BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
NGUYỄN KHƢƠNG
PHONG TRÀO ĐÔNG DƢƠNG ĐẠI HỘI
Ở TRUNG KỲ (1936 - 1937)
Chuyên ngành
: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số
: 8229013
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN PHƢỢNG
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các kết quả khoa học được trình bày trong luận văn
này là thành quả nghiên cứu của bản thân tôi trong suốt thời gian thực hiện đề
tài dưới sự chỉ dẫn của người hướng dẫn và chưa từng xuất hiện trong công bố
của các tác giả khác. Các kết quả đạt được là chính xác và trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Khƣơng
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh, Tôi xin bày
tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới:
TS Nguyễn Văn Phượng là giảng viên trực tiếp hướng dẫn đề tài,
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian viết luận văn. Sự chỉ bảo
tận tình và chu đáo của Thầy giúp tôi hoàn thành tốt hơn luận văn của mình,
giúp tôi nhận ra sai sót cũng như tìm ra hướng đi đúng khi tôi gặp khó khăn.
Tỉnh ủy các tỉnh, Các cơ quan ban ngành các tỉnh Huế, Thanh Hóa,
Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Gia Lai…. đã tạo điều kiện thuận lợi và
tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu
tham khảo.
Bên cạnh đó, không thể thiếu là sự giúp đỡ của gia đình và người thân
đã luôn ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể tập trung nghiên cứu và
hoàn thành đề tài này.
Do kiến thức và thời gian còn hạn chế, luận văn còn nhiều khiếm
khuyết, không sao tránh những thiếu sót nhất định. Kính mong các thầy, cô
và các bên liên quan từ nhà trường quan tâm giúp đỡ, đóng góp ý kiến để
luận văn hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề .................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 5
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................... 5
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 6
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHONG TRÀO ĐÔNG DƢƠNG ĐẠI
HỘI Ở TRUNG KỲ (1936 - 1937) ................................................................. 7
1.1. Chính sách thuộc địa mới và phong trào tập hợp dân nguyện ở các
thuộc địa của Pháp ......................................................................................... 7
1.1.1. Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp và chính sách thuộc địa mới ... 7
1.1.2. Phong trào tập hợp dân nguyện ở các thuộc địa của Pháp ............... 9
1.2. Tình hình Trung Kỳ trong những năm 1936 - 1937 ............................. 11
1.2.1. Tình hình kinh tế ............................................................................. 11
1.2.2. Tình hình xã hội .............................................................................. 15
1.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương trước những diễn biến
mới của thời cuộc ......................................................................................... 18
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 26
Chƣơng 2. DIỄN TIẾN CỦA PHONG TRÀO ĐÔNG DƢƠNG ĐẠI HỘI
Ở TRUNG KỲ (7/1936 - 3/1937) .................................................................. 27
2.1. Sự hình thành phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ ............... 27
2.1.1. Phong trào Đông Dương Đại hội ở Nam Kỳ và ảnh hưởng của nó
đối với Trung Kỳ....................................................................................... 27
2.1.2. Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ được hình thành ..... 33
2.2. Sự lan tỏa của phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ............... 39
2.2.1. Cuộc vận động tập hợp Dân nguyện tiến tới Đại hội toàn kỳ ........ 39
2.2.2. Đại hội toàn kỳ tại Huế (20/9/1936) ............................................... 49
2.3. Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ đi vào thoái trào ........... 53
2.3.1. Chính sách của chính quyền thực dân phong kiến đối với
phong trào ................................................................................................. 53
2.3.2. Những sự kiện cuối cùng của phong trào Đông Dương Đại hội ở
Trung Kỳ ................................................................................................... 61
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 63
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA PHONG
TRÀO ĐÔNG DƢƠNG ĐẠI HỘI Ở TRUNG KỲ (1936 - 1937) ........................64
3.1. Đặc điểm của phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ ............... 64
3.1.1. Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ diễn ra thể hiện sự
nhạy bén, linh hoạt của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng ..................... 64
3.1.2 Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ là một phong trào cách
mạng thực sự do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo ......................... 65
3.1.3. Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ diễn ra dưới những
hình thức, nội dung phong phú, linh hoạt và sáng tạo .............................. 67
3.1.4. Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ diễn ra không đồng
đều giữa các địa phương và có nét riêng so với khu vực khác. ................ 68
3.1.5. Phong trào Đông Dương Đại hội ơ Trung Kỳ là một bộ phận của phong
trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ở các nước thuộc địa và phụ thuộc ....... 71
3.2. Vai trò của phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ.................... 72
3.3. Bài học lịch sử....................................................................................... 77
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Tình hình các doanh nghiệp ở Đông Dương (1933 - 1940) ........... 13
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thời kỳ 1936 - 1939 có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử cận đại Việt
Nam nói chung và lịch sử khu vực Trung Kỳ nói riêng. Đó là thời kỳ lịch sử
diễn ra cuộc vận động lớn và mạnh mẽ vì các quyền dân sinh, dân chủ của
hàng triệu quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Đây là bước phát triển mới của phong trào Cách mạng ở Việt Nam và
khu vực Trung Kỳ, bước chuẩn bị quan trọng tiến tới giành những thắng lợi to
lớn, nhất là công cuộc giải phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945.
Trong các hoạt động của phong trào dân chủ 1936 - 1939, trước hết phải nói
đến phong trào Đông Dương Đại hội.
1.2. Phong trào Đông Dương Đại hội những năm 1936 - 1937 được xem
là một phong trào cách mạng thực sự, thức tỉnh tinh thần chiến đấu của mọi
giai tầng trong xã hội, làm cơ sở nền tảng đưa phong trào dân chủ 1936 - 1939
bước vào thời kỳ đấu tranh mới, chống lại thế lực phản động thuộc địa tay sai,
đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế
nhưng phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ (1936 - 1937) là bước
phát triển quan trọng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân do Đảng
Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Trên nhiều phương diện, phong trào Đông
Dương Đại hội cùng các hoạt động khác trong phong trào cách mạng 1936 1939 là cuộc diễn tập thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945. Tuy nhiên, cho đến nay những nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài về
cuộc phong trào Đông Dương Đại hội ở Việt Nam nói chung và khu vực
Trung Kỳ nói riêng vẫn chưa tương xứng với ý nghĩa lịch sử của nó.
1.3. Từ thực tiễn trên, thiết nghĩ việc tìm hiểu về phong trào Đông
Dương Đại hội ở Trung Kỳ những năm 1936 - 1937 là việc làm cần thiết,
không những có ý nghĩa khoa học mà còn có có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
- Về mặt khoa học: Nghiên cứu đề tài giúp làm rõ về sự diễn biến, đặc
2
điểm, vai trò của phong trào Đông Dương Đại hội trong phong trào dân chủ
1936 - 1939 nói riêng và trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc ở khu vực
Trung Kỳ nói chung. Từ đó, rút ra những bài học lịch sử quý báu cho sự
nghiệp cách mạng sau này.
- Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu đề tài góp phần đi đến những nhận
định, đánh giá khách quan về phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ
nói riêng và cả nước nói chung; là nguồn tư liệu cần thiết bổ sung cho việc
học tập và giảng dạy lịch sử Việt Nam thời kỳ cận đại.
Với mong muốn đi sâu tìm hiểu diễn biến, đặc điểm và vai trò của
phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ những năm 1936 - 1937 và giải
quyết những yêu cầu khoa học, thực tiễn nêu trên, tác giả quyết định chọn vấn
đề “Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ (1936-1937)” làm đề tài
nghiên cứu và viết Luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Những vấn đề liên quan về phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ
trong những năm 1936 - 1937 hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp được đề cập ở một
số công trình nghiên cứu. Tập hợp tài liệu, có thể chia thành các nhóm công
trình với hướng tiếp cận như sau:
2.1. Tiếp cận dưới góc độ lịch sử Việt Nam thời cận đại
Tiêu biểu cho hướng tiếp cận này là các công trình như: Lịch sử Việt
Nam từ 1919 đến 1945; Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II; Lịch sử Việt Nam,
tập III, Lịch sử Việt Nam, tập 9 từ năm 1930 đến năm 1945; Lịch sử cuộc vận
động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936 - 1939)...
Những công trình này đã trình bày khá tỉ mỉ bối cảnh lịch sử, diễn biến
và ý nghĩa của phong trào dân chủ thời kỳ 1936 - 1939, trong đó có phong
trào Đông Dương Đại hội với tư cách là hình thức vận động tập hợp Dân
nguyện ở Việt Nam. Trong khi khái quát về diễn biến phong trào Đông
3
Dương Đại hội ở Việt Nam, các công trình này có đề cập đến một số sự kiện
về phong trào Đông Dương Đại hội diễn ra ở Trung Kỳ.
2.2. Tiếp cận dưới góc độ lịch sử địa phương
Tiêu biểu cho hướng tiếp cận này là các công trình như: Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Thanh Hóa, tập 1 (1930 - 1954); Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ An, tập 1;
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1930 - 1975); Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình
Định (1930 - 1945); Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1930-1954) tập 1; Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (1930 - 1954), tập 1; Lịch sử Gia Lai từ nguồn
gốc đến năm 1975; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (1930 - 2020)...
Những công trình này trong khi trình bày phong trào cách mạng tại địa
phương dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ đảng có đề cập đến những sự kiện
lịch sử liên quan đến cuộc vận động Đông Dương Đại hội trong những năm
1936 – 1937.
2.3. Tiếp cận dưới góc độ phong trào Đông Dương Đại hội ở Việt Nam
Đáng chú ý nhất là các công trình nghiên cứu về phong trào Đông
Dương Đại hội của tác giả Nguyễn Thành. Đó là cuốn sách Cuộc vận động
Đại hội Đông Dương năm 1936 xuất bản năm 1985 bởi Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh. Trong công trình này, tác giả đề cập khái quát đến bối cảnh
lịch sử bùng nổ phong trào Đông Dương Đại hội, tập hợp những bài viết trên
các báo xuất bản ở Nam Kỳ cổ vũ phong trào ở khu vực này. Tuy nhiên, công
trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu về phong trào Đông Dương Đại hội ở
Nam Kỳ và trình bày ở dạng biên niên các sự kiện, nặng về tìm hiểu cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực báo chí, chưa đi sâu vào nội dung chính, thiếu tính hệ
thống, rõ ràng và đặc biệt chưa làm rõ được đặc điểm, vai trò và rút ra bài học
học lịch sử của phong trào Đông Dương Đại hội ở Việt Nam.
Trong khi đó, với bài báo “Về phong trào Đại hội Đông Dương” đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1 năm 1996, tác giả Nguyễn Thành đề cập
và trao đổi những vấn đề liên quan đến người khởi xướng, thời điểm bắt đầu
4
và kết thúc của phong trào Đông Dương Đại hội.
Nhìn chung, vấn đề phong trào Đông Dương Đại hội (1936 - 1937) ít
nhiều được đề cập trong các công trình nghiên cứu về phong trào Đông
Dương Đại hội ở Việt Nam và một số công trình lịch sử dân tộc, lịch sử địa
phương. Tuy nhiên, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì những công trình này
cũng mới chỉ mới dừng lại ở việc khảo cứu sơ lược về phong trào Đông
Dương trên cả nước nói chung, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ. Dù vậy, các công trình khoa
học của các tác giả đi trước và những vấn đề khoa học đang đặt ra là những cơ
sở quý giá, giúp tác giả có nguồn tư liệu và xác định hướng nghiên cứu. Trên cơ
sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, dựa vào
nguồn tài liệu mà tác giả sưu tầm được, luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ đề
tài “Phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ (1936 - 1937)”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong trào Đông Dương Đại hội ở
Trung Kỳ trong năm 1936 - 1937.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu của đề tài là giới hạn từ tháng 7/1936 đến tháng
3/1937. Song, để thấy rõ những điều kiện lịch sử dẫn đến sự hình thành và
nhận diện rõ đặc điểm, vai trò của phong trào, nội dung nghiên cứu có đề cập
đến những sự kiện nằm ngoài khung niên đại nêu trên.
- Không gian nghiên cứu của đề tài là khu vực Trung Kỳ theo cách phân chia
địa giới của thực dân từ năm 1884.
- Quy mô nghiên cứu của đề tài tập trung vào làm rõ các cơ sở hình
thành, diễn tiến và đặc điểm, vai trò của phong trào Đông Dương Đại hội ở
Trung Kỳ trong năm 1936 - 1937.
5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tái hiện lại một cách toàn diện, có
hệ thống diễn biến của phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ trong
những năm 1936 - 1937; từ đó nhận diện rõ đặc điểm riêng có và đánh giá
khách quan vai trò của phong trào Đông Dương Đại hội đối với phong trào
dân tộc dân chủ ở khu vực Trung Kỳ thời kỳ 1936 - 1939.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nêu và phân tích những cơ sở hình thành phong trào Đông Dương Đại
hội ở Trung Kỳ trong những năm 1936 - 1937.
- Tái hiện có hệ thống quá trình phát triển của phong trào Đông Dương
Đại hội ở Trung Kỳ trong những năm 1936 - 1937.
- Định danh và phân tích đặc điểm, vai trò của phong trào Đông Dương
Đại hội ở Trung Kỳ; đồng thời, rút ra bài học lịch sử cho phong trào đấu tranh
cách mạng thời kỳ tiếp sau đó và cho hiện nay.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Đề tài hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu khác nhau:
- Các sách chuyên khảo do các cơ quan, cá nhân trong và ngoài nước viết
về phong trào dân chủ 1936 - 1939 nói chung và phong trào Đông Dương Đại
hội nói riêng.
- Các tài liệu tồn tại dưới dạng hồi ký của các nhân vật tham gia phong
trào Đông Dương Đại hội và các công trình nghiên cứu lịch sử địa phương ở
các tỉnh thuộc khu vực Trung Kỳ.
- Tài liệu Thư viện Quốc gia Việt Nam, Văn phòng Tỉnh ủy, Ban nghiên
cứu Lịch sử và thư viện, bảo tàng của các tỉnh thuộc khu vực Trung Kỳ.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nghiên cứu lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic và sự kết hợp giữa hai phương pháp này.
- Bên cạnh đó, để hoàn thành nội dung luận văn, tăng tính thuyết phục
cho những luận điểm khoa học nêu trong luận văn, tác giả còn sử dụng các
phương pháp liên ngành khác như phân tích, so sánh, tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn sẽ có những đóng góp chủ yếu sau:
- Luận văn là công trình trình bày một cách tương đối có hệ thống trên
cơ sở khai thác và xử lý các tài liệu thu thập được về phong trào Đông Dương
Đại hội ở Trung Kỳ trong những năm 1936 - 1937.
- Kết quả của luận văn làm rõ được đặc điểm và đánh giá khách quan vai
trò phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ trong những năm 1936 1937, do đó có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu và học tập về
phong trào dân chủ thời kỳ 1936 - 1939 và lịch sử Trung Kỳ thời cận đại.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
của luận văn được cấu tạo thành 3 chương:
- Chƣơng 1: Cơ sở hình thành phong trào Đông Dương Đại hội
(1936-1937).
- Chƣơng 2: Diễn tiến của phong trào Đông Dương Đại hội ở Trung Kỳ
(7/1936-3/1937).
- Chƣơng 3: Đặc điểm, vai trò và bài học lịch sử của phong trào Đông
Dương Đại hội ở Trung Kỳ (1936-1937).
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHONG TRÀO ĐÔNG DƢƠNG ĐẠI
HỘI Ở TRUNG KỲ (1936 - 1937)
1.1. Chính sách thuộc địa mới và phong trào tập hợp dân nguyện ở các
thuộc địa của Pháp
1.1.1. Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp và chính sách thuộc địa mới
Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp hay được gọi là Mặt trận Bình dân ở
Pháp (1936) là một liên minh của các đảng cánh tả khác nhau cai trị nước
Pháp từ tháng 6/1936 đến tháng 4/1938, bao gồm Đảng Cộng sản, Chi hội
Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế (SFIO), Đảng Cấp tiến và các chính
đảng, tổ chức chính trị khác trong thời kì 1936 - 1938, Mặt trận Bình dân
Pháp giành chiến thắng trong cuộc bầu cử cơ quan dân biểu Pháp tháng
5/1936, dẫn tới việc thành lập chính phủ đầu tiên do lãnh đạo SFIO là Léon
Blum đứng đầu và chỉ bao gồm các bộ trưởng của phe xã hội Chủ nghĩa cấp
tiến và SFIO.
Khi lên nắm quyền, Chính phủ Pháp phải thi hành một số quyền lợi cho
quần chúng lao động trong nước và ở các thuộc địa. Đối với các nước thuộc
địa, Cương lĩnh của Mặt trận bình dân nêu ra việc thành lập phái đoàn của
Quốc hội Pháp điều tra tình hình các thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và Đông
Dương, toàn xá tù chính trị, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp
đoàn, cải thiện điều kiện làm việc cho giới lao động....
Tình hình thế giới, nhất là tình hình nước Pháp đã tác động tích cực đến
tình hình chính trị ở Việt Nam và các nước thuộc địa Pháp.
Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền gây ảnh hưởng đến cuộc đấu
tranh ở các nước thuộc địa
Ở Pháp, các xu hướng chính trị cực hữu, phát xít xuất hiện muộn và
8
tương đối yếu hơn so với ở một số nước Tây Âu khác. Do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX, bắt đầu
xuất hiện một số phong trào phát xít, trong đó, phong trào “Nước Pháp hành
động” và “Thập tự lửa” là hai phong trào phát xít lớn nhất thường xuyên tổ
chức các cuộc diễn hành với sự tham gia của hàng chục nghìn người, ra sức
cổ vũ cho xu hướng quân phiệt, vị chủng và chạy đua vũ trang.
Tuy nhiên, nước Pháp cũng là nước có truyền thống dân chủ và cách
mạng tiêu biểu. Đảng Cộng sản Pháp là một trong những chính đảng lớn, có
ảnh hưởng sâu rộng và uy tín lớn đối với quần chúng nhân dân lao động.
Ngay từ cuối năm 1933, đầu năm 1934, Đảng Cộng sản Pháp tổ chức nhiều
cuộc biểu tình phản đối chủ nghĩa phát xít, lôi cuốn được hàng chục nghìn
người tham gia. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Pháp kịp
thời chuyển hướng chiến lược, chấm dứt công kích chính trị đối với Đảng
Dân chủ - Xã hội Pháp và các đảng phái cánh tả, trung tả hoặc trung gian.
Tháng 8/1935 Mặt trận Bình dân Pháp thành lập với tên gọi là “Tập hợp Dân
chúng”. Đây là một liên minh dân chủ, chống phát xít do hai tổ chức làm
nòng cốt là Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Dân chủ - Xã hội Pháp. Ngoài ra,
còn có một số tổ chức tiến bộ khác như: Đảng Xã hội cấp tiến, Tổng công
đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Thống nhất…
Trong cuộc bầu cử Nghị viện Pháp tổ chức vào ngày 3/5/1936, đã giành
được 386 ghế trong khi đó các đảng cực hữu chỉ giành được 22 ghế [12; tr.
208]. Mặt trận Bình dân Pháp do Léon Blum đứng đầu được thành lập và
Marius Mute được cử làm Bộ trưởng Bộ Thuộc địa.
Việc Chính phủ Bình dân Pháp được thành lập là một thắng lợi lớn của
phong trào dân chủ chống phát xít. Chính phủ Blum tuyên bố sẽ tiến hành một
số cải cách dân chủ ở Pháp, đối với Đông Dương và xứ thuộc địa khác như:
ân xá tù chính trị, ban bố luật lao động... Trên thực tế thì Chính phủ chưa có
lời cam kết nào cụ thể, ngoài việc tuyên bố sẽ thực thi một số chính sách để
9
cải thiện cuộc sống dân chúng các xứ thuộc địa, và: “sẽ lập một phái đoàn
thanh sát tình hình chính trị, kinh tế và tinh thần tại các vùng lãnh thổ hải
ngoại của nước Pháp đặc biệt là Đông Dương và Bắc Phi” [27; tr. 31].
Chính phủ Blum xuất hiện, tuy rằng chính phủ ấy chưa phải là Chính
phủ Mặt trận nhân dân theo đúng như ý nghĩa giải thích trong nghị quyết Đại
hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản nhưng vẫn là Chính phủ phái tả, nằm
trong “trường tranh đấu” của nhân dân Pháp, chống phát xít phản động, bênh
vực dân chủ tự do, chống chiến tranh, đòi hòa bình. Chính phủ này chưa từng
thấy trong lịch sử chính thể Cộng hòa thứ ba của Pháp. So với các chính phủ
trước đây của giới tư bản tài phiệt Pháp thì thái độ đó của Chính phủ Bình dân
Pháp cũng đã là một chuyển biến đáng kể, một điều kiện thuận lợi cho bước
phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc tại các nước là thuộc địa của
Pháp, trong đó có Việt Nam. Đây chính là cơ sở quan trọng, tiền đề trực tiếp
cho sự nẩy sinh Cuộc vận động Đông Dương Đại hội ở Việt Nam trong những
năm 1936 - 1939.
1.1.2. Phong trào tập hợp dân nguyện ở các thuộc địa của Pháp
Ngay sau khi chính phủ Léon Blum thành lập và bắt tay vào việc thực
hiện chương trình của Mặt trận nhân dân thì lúc này ở nhiều thuộc dịa của
Pháp ở Châu Phi, phong trào quần chúng đòi dân chủ, sưu tập dân nguyện để
đưa cho Ủy ban điều tra cũng được hình thành đã ảnh hưởng đến tình hình
nước Pháp và Đông Dương.
Ở Angieri, ngày 7/6/1936, ba phái Eluy, Uleema và những người cộng
sản họp ở Angieri để chuẩn bị cho một Đại hội Hồi giáo toàn quốc, tổ chức
một cuộc biểu tình, ra “Hiến chương yêu sách của nhân dân Angieri Hồi giáo”
gồm 6 mục, như: xóa bỏ tất cả mọi đạo luật không có ngoại lệ; liên quan giữa
Angieri với Pháp bằng việc xóa bỏ chức Toàn quyền và các hoạt động khống
chế khác; tôn trong các phong tục Hồi giáo,.. Cuộc Đại hội lần 2 của Mặt trân
nhân dân họp ngày 2/8/1936, quyết định cử một đoàn đại biểu 3 người đi Pari,
10
mang bản thỉnh cầu lên Bộ trưởng Nội vụ Marx Dormay_Angieri là đất nước
thuộc Pháp do Bộ Nội vụ quản ly_có các khoản: bỏ luật dân xứ; cải cách luật
kiểm lâm; lập tức thi hành những đạo luật xã hội do nhân dân lao động; định
mức tiền lương tối thiểu hàng ngày cho công nhân; thực hiện chương trình do
Tổng liên đòa lao động Pháp đề ra; cấm cổ động bài xích người Do Thái; thả
những người biểu tình bị bắt giam; thanh trừng các ngạch quan lại của nhà
nước , gạt bỏ những phần tử phát xít trong đó; thi hành luật ân xá..
Trong khi đoàn đại biểu Mặt trận nhân dân Angieri sang Pari trình bày
bản yêu sách thì nhiều người châu Phi sinh sống ở Pháp, được Đảng Cộng sản
Pháp và các lực lượng dân chủ Pháp ủng hộ, giúp sức tổ chức một cuộc mít
tinh lớn ngay tại Pari làm hậu thuẫn cho đoàn.
Bọn phản động thuộc địa lo sợ phong trào quần chúng, tìm mọi cách chia
rẽ, khủng bố sử dụng bọn Trotsky phá hoại làm cho phong trào suy yếu,
chống đối lẫn nhau và tan rã.
Ở Tuynidi, gần một vạn người dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có tại một
địa điểm gần vườn hoa Gawmbetta ở thủ đô Tuynidi để hoan nghênh chính
phủ do Mặt trận nhân dân Pháp cử ra, đòi các quyền dân chủ cho nhân dân.
Trong cuộc mít tinh có nhiều truyền đơn do Đảng cộng sản và các tổ chức dân
chủ phát hành của các diễn giả cả Đảng cộng sản, của các đoàn thể thanh
niên, phụ nữ được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Có tới 54 nghiệp đoàn
được thành lập và một số nghiệp đoàn khác ra đời. Chính quyền thực dân
buộc phải hứa ban hành một số cải cách xã hội cần thiết, đồng thời cũng lợi
dụng nhữn nhược điểm của phong trào như yêu sách “tả” khuynh của Đản
Đeetus mới đòi độc lập cho đất nước để khủng bố và đàn áp phong trào.
Ở Maroc, Ủy ban hành động đã bộc lộ những nhược điểm cơ bản: những
cá nhân thủ lĩnh các phe phái có những mâu thuẫn riêng và mâu thuẫn về sách
lược. Nhân dân vùng Pháp chiếm đóng mâu thuẫn với nhân dân vùng Tây
Ban Nha chiếm đóng do chính sách chia để trị của chủ nghĩa thực dân gây ra,
11
nên có lời kêu gọi mà thiếu đi sự hưởng ứng rộng rãi và mạnh mẽ. Trung tuần
tháng 11/1936, chính quyền thực dân bắt một số người cầm đầu có tư tưởng
dân chủ và tiến bộ, phong trào quần chúng non yếu nên đã bị tan rã ngay.
Ở Đaka và Sanh Lu-i thuộc Senegan,Ủy ban của Mặt trận nhân dân tổ
chức cuộc biểu tình này 14/7/1936, nhưng phong trào thiếu lãnh đạo, mang
tính chất cải lương, quần chúng không được phát động nên bị thực dân Pháp
lợi dụng, chia rẽ, phá hoại.
Có thể nói tình hình ở chính quốc Pháp và các thuộc địa của nó là điều
kiện khách quan thuận lợi trực tiếp kích thích cuộc vận động Đông Dương đại
hội. Tuy nó không quyết định sự hình thành và phát triển của cuộc vận ở
Đông Dương Đại hội ở Việt Nam nhưng không có nó thì chưa có cuộc vận
động vào thời điểm hiện tại. Nó được xem là chỗ dựa về hai mặt: về pháp lý
và về quần chúng cho phong trào quần chúng ở Đông Dương.
1.2. Tình hình Trung Kỳ trong những năm 1936 - 1937
1.2.1. Tình hình kinh tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho
nền kinh tế của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ
tư sản bị thủ tiêu và thay thế vào đó là nền chuyên chính của lực lượng phát
xít. Nước Pháp bước vào khủng hoảng có muộn hơn nhưng lại kéo dài và
cũng như nhiều đế quốc khác, muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc
khủng hoảng, giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó
lên đầu nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Trước hết là việc thực dân Pháp cho thắt chặt hàng rào thuế quan, chỉ
ưu tiên cho hàng hóa Pháp vào Đông Dương, kiên quyết giành độc quyền
thương mại ở thị trường này. Hàng Pháp vào Đông Dương từ chỗ chỉ chịu
mức thuế thấp nhất (2,5%) đến việc miễn thuế hoàn toàn, trong khi hàng các
nước vào thị trường này chịu thuế ngày một cao, có thứ phải nộp thuế 100%
giá trị hàng hóa.
12
Cùng với đó, việc tăng thuế cũng là một biện pháp sớm được nhà cầm
quyền chú ý. Thuế thân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng
từ 3 đến 8 lần. Các biện pháp thu tài chính khác ở Đông Dương như mở công
trái, lạc quyên, vay dài hạn… cũng được áp dụng. Giai cấp địa chủ, tư sản và
tầng lớp thượng lưu bản xứ cũng có những bộ phận gặp nhiều khốn khó vì bị
phá sản, bị chèn ép, bị vỡ nợ bởi thuế má ngày một cao và không đủ sức cạnh
tranh với tư sản Pháp.
Vùng đất Trung Kỳ vốn đã không được thiên nhiên ưu đãi, kinh tế khó
khăn, đời sống nhân nhân cực khổ, chịu hàng trăm thứ thuế nay lại phải đối
mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế. Nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá
nông sản bị giảm mạnh, sản xuất công nghiệp cũng bị đình đốn, nhất là ngành
khai mỏ. Hàng loạt nhà máy xí nghiệp đóng cửa, thương mại xuất nhập khẩu
đều bị sút giảm, hàng vạn công nhân và lao động bị sa thải hoặc nghỉ việc.
Cũng giống như Bắc Kỳ, Nam Kỳ, thực dân Pháp cho ngưng lại cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai theo quy mô lớn đang diễn ra ở Trung Kỳ; đồng
thời khẩn trương áp dụng những biệp pháp cấp thiết ở hầu hết các lĩnh vực
kinh tế - xã hội để góp phần giải quyết khủng hoảng kinh tế ở chính quốc.
Từ cuối năm 1935 đến đầu năm 1936, nền kinh tế Đông Dương có dấu
hiệu bắt đầu khôi phục trên một số lĩnh vực, tuy nhiên vẫn còn tiêu điều, kiệt
quệ do hậu quả của thời kỳ tổng khủng hoảng trầm trọng và kéo dài. Bức
tranh chung của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này vẫn còn khá đen tối.
Các ngành kinh tế nhất là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến, thương
nghiệp đều vẫn còn khó khăn chủ yếu do thiếu vốn đầu tư, số lượng các
doanh nghiệp hoạt động trên toàn cõi Đông Dương của người Pháp cũng như
tổng số vốn đầu tư lúc giờ không hề tăng lên mà vẫn tiếp tục giảm, chỉ số duy
nhất tăng đáng kể là số lợi nhuận bình quân của các cổ phần cho thấy lợi ích
của giới chủ vẫn được đảm bảo. Bảng thống kê dưới đây cho ta thấy rõ:
13
Bảng 1.1: Tình hình các doanh nghiệp ở Đông Dƣơng (1933 - 1940)
Năm
Số lƣợng
công ty
Tổng số vốn (fr)
Lợi tức bình quân
cổ phần (fr)
1933
345
3.369.700.000
87.000.000
1934
333
3.104.400.000
96.500.000
1935
319
3.109.500.000
109.400.000
1936
312
2.783.700.000
132.200.000
1937
307
2.806.900.000
227.200.000
Nguồn: [27; tr. 34]
Tình hình trên đây là do kết quả của việc chính quyền thuộc địa ở Đông
Dương vẫn tiếp tục kéo dài chính sách kinh tế áp dụng cho thời kỳ khủng
hoảng. Một số công ty lớn có quan hệ chặt chẽ với giới tài phiệt Pháp tiếp tục
được hỗ trợ, được vay vốn ưu đãi do vậy mà các doanh nghiệp của giới chủ
bản xứ tiếp tục bị chèn ép và tình cảnh của họ vẫn không được cải thiện. Điều
này cho thấy sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp bản xứ và doanh nghiệp
người Pháp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng diễn ra tình trạng tương tự. Quá
trình tích tụ ruộng đất trong tay một số nhỏ đại địa chủ bản xứ và chủ đồn
điền người Pháp vẫn tiếp tục được chính quyền thực dân thúc đẩy đưa đến
chỗ là hàng triệu người nông dân Việt Nam bị mất đất, địa chủ hạng nhỏ và
vừa cũng tiếp tục bị khuynh gia bại sản. Năm 1936, Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị
định cấp không cho nữ công nhân Pháp có đệ đơn xin cấp đất với diện tích
dưới 500 ha để lập làng mới. Trong khi đó, tại vùng châu thổ Bắc Kỳ, trong
tổng số 1.933.000 suất đinh thì có tới 968.000 đinh không có ruộng đất. Ở
Nam Kỳ, 930 địa chủ sở hữu hơn 480.000 ha ruộng, trung bình mỗi địa chủ sở
hữu tới 530 ha ruộng. Ở Trung Kỳ hơn một nửa số hộ dân hoàn toàn không sở
hữu ruộng đất hoặc chỉ có tới dưới 0,5 ha [13; tr. 321].
Bên cạnh đó, về chính sách tài chính - sưu thuế của chính quyền thực
- Xem thêm -