học môn Lịch sử, hạn chế sự nhầm lẫn về địa danh lịch sử, nhân vật lịch sử, bản chất của các sự kiện hiện tượng… Đối với các trường miền núi như trường THCS&THPT Quan Hóa, học sinh xét tuyển đại học khối C nhiều hơn so với khối A, tuy nhiên tổng điểm thi ba môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí vẫn thấp so với mặt bằng chung của nhiều trường trong tỉnh và cả nước, việc đổi mới phương pháp dạy học để học sinh có hứng thú học tập, nắm vững kiến thức, nâng cao kiến thức ôn thi Trung học phổ thông quốc gia là một điều cấp thiết. Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử là một trong các phương pháp góp phần giúp học sinh nắm vững kiến thức, nâng cao kiến thức ôn thi trung học phổ thông quốc gia, thực tế đã chứng minh điều đó. 3.2. Kiến nghị. Phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học Lịch sử và khắc ghi sâu kiến thức lịch sử này có thể áp dụng cho nhiều bài dạy, dễ áp dụng, chi phí thấp, phù hợp khi áp dụng giảng dạy ở các trường học điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn, đời sống và trình độ dân trí chưa cao như huyện Quan Hóa và các huyện miền núi khác của tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, để phương pháp này thành công cần có sự nỗ lực, tâm huyết, của giáo viên giảng dạy trên cơ sở đã nắm rõ đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của từng học sinh nói riêng và toàn trường nói chung, giáo viên phải có sự linh hoạt trong việc lấy ví dụ cụ thể, phù hợp, dẫn dắt để học sinh rút ra được nội dung bài học từ ví dụ mà giáo viên đưa ra. Không chỉ với môn lịch sử mà các môn học khác như Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân cũng có thể áp dụng phương pháp lấy ví dụ gợi mở giúp học sinh hứng thú với môn học và khắc ghi sâu kiến thức. Phương pháp này cũng dễ phổ biến trong phạm vi nhà trường hay các cụm trường thông qua những đợt tập huấn 14 do Sở GD&ĐT tổ chức hoặc thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của các tổ chuyên môn, các cụm trường. XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Quan Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2018 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác Quách Thị Nhi 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Lịch sử 12, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Lịch sử 11, NXB Giáo dục Việt Nam, Bắc Giang, 2014. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Lịch sử 10, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2006. 4. Nguyễn Xuân Tùng, Hướng dẫn ôn tập kì thi trung học phổ thông quốc gia năm học 2017 – 2018 Khoa học xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018. 5. Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, 2000. 16 ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP SỞ GD&ĐT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI : 1. Tổ chức hoạt động ngoại khóa, tich hợp kiến thức liên môn: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí góp phần củng cố kiến thức, nâng cao chất lượng học tập và ôn thi đại học cho học sinh THPT (phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954) Được Hội đồng khoa học Ngành đánh giá xếp loại C năm học 2012 2013 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan