Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển kinh tế tỉnh thái bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập...

Tài liệu Phát triển kinh tế tỉnh thái bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập

.PDF
81
571
125

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TIẾN HIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH THÁI BÌNH THEO HƢỚNG BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Chuyên ngành: Kinh tế học Mã số :60.31.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hoàng Ngọc Phong HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn NGUYỄN TIẾN HIỆP Mục lục MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG .....................11 1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế bền vững.............................................. 11 1.2. Phát triển kinh tế theo hướng bền vững ..................................................... 19 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH THÁI BÌNH.....25 GIAI ĐOẠN 2005 - 2015 ...........................................................................................25 2.1. Thực trạng phát triển kinh tế..................................................................... 25 2.2. Đánh giá tổng quát thực trạng phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của tỉnh ......................................................................................................... 39 2.3. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu đối với phát triển kinh tế của tỉnh.............. 41 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG, MỤC TIÊU, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH THÁI BÌNH THEO HƢỚNG BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP.............................................................44 3.1. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập................................................................................ 44 3.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2016-2020 .......................................................................................... 50 3.3. Các giải pháp phát triển bền vững kinh tế tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hội nhập.............................................................................................................................61 KẾT LUẬN .................................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................73 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT WECD Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển KT-XH Kinh tế -xã hội ĐBSH Đồng bằng sông Hồng KTTD Kinh tế trọng điểm CAIRNS Nhóm các nước có lợi ích xuất khẩu nông sản GTSX Giá trị sản xuất ĐV Đơn vị KCN Khu công nghiệp SXCN Sản xuất công nghiệp SP Sản phẩm CCN Cụm công nghiệp DN Doanh nghiệp TP Thành phố UBND Ủy ban nhân dân GDTX Giáo dục thường xuyên THPT Trung học phổ thông TDTT Thể dục thể thao DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng Tên bảng Trang Bộ chỉ thị PTBV về kinh tế củaỦy ban Phát triển bền 1.1 vững LHQ (UN CDS) 22 Bộ chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát triển bền vững 1.2 kinh tế địa phương giai đoạn 2013-2020 23 Chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững kinh tế tỉnh 1.3 Thái Bình 24 2.1 Hiện trạng quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế 30 2.2 Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Thái Bình 2011-2015 31 Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo GRDP 2.3 hiện hành 36 So sánh một số chỉ tiêu về kinh tế của tỉnh Thái Bình 2.4 năm 2014 so với vùng và một số tỉnh lân cận 38 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những thập niên gần đây, phát triển bền vững đã trở thành một khái niệm được nhắc tới nhiều trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng cũng như tại các hội thảo, hội nghị khoa học không chỉ ở Việt Nam mà trên phạm vi toàn cầu. Nói tới phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phát triển quốc gia hay phát triển địa phương, phát triển toàn cầu hoặc phát triển khu vực, v.v..., “phát triển” đều được hướng tới theo nghĩa “phát triển bền vững”. Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, do đó đã được toàn thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Hiện nay chưa có bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới khẳng định đã đạt được sự phát triển bền vững theo đúng nghĩa của nó. Sự phát triển đang diễn ra ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương hiện nay là sự phát triển theo hướng bền vững. Do vậy, phát triển bền vững là cái đích mà mỗi quốc gia, mỗi địa phương đang phấn đấu thực hiện nhằm giải quyết những mâu thuẫn gay gắt trong phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), ổn định xã hội (nhất là tiến bộ, công bằng xã hội; giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm; quản lý sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, quản lý rủi ro thiên tai...). Ở Việt Nam, ngày 17/08/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số: 153/2004/QĐ-TTg, phê duyệt “Định hướng Chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Tăng trưởng nhanh và bền vững là một trong những quan điểm xuyên suốt của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2010-2020, đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua. Ngày 12 tháng 4 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 1 Quyết định số 432/QĐ -TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, xu thế hội nhập và tác động mạnh của các Hiệp định thương mại tự do (FTA); Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đây là cơ hội mở ra với hàng hóa nông sản xuất khẩu; chế biến hàng xuất khẩu, nâng cấp chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; cơ hội về thu hút đầu tư từ các dòng vốn dịch chuyển đầu tư từ các quốc gia. Tỉnh Thái Bình là một trong số ít các tỉnh, thành phố đầu tiên trong cả nước xây dựng được chương trình phát triển bền vững cấp địa phương. UBND tỉnh đã chỉ đạo xây dựng Định hướng phát triển bền vững tỉnh Thái Bình (Chương trình Nghị sự 21 tỉnh Thái Bình) nhằm cụ thể hóa việc thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững quốc gia trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở định hướng phát triển bền vững, tỉnh Thái Bình đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội - môi trường theo hướng bền vững, nhằm góp phần cùng các tỉnh phía Nam vùng đồng bằng Sông Hồng và cả nước thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát triển theo hướng bền vững và cũng đã đạt được những kết quả bước đầu đáng kể: tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, vấn đề môi trường được đặc biệt quan tâm, đời sống của nhân dân trong tỉnh từng bước được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, nếu xem xét dưới góc độ phát triển kinh tế theo hướng bền vững thì vẫn còn có những thách thức đặt ra như: tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nhất là cơ cấu lao động, cơ cấu ngành nghề, năng suất lao động chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng; phát triển kinh tế xã hội của tỉnh còn dựa nhiều việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu là tài nguyên đất nông nghiệp và mặt nước; tỷ lệ hộ nghèo 2 vẫn còn; công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh còn sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải. Nhiều nguồn tài nguyên đang có xu hướng bị khai thác quá mức, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả.Môi trường ở một số điểm dân cư, một số khu công nghiệp, làng nghề bị xuống cấp, mức độ ô nhiễm ngày càng tăng tại các dòng sông và nguồn nước. Trong thời gian tới tỉnh Thái Bình cần phải làm gì để thực hiện có hiệu quả phát triển theo hướng bền vững nói chung và đặc biệt là bền vững về phát triển kinh tế? Để giải quyết những vấn đề đang đặt ra như trên là rất khó khăn, phức tạp bởi nó liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị -kinh tế xã hội và tất cả các điều đó đều liên quan đến vấn đề phát triển theo hướng bền vững. Vậy nên tác, giả chọn vấn đề "Phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập" làm đề tài cho Luận văn Thạc sỹ của mình với mục đích góp phần nhỏ bé vào nhiệm vụ lớn lao, lâu dài của toàn tỉnh. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phát triển bền vững nói chung và phát triển kinh tế theo hướng bền vững nói riêng là một vấn đề khoa học được đề cập ở những khía cạnh khác nhau, qua tìm hiểu tác giả thấy có một số công trình khoa học nổi bật như sau: - Khái niệm “Phát triển bền vững” được biến đến ở Việt Nam vào những khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ. Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta (Việt Nam) tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như: "Tiến tới môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá các khái 3 niệm về phát triển bền vững theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I”(2003) do Viện Môi trường và phát triển bền vững, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí phát triển bền vững của Brundtland và kinh nghiệm các nước như: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra hệ thống các tiêu chí cụ thể về phát triển bền vững đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí phát triển bền vững cho Việt Nam. "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững (2000) do Lưu Đức Hải và cộng sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho phát triển bền vững. Công trình này đã xác định phát triển bền vững qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa, đã tổng quan nhiều mô hình phát triển bền vững như mô hình 3 vòng tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990); mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED (1987); mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990); mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của Worl Bank (WB). Chủ đề này cũng được bàn luận sôi nổi trong giới khoa học xã hội với các công trình như: "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm phát triển bền vững: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, và cuối cùng là chỉ báo quốc tế về phát triển. Trong một bài viết đăng trên Tạp chí Xã hội học 4 (2003) của tác giả Bùi Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ XXI" tác giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về phát triển bền vững: Chỉ báo kinh tế, xã hội, môi trường, chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hoá, vai trò phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hoá khái niệm phát triển bền vững theo Brundtland, tuy nhiên cần nói thêm rằng những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội cũng vẫn chưa được làm rõ. - Phát triển bền vững ở Việt Nam - thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng của Nguyễn Quang Thái và Ngô Thắng Lợi (2007), Nxb Lao động - xã hội. - Hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững/ Bùi Tất Thắng, Lưu Đức Hải, Trần Hồng Quang (chủ biên) (2014), Nhà xuất bản khoa học xã hội. - Tăng trưởng kinh tế với phát triển bền vững, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam của PGS.TS Lê Quốc Lý (chủ biên) (2015), Nhà xuất bản lý luận chính trị. Ngoài những tài liệu được in thành sách xuất bản, còn có những nghiên cứu khác được đăng trên các tạp chí, các báo cáo tham luận tại các diễn đàn, hội thảo, tuy nhiên đi sâu vào từng địa phương cụ thể vấn đề phát triển kinh tế theo hướng bền vững còn ít được đề cập đến. Do vậy, đây làm một đề tài độc lập, được đề cập một cách đầy đủ và hệ thống về phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập. Các công trình nghiên cứu ở trên cùng các tài liệu khác được tác giả kế thừa có chọn lọc trong quá trình làm luận văn. Đề tài: “Phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập” tập trung vào việc đánh giá thực trạng phát triển kinh tế 5 của tỉnh, từ đó đưa ra phương hướng phát triển các ngành kinh tế theo hướng bền vững được xem xét trong bối cảnh hội nhập. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hoá, khái quát hóa và xây dựng khung lý thuyết về phát triển theo hướng bền vững ở phạm vi cấp tỉnh, đề tài luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững và đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế theo hướng bền vững tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hội nhập đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Tổng quan cơ sở lý luận về phát triển bền vững; + Phân tích hiện trạng phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình; + Tổng quan bối cảnh hội nhập của Việt Nam trong thời gian tới, từ đó đưa ra những đánh giá, nhận định của nó tác động với phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình; + Căn cứ vào việc phân tích hiện trạng phát triển kinh tế của tỉnh, đánh giá những tác động của bối cảnh hội nhập tới phát triển kinh tế của tỉnh từ đó đưa ra định hướng và giải phápđể phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tình hình phát triển kinh tế và các ngành kinh tế chủ yếu và môi trường được xem xét dưới góc độ tổng thể các yếu tố tác động tới phát triển của tỉnh trong thời gian tới, đảm bảo phát triển bền vữngtheo hướng bền vững ở tỉnh Thái Bình. 6 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung: Nghiên cứu phát triển kinh tế theo hướng bền vững tỉnh Thái Bình dưới góc độ kinh tế học và chính trị học, không đi sâu vào phát triển bền vững ở dưới các góc độ khác như xã hội học, văn hóa học, môi trường học... + Về không gian: Toàn bộ địa bàn tỉnh Thái Bình và các tỉnh liền kề trong bối cảnh hội nhập và không gian kinh tế mở; + Về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận * Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Đề tài được xây dựng dựa trên phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận chủ yếu của đề tài là lý luận Mác-xít được sử dụng trong toàn bộ nội dung của luận văn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp chúng ta nhìn nhận mọi sự vật và hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và chúng luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng. Trên cơ sở quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển để xem xét và phân tích nội dung nghiên cứu của đề tài. Vận dụng các quan điểm này để làm cơ sở cho việc xem xét các sự kiện và quá trình phát triển, mà cụ thể là quá trình phát triển kinh tế theo hướng bền vững tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu của luận văn thuộc chuyên ngành kinh tế học, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để làm rõ bản chất chung của phát triển kinh tế theo hướng bền vững, tức là làm rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, tăng trưởng, ổn định kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,bảo vệ môi trường trong quá trình 7 phát triển của tỉnh Thái Bình cả về thực trạng quá khứ và tương lai đến năm 2020. * Quan điểm hệ thống Quan điểm này được sự dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Kinh tế của tỉnh Thái Bình là một bộ phận của nền kinh tế vùng vàcả nước nói chung, nó có mối quan hệ với nhiều ngành khoa học khác và trong nội bộ của nó cũng có sự liên kết và gắn bó với nhau. Vì vậy, coi vấn đề phát triển kinh tế của tỉnh như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. * Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Trong thực tế, các sự vật - hiện tượng luôn có sự phân hóa theo không gian làm cho chúng có sự khác nhau giữa nơi này với nơi khác. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề về kinh tế của tỉnh không thể tách rời với vấn đề phát triển tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh, vùng và cả nước. * Quan điểm lịch sử - viễn cảnh. Sự phát triển kinh tế ở quá khứ và bối cảnh tương lai có ảnh hướng lớn đến phát triển kinh tế của tỉnh Thái Bình ở hiện tại. Việc nghiên cứu vấn đề kinh tế của tỉnh Thái Bình trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại - tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo tính logic, khoa học và chính xác nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu này, ngoài những phương pháp chung như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể sau: * Phương pháp phân tích, tổng hợp:Dựa trên việc phân tích tài liệu đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu, từ đó sẽ rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy dủ nhất 8 nhằm đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong phần đánh giá thực trạng phát triển kinh tế theo hướng bền vững ở tỉnh Thái Bình (Chương 2), trên cơ sở khung lý thuyết đã được xây dựng ở Chương 1. Từ số liệu đã được hệ thống hóa, tác giả phân tích sự thay đổi, chuyển dịch để đánh giá sự thay đổi đó là tích cực hay hạn chế. Phương pháp này giúp cho luận văn đảm bảo được tính logic, bám sát vấn đề, đánh giá đúng thực trạng của đối tượng nghiên cứu. * Phương pháp thông kê: Phương pháp này được áp dụng ở nhiều giai đoạn thực hiện của luận văn. Tổng hợp, số liệu, tài liệu, tư liệu , áp dụng phương pháp này để thống kê số liệu và ứng dụng trong xử lý và phân tích các số liệu thống kê về dân số, kinh tế- xã hội của tỉnh, sắp xếp theo từng thời kỳ nghiên cứu. * Phương pháp kế thừa: Phương pháp này luận văn sử dụng trong việc thu thập số liệu, thông tin, số liệu thứ cấp và tham khảo tài liệu trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nội dung luận văn. Tức là dựa vào các số liệu thống kê của tỉnh và các Sở ban ngành trong tỉnh đã có sẵn để từ đó tổng hợp, phân tích và đánh giá tình hình. Phương pháp này được thể hiện rõ trong chương 2 của luận văn khi đánh giá thực trạng phát triển kinh tế theo hướng bền vững của tỉnh giai đoạn 10 năm 2005-2015. * Phương pháp hệ thống hoá: Phương pháp này được sử dụng trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến phát triển kinh tế theo hướng bền vững (Chương 1). Từ nhiều nguồn tài liệu tham khảo khác nhau, tác giả luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa để phân loại các loại tài liệu thành những nhóm khác nhau để tổng hợp, nghiên cứu, tham khảo từ đó 9 xác định được “cái mới” của đề tài, tập trung khai thác và làm rõ trong nội dung luận văn. * Phương pháp thực địa: Trong quá trình thực hiện đề tài sử dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu đã thu thập được.Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú cần chọn lọc chính xác. Đối với công tác nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội, trước hết cần quan tâm đến các dạng thông tin sau: Số liệu thống kê, các bản đồ, các dạng khác (trên mạng, những cuộc điều tra…) 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về phát triển theo hướng bền vững nói chung và phát triển kinh tế bền vững ở cấp địa phương như: nội dung, tiêu chí, mối quan hệ...qua đó góp phần làm rõ các quan điểm phát triển kinh tế theo hướng bền vững. - Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế theo hướng bền vững tỉnh Thái Bình giai đoạn 2005 - 2015, từ đó chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếuđối với phát triển kinh tế của tỉnh. - Phân tích bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực và bối cảnh trong nước tác động đến phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình trong thời gian tới. - Đưa ra các quan điểm, đề xuất các mục tiêu, định hướng và giải pháp khoa học, khả thiđể phát triển kinh tế theo hướng bền vững tỉnh Thái Bình đặt trong bối cảnh hội nhập. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương, gồm các chương sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển bền vững; - Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình giai đoạn 2005-2015; - Chương 3: Định hướng, mục tiêu, phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình theo hướng bền vững trong bối cảnh hội nhập. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế bền vững 1.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Sự giàu có của bất kỳ đất nước nào trong thế kỷ XXI sẽ được xây dựng chủ yếu trên nền tảng văn minh về trí tuệ của con người, nó khác với trước đây là dựa vào sự giàu có nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngày nay, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, sự quan tâm chủ yếu của con người không phải là khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo ra năng suất và sản lượng bằng mọi giá. Trái lại, vấn đề năng suất và sản lượng phải được tạo ra do sự phát triển cân đối cùng với việc duy trì, bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau. Cách nghĩ ấy được coi là "tư duy bền vững" và cách làm ấy được coi là "hành động cho sự phát triển bền vững" và đang được mọi quốc gia, mọi khu vực luôn tìm cách vươn tới. Phát triển bền vững là đòi hỏi cao nhất đối với phát triển kinh tế - xã hội của mọi quóc gia cũng như của từng lãnh thổ trong mỗi quốc gia. Một thời gian dài vào những năm 60-70 của thế kỷ XX xuất phát từ yêu cầu của một thể thống nhất trong quá trình phát triển người ta đã sử dụng thuật ngữ "phát triển đồng bộ", tức là mọi đối tượng phát triển đồng thời, đầy đủ trong mối tương quan trong hệ thống. Thời gian sau này để tránh những gò ép trong khi thực hiện đồng bộ cứng nhắc và cũng là xuất phát từ yêu cầu về 11 sự nhịp nhàng, hài hòa, cân đối trong phát triển mà vẫn đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra, các nhà kinh tế học đã sử dụng thuật ngữ "phát triển cân đối". Yêu cầu của phát triển cân đối là các bộ phận trong hệ thống phát triển một cách cân bằng, phụ thuộc lẫn nhau và chi phối ràng buộc nhau một cách lỏng lẻo hơn, cốt nhất là sự phối hợp với nhau để cùng đạt được hiệu quả. Quan điểm này rất thịnh hành ở các nước phương Tây vào những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Nhiều năm gần đây, khi mà môi trường sống của con người bị phá hủy, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, tầng ozôn bị phá hủy do phát triển công nghiệp quá tải, tình trạng đói nghèo và tệ nạn thất nghiệp không giảm và rất nhiều vấn đề xã hội khác phát sinh... thì người ta nghĩ tới cái" ngưỡng" của sự phát triển. Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện và ngày nay đang được thịnh hành. Phát triển để thỏa mãn những nhu cầu của hôm nay mà không tổn hại đến sự phat triển của tương lai là đòi hỏi lớn lao đối với nhân loại khi lựa chọn các quyết sách về sự phát triển nhằm đạt được cả 3 mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. Trong điều kiện bình thường tính nhân văn trong phát triển phải được tôn trọng và đảm bảo trên thực tế. Các tính toán của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải dựa trên yêu cầu bền vững của sự đan kết các yếu tố phát triển( đảm bảo tính liên ngành, liên vùng) nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Muốn thế mọi hoạt động cần phải được tổ chức khoa học. Sau những thảm họa về môi trường và và những bài học về sự trả giá:"sự trả thù của tự nhiên"(Ph. ăng ghen), con người nhận ra rằng: nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận. Những áp lực nảy sinh trong quá trình phát triển, làm tổn hại về môi trường sinh thái đã đặt nhân loại trước những thách thức to lớn, những độ dốc cần phải vượt để hướng tới sự phát triển bền vững. 12 Đến những năm 80 của thế kỷ XX, lý luận về sự phát triển bền vững được hình thành về cơ bản.Năm 1980, trong báo cáo chiến lược về "bảo vệ thế giới" lần đầu tiên người ta chính thức sử dụng khái niệm phát triển bền vững.Năm 1981 nhà khoa học nông nghiệp người Mỹ L.R.Brown xuất bản một tác phẩm nổi tiếng “xây dựng một xã hội bền vững”. Năm1987, Liên Hiệp quốc thành lập ủy ban môi trường và Phát triển thế giới (WCED). Năm 1987, tổ chức này đã đệ trình lên Đại hội đồng bảo an Liên hiệp quốc khóa 42 bản báo cáo" Tương lai chung của chúng ta" báo cáo này lần đầu tiên chính thức sử dụng khái niệm bền vững và được hiểu là" thỏa mãn nhu cầu của thé hệ chúng ta nhưng không thể hy sinh nhu cầu của thế hệ sau". Ủy ban của Liên hiệp quốc về môi trường xác định phát triển bền vững là:" sự phát triển đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của chúng ta trong việc thỏa mãn những nhu cầu đó trong tương lai".Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trƣờng. Tuyên bố Rio đã làm rõ định nghĩa trên coi sự phát triển bền vững là "sự phát triển đáp ưng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của của các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu của chính họ". Còn theo giáo sư Lê Thạc Cán: " Phát triển bền vững là phát triển trong đó tài nguyên thiên nhiên và điều kiện môi trường được sử dụng để thỏa mãn nhu cầu của thế hệ đang sống, nhưng vẫn đảm bảo các điều kiện cần thiết cho các thế hệ tương lai". Một dự án nâng cao năng lực Việt Nam của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định: "Sự phát triển nhằm đáp ứng được như cầu của Việt Nam hiện nay, 13 trong khi vẫn bảo tồn được các hệ sinh thái cần cho cuộc sống, vì lợi ích của các thế hệ mai sau". Khái niệm phát triển bền vững với ba nội dung (xã hội, kinh tế, môi trường) đã cảnh tỉnh nhân loại hiện nay không nên gây cản trở cho sự phát triển của chính mình cũng như của các thế hệ tương lai. Phát triển bền vững không bao giờ là một khái niệm tuyệt đối và luôn là mục tiêu cần phấn đấu; nội dung cụ thể của quá trình tăng trưởng bền vững không chỉ thay đổi theo từng khu vực trên thế giới mà còn luôn tiến triển cùng với sự phát triển của tri thức và giá trị đang tồn tại trong các xã hội hiện nay. Phát triển bền vững cũng có ý nghĩa rộng hơn bảo vệ môi trường nghĩa là chú ý tới lợi ích lâu dài."Môi trường" là nơi có con người sống và hoạt động còn "phát triển bền vững" là quá trình vận động của mối quan hệ giữa con người và môi trường theo chiều hướng làm cho môi trường ngày càng tốt hơn và bền vững hơn. Vì vậy, môi trường và phát triển là hai mặt của vấn đề"Phát triển bền vững"tạo nên một thể thống nhất không thể tách rời nhau được. Tuy còn những vấn đề chưa được thống nhất cao, thậm chí còn gây tranh cãi, nhưng các định nghĩa này đều chỉ ra cái ngưỡng của sự phối hợp 3 mặt đó là: Tăng trưởng kinh tế; công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Sự phát triển hôm nay không thể quá vì những lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến tương lai, chà đạp lên yêu cầu chung của cộng đồng, của hiệu quả tổng thể mai sau. Lợi ích các bộ phận phải tuân thủ lợi ích toàn cục lâu dài. Đó là những nguyên tắc cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Thực tế chỉ ra rằng, đứng trên quan điểm như vậy đời sống vật chất và mặt bằng dân trí quyết định rất nhiều tới phát triển bền vững. 1.1.2. Ba trụ cột chủ yếu để phát PTBV 14 - Bền vững về kinh tế: Đòi hỏi phải kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ, đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch. - Bền vững về xã hội: Là phải xây dựng một xã hội trong đó nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định phải đi đôi với dân chủ công bằng và tiến bộ xã hội, trong đó giáo dục - đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện cho mọi đối tượng trong xã hội. - Bền vững về tài nguyên và môi trường: Là các dạng tài nguyên thiên nhiên tái tạo được phải sử dụng trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cảvề số lượng và chất lượng các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất. Môi trường tự nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên…) nhìn chung không bị các hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn phế thải từ công nghiệp và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được bảo đảm, con người được sống trong môi trường sạch. Có thể khẳngđịnh: "phát triển bền vững" là một ý niệm, khái niệm vô cùng hữu ích, đáng lưu tâm. Nhưng nếu chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, và tăng trưởng kinh tế là hoàn toàn chưa đủ, chưa khai thác hết sự quan trọng của khái niệm, ý niệm "bền vững".Ý niệm ấy sẽ hữu ích hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là xã hội (gồm cả yếu tố văn hóa). Do vậy, nếu ta khẳng định có một mối liên kết giữa kinh tế - xã hội và môi trường, rộng ra là vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn xã hội (trong đó có vốn con người), thì hủy hoại vốn văn hóa và vốn xã hội cũng là hủy hoại vốn kinh tế. Nói cách khác, những mất mát, suy đồi không thể phục hồi của văn hóa và xã hội chắc chắn sẽ đe dọa sự bền vững của phát triển kinh tế. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan