MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM....................3
1.1.
Khái niệm:........................................................................................................................3
1.2.
Chức năng của Ngân hàng thương mại:...........................................................................3
1.2.1.
Trung gian tín dụng:...............................................................................................3
1.2.2.
Trung gian thanh toán:...........................................................................................3
1.2.3.
Nguồn tạo tiền:.......................................................................................................4
1.3.
Vai trò của Ngân hàng thương mại:.................................................................................4
1.4.
Các loại hình:....................................................................................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.......................8
2.1.
Thực trạng hội nhập của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam:............................8
2.2.
Thực trạng cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam:.......................10
CHƯƠNG III: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.....................................14
3.1.
Cơ hội của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế:. .14
3.2.
tế:
Thách thức của Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc
………………………………………………………………………………………...16
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VƯỢT QUA THÁCH THỨC TRONG CẠNH
TRANH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. .21
4.1.
Giải pháp vượt qua thách thức trong hội nhập quốc tế:................................................21
4.2.
Giải pháp vượt qua thách thức trong cạnh tranh:..........................................................22
4.2.1.
Giải pháp từ phía Chính phủ:..............................................................................22
4.2.2.
Giải pháp từ phía ngân hàng nhà nước:..............................................................23
4.2.3.
Giải pháp từ chính phía các ngân hàng thương mại:...........................................24
KẾT LUẬN............................................................................................................................ 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................28
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng được coi là “huyết mạch” của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng
nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Bởi vậy, hoạt động ngân hàng cần phải luôn thông
suốt, hiệu quả và an toàn để duy trì sự vận hành trôi chảy các hoạt động trong nền kinh tế, góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc mở cửa hơn nữa
đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng là xu hướng phát triển tất yếu nhằm giúp cho thương
mại và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Chắc chắn điều này sẽ tạo ra những thách thức mới,
nhưng cũng mở ra nhiều cơ hội cho hệ thống ngân hàng hoạt động vững mạnh, hiệu quả và
lành mạnh hơn, hỗ trợ tối ưu cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Trong những năm gần đây,
Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đã ký
kết các hiệp định FTA, AEC, TPP… Việc thực hiện các cam kết hội nhập trong lĩnh vực tài
chính - ngân hàng đã mở ra viễn cảnh đầy cơ hội và thách thức mới cho các Ngân hàng thương
mại Việt Nam.
Trước những cơ hội và thách thức đó, chúng tôi đã nghiên cứu và tóm lược những nội
dung cơ bản về hệ thống Ngân hàng thương mại, phân tích sự cạnh tranh và thực trạng hội
nhập của các Ngân hàng thương mại, nhận diện những cơ hội mà các Ngân hàng thương mại
Việt Nam cần phải đón đầu, cũng như những áp lực thách thức phải đối mặt, trên cơ sở đó, đề
xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam vững
mạnh hơn.
2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại:
1.2.1. Trung gian tín dụng:
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các
doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan nhà nước. Mặt khác, nó dùng chính số
tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có
nhu cầu bổ sung vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan trọng để điều
chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu. Thông qua sự điều khiển này, NHTM có vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của
dân cư, ổn định thu chi chính phủ.
Chính với chức năng này, NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông
tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.2.2. Trung gian thanh toán:
Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội được thực hiện bên ngoài ngân hàng thì chi phí
để thực hiện chúng sẽ rất lớn, bao gồm: chi phí in đúc, bảo quản vận chuyển tiền.
Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá và dịch vụ của xã
hội đều được thực hiện qua ngân hàng với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn
giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến.
Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng, nên việc giao lưu hàng
hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng an toàn và tiết kiệm hơn. Không những vậy, do
thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội
3
trước hết là các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.3. Nguồn tạo tiền:
Sự ra đời của các ngân hàng đã tạo ra một bước phát triển về chất trong kinh doanh
tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ nhận tiền gửi và rồi cho vay cũng
chính bằng các đồng tiền đó, thì nay các ngân hàng đã có thể cho vay bằng tiền giấy của mình,
thay thế tiền bạc và vàng do khách hàng gửi vào ngân hàng.
Hơn nữa, khi đã hoạt động trong một hệ thống ngân hàng, NHTM có khả năng “tạo
tiền” bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa NHTM lên
vị trí là nguồn tạo tiền. Quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã
hội. Xong số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh
toán chuyển khoản giữa các ngân hàng.
1.3. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
Vai trò của NHTM đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng nó được thể hiện qua các
vai trò sau:
Thứ nhất: NHTM là nơi tập trung vốn tạm thời nhận rồi trong xã hội để cung cấp cho
các nhu cầu của nền kinh tế, qua đó chuyển tiền thành tư bản để đầu tư phát triển sản xuất và
tăng cường hiệu quả hoạt động của tiền vốn. Trong xã hội luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và
thiếu vốn một cách tạm thời. Những cá nhân, tổ chức có tiền nhàn rỗi tạm thời thì muốn bảo
quản số tiền một cách an toàn nhất và có hiệu quả nhất. Trong khi đó những cá nhân, tổ chức
có nhu cầu về vốn thì muốn vay được những khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình. Chính vì vậy NHTM là một trung gian tài chính tốt nhất để thực hiện chức
năng là cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Ngân hàng là một điạ chỉ tốt nhất mà những người dư
thừa về vốn có thể gửi tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất và ngược lại cũng là một nơi sẵn
sàng đáp ứng những nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp.
Thứ hai: Hoạt động của các NHTM góp phần tăng cường hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. NHTM
với địa vị là một trung gian tài chính thực hiện chức năng là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về
4
vốn trên thị trường tiền tệ đã góp phần đẩy nhanh hoạt động của nền kinh tế, đem lại thuận lợi
cho hoạt động của các cá nhân và tổ chức. Những cá nhân và tổ chức đã giảm được các khoản
chi phí trong việc tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, và ngoài ra có thể
vân dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng để đẩy nhanh hoạt động của
mình. Việc vay vốn từ ngân hàng của các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải có
phương án sản xuất tối ưu và có hiệu quả kinh tế thì mới có thể trả lãi và trả vốn cho ngân
hàng. Việc lập phương án sản xuất tối ưu do doanh nghiệp lập ra phải qua sự kiểm tra, thẩm
định kỹ lưỡng của ngân hàng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể sảy ra.
Ngược lại những cá nhân và tổ chức dư thừa về vốn có thể yên tâm đem gửi tiền của
mình vào ngân hàng vì ngân hàng là một địa chỉ có thể bảo quản tiền vốn một cách an toàn và
hiệu quả tốt nhất. Khách hàng có thể yên tâm về sự an toàn và khả năng sinh lời của đồng vốn
và cũng có thể rút tiền của mình bất cức lúc nào muốn. Có thể lãi suất mà ngân hàng trả cho
khách thấp hơn so với việc đầu tư tiền vốn vào những lĩnh vực như: mua cổ phiếu, đầu tư vào
kinh doanh... nhưng việc gửi tiền vào ngân hàng là có hệ số an toàn cao nhất. Thêm vào đó
những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng như: chuyển tiền, thanh toán hộ, các
dịch vụ tư vấn... sẽ tạo thêm thuận tiện cho khách hàng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Tất cả những hoạt động của ngân hàng là cơ sở giúp cho việc tăng cường hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Thứ ba: NHTM thông qua những hoạt động của mình góp phần vào việc thực hiện các
mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như: ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn
việc làm cao, ổn định lãi xuất, ổn định thị trường tài chính, thị trường ngoại hối, ổn định và
tăng trưởng kinh tế. Với các công cụ mà Ngân hàng trung ương dùng để thực thi chính sách
tiền tệ như: Chính sách chiết khấu; tỷ lệ dự trù bắt buộc của Ngân hàng trung ương đối với
NHTM: lãi suất tín dụng hoặc bằng các nghiệp vụ thị trường tự do. Thì các ngân hàng đóng
một vai trò quan trọng trong việc thi hành chính sách tiền tệ quốc gia. Các NHTM có thể thay
đổi lượng tiền trong lưu thông bằng việc thay đổi lãi suất tín dụng hoặc bằng các nghiệp vụ
trên thị trường mở qua đó góp phần chống lạm phát và ổn định sức mua của đồng nội tệ.
Thứ tư: NHTM bằng hoạt động của mình đã thức hiện việc phân bổ vốn giữa các vùng
qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng khác nhau trong một
5
quốc gia. Các vùng kinh tế khác nhau thì có sự phát triển khác nhau. Hiện tượng thừa vốn hoặc
thiếu vốn một cách tạm thời giữa các vùng diễn ra thường xuyên. Do đó vấn đề đặt ra là làm
sao thực hiện tốt nhất hiệu quả huy động của vốn và chính hoạt động điều chuyển vốn trong
nội bộ ngân hàng đã thực hiện tốt vấn đề này.
Thứ năm: NHTM là cầu nối giữa nền kinh tế các nước và thế giới, tạo điều kiện cho
việc hoà nhập của nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới.
Với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới cùng với chính
sách mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới thì hoạt
động của các NHTM được mở rộng và thúc đẩy cho việc mở rộng hoạt động kinh tế của các
doanh nghiệp trong nước. Với hoạt động rộng khắp của mình, các ngân hàng có khả năng được
nguồn vốn từ các cá nhân và các tổ chức nước ngoài góp phần bảo đảm được nguồn vốn cho
nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng hoạt
động của họ ra nước ngoài một cách rễ dàng hơn, hiệu quả hơn nhờ hoạt động thanh toán quốc
tế, bảo lãnh.
Chính từ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước có sự thâm nhập
vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thế giới.
1.4. Các loại hình:
Dựa trên nhiều hình thức khác nhau mà người ta phân chia ra thành các loại NHTM
khác nhau:
- Dựa trên tiêu thức sở hữu, người ta phân biệt NHTM công và NHTM tư.
NHTM công là loại NHTM do nhà nước cấp toàn bộ vốn điều lệ và bộ máy lãnh đạo
do nhà nước bổ nhiệm. Còn NHTM tư là loại hình NHTM do tư nhân hùn vốn dưới hình thức
góp cổ phần .
- Căn cứ vào tiêu thức quốc tịch, người ta phân biệt NHTM bản xứ và NHTM nước
ngoài .
NHTM bản xứ là NHTM do nhà nước hoặc công dân nước sở tại sở hữu. NHTM nước
ngoài là do nhà nước hoặc các tổ chức công dân nước ngoài sở hữu.
6
- Dựa trên tiêu thức cơ quan cấp giấy phép hoạt động, người ta phân biệt NHTM toàn
quốc (hay còn gọi là NHTM liên bang ở những nước theo thể chế liên bang) là loại hình
NHTM do chính phủ hoặc do một cơ quan quản lý trung ương (thường là ngân hàng trung
ương) cấp giấy phép hoạt động.
NHTM địa phương (hay còn gọi là Ngân hàng bang ở những nước theo thể chế liên
bang) là loại hình NHTM do chính quyền địa phương cấp giấy phép hoạt động.
- Căn cứ vào tiêu thức số lượng chi nhánh người ta phân biệt NHTM duy nhất và
NHTM mạng lưới.
NHTM duy nhất là loại hình NHTM chỉ có một hội sở hoạt động duy nhất trên phạm
vi toàn lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó NHTM mạng lưới là loại hình ngân hàng có hội sở
trung ương và phân chi nhánh hoạt động trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ và nhiều khi có cả ở
nước ngoài.
7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng hội nhập của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam:
Từ sau khi gia nhập WTO và thực hiện lộ trình mở cửa thị trường tài chính ngân hàng
Việt Nam, số lượng Ngân hàng nước ngoài (NHNNg) và chi nhánh nước ngoài không ngừng
gia tăng từ 31 (2006) đến 53 (2013) và 50 (31/12/2015). Các NHTM nước ngoài bắt đầu đặt
chân vào thị trường Việt Nam dưới nhiều hình thức để khai thác một thị trường đầy tiềm năng,
sức ép cạnh tranh vì vậy cũng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Cùng với sự tác động của khủng
hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế, hệ thống NHTM Việt Nam lâm vào tình trạng
khó khăn với chất lượng tài sản kém, nguy cơ đổ vỡ có thể xảy ra.
Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 254/QĐ-TTg ngày
1/3/2012 ban hành Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”, theo
đó khuyến khích sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng (TCTD) và thực hiện các giải pháp
để lành mạnh hóa tài chính và hoạt động của hệ thống, đảm bảo sự an toàn và phát triển bền
vững hơn. Sau 4 năm triển khai đề án này, hệ thống các TCTD đã giảm mạnh về số lượng, theo
đó, có 17 TCTD, chi nhánh NHNNgđã giảm do thực hiện sáp nhập, hợp nhất hoặc rút giấy
phép hoạt động, một số TCTD chuyển đổi mô hình từ NHTM cổ phần sang ngân hàng trách
nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Đến nay, hệ thống
NHTM ở Việt Nam gồm: 4 NHTM Nhà nước, 31 NHTM cổ phần (bao gồm cả 3 NHTM cổ
phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ), 5 NHTM 100% vốn nước ngoài, 3 ngân
hàng liên doanh và 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. (Bảng 1)
8
Bảng 1: Số lượng NHTM ở Việt Nam
STT
Loại hình NHTM
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
2006
2007
2011
2012
2013
2014
2015
1
NHTM Nhà nước
5
5
3
1
1
1
4
2
NHTM cổ phần
32
34
39
38
38
37
31
3
NH 100% vốn nước ngoài
0
0
5
5
5
5
5
4
NH Liên doanh
3
5
5
4
4
4
3
5
Chi nhánh NH nước ngoài
31
41
53
55
53
53
50
Nguồn: website NHNN Việt Nam
Như vậy, giai đoạn 2006 - 2015 tồn tại một xu hướng vận động ngược chiều giữa số
lượng NHTM cổ phần và NHNNg, chi nhánh NHNNg và NHTM trong nước. Trong khi số
lượng NHNNg và chi nhánh NHNNg tăng lên sau khi gia nhập WTO thì số lượng các NHTM
trong nước giảm đi, đặc biệt đến cuối năm 2015, việc sáp nhập 9 NHTM cổ phần yếu kém làm
cho số lượng NHTM cổ phần càng giảm mạnh.
Việc mở cửa thị trường trong nước đã làm gia tăng tỷ lệ sở hữu của nước ngoài trong
các NHTM Việt Nam. Với quy mô mức trần tỷ lệ sở hữu nước ngoài cho phép là 30% (Nghị
định 60/2015/NĐ-CP), các NHTM Việt Nam đã chủ động, tích cực tìm kiếm đối tác chiến lược
và chào bán cổ phiếu cho các cổ đông là tổ chức lớn nước ngoài, nâng dần tỷ lệ sở hữu nước
ngoài. Trong khối các NHTM nhà nước cổ phần hóa, Vietinbank là ngân hàng có tỷ lệ sở hữu
nước ngoài cao nhất (từ khoảng 12% năm 2012 lên đến 28% cuối năm 2014), tiếp đến là
Vietcombank (từ 5% năm 2012 lên đến 20% cuối năm 2014). Trong khối các NHTM cổ phần
không có vốn nhà nước, tỷ lệ sở hữu nước ngoài có xu hướng gia tăng ở các ngân hàng có quy
mô lớn và trung bình như ACB, EIB, TCB, VIB, VPB với khoảng từ 20% - 30%. Các ngân
hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài tăng mạnh trong giai đoạn tái cơ cấu (2012-2014) lên đến
30% là ACB, ABB, SCB và SHB, điều này khẳng định tác động tích cực của việc gia tăng tỷ lệ
sở hữu nước ngoài, đã giúp các ngân hàng này thoát khỏi danh sách các ngân hàng yếu kém.
2.2. Thực trạng cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam:
9
Theo quan điểm của nhà kinh tế học P.Samuelson thì: "Cạnh tranh là sự kình địch giữa
các doanh nghiệp với nhau để giành khách hàng, thị trường". Trong nền kinh tế thị trường,
ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt sản phẩm vô hình, không tồn tại dưới dạng vật
chất như các doanh nghiệp bình thường. Cạnh tranh được hiểu là một quá trình mà trong đó
các doanh nghiệp đấu tranh, ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp để thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng tối đa, thông qua đó đạt được các mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như lợi nhuận, thị
phần và vị thế kinh doanh. Như vậy, cạnh tranh được chủ thể thực hiện nhằm mục đích cuối
cùng là tối đa hóa lợi ích, đối với doanh nghiệp đó là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng đó là
sự thỏa mãn nhu cầu do tiêu dùng sản phẩm mang lại.
Khi khoa học công nghệ phát triển, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo
thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt các doanh nghiệp trước áp lực cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải thỏa mãn cao nhất
những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng. Theo quan niệm của khách hàng, một sản phẩm
ngân hàng có chất lượng phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của
khách hàng, đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một
sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau: Mức độ tham
gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ít và đơn giản, tốc độ xử lý giao
dịch nhanh, mức độ chính xác cao, hiệu quả mang lại cho khách hàng lớn, thái độ phục vụ tốt,
trình độ công nghệ hiện đại.
Cạnh tranh bằng giá cả: Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm. Giá cả có vai trò quan
trọng đối với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức
phí áp dụng cho các sản phẩm, dịch vụ mà NHTM cung ứng cho các khách hàng.
Cạnh tranh bằng việc đa dạng hóa dịch vụ cung cấp: Để đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của các khách hàng, các NHTM phải cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng đa
dạng, độc đáo, tạo ra nét riêng biệt, tích cực nghiên cứu để đưa ra thị trường những sản phẩm
dịch vụ mới với tính năng và tiện ích ưu việt hơn nhằm thay thế những sản phẩm hiện có. Nhờ
đó, các NHTM có thể tạo ra và duy trì lợi thế của mình trong cạnh tranh, đáp ứng được yêu
cầu của khách hàng, giữ khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới.
10
Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối: Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu
cuối cùng của quá trình kinh doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm là hình thức cạnh tranh phi giá
cả gây được sự chú ý và thu hút khách hàng. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng nắm bắt chính xác
và kịp thời nhu cầu của khách hàng, qua đó chủ động cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ,
tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trước đây, các
NHTM thường phát triển mạnh mẽ mạng lưới chi nhánh để mở rộng thị phần và gây sức ép lên
đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các kênh phân phối hiện đại với ưu thế về
nhiều mặt đang dần trở thành xu hướng chung được lựa chọn. Bao gồm:
+ Các chi nhánh tự động hóa hoàn toàn: Đặc điểm của kênh phân phối này là hoàn
toàn do máy móc thực hiện dưới sự điều khiển của các thiết bị điện tử.
+ Chi nhánh ít nhân viên: Kiểu chi nhánh này có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân
hàng, nhất là đối với các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của nó là chi phí thấp, hoạt động linh
hoạt.
+ Ngân hàng điện tử (E_Banking): Hình thức phân phối này được thực hiện thông qua
đường điện thoại hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho khách hàng rất nhiều tiện ích, tiết kiệm
chi phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi. Các giao dịch được thực hiện thông
qua các giao dịch điện tử bao gồm: Máy thanh toán tại điểm bán hàng, máy rút tiền tự động
(ATM), ngân hàng qua điện thoại (Tel_Banking)...
+ Ngân hàng qua mạng: Gồm 2 loại: Ngân hàng qua mạng nội bộ và Ngân hàng qua
mạng Internet.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
là một tất yếu khách quan, xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ
trên nhiều lĩnh vực. Theo đó, song song với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng
phải mở cửa thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong bối cảnh
11
chung đó, các NHTM Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình
hội nhập và cạnh tranh vì khi đó thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước,
các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà.
Thứ hai, sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng
người cung cấp càng đông. Muốn tồn tại và phát triển thì buộc các doanh nghiệp phải cạnh
tranh với nhau. Kết quả là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong
khi một số khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Cạnh tranh diễn ra mọi lúc, mọi nơi không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của riêng ai nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng
thúc đẩy sự phát triển. Mọi doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, đều phải tự
mình vận động để đứng được trong cơ chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi được sẽ
cầm chắc sự phá sản và bị đào thải. sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh và không ngừng nâng cao
năng lực cạnh tranh là một vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay, doanh nghiệp chỉ có thể phát triển được khi năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
Thứ ba, thực tế cho thấy, không một ngân hàng nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất
cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì một ngân hàng có lợi thế về mặt này và hạn chế
về mặt khác. Các ngân hàng phải nhận biết được điều này để tăng cường khả năng cạnh tranh
thông qua việc phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi
hỏi của khách hàng. Có như vậy các ngân hàng mới có thể giữ vững và phát triển được thị
phần, lợi nhuận trong điều kiện mở cửa thị trường, có sự tham gia ngày càng nhiều của các
ngân hàng trong nước và nước ngoài.
Thứ tư, một thực trạng phổ biến hiện nay là năng lực cạnh tranh của các NHTM
Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém nên khả năng tồn tại và khẳng định vị thế trên thị
trường (đặc biệt là thị trường quốc tế) chưa cao.
Từ những phân tích trên, cùng với tầm quan trọng và đặc điểm của ngành ngân hàng
trong tiến trình phát triển kinh tế quốc dân, để có thể tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế thách
thức, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là vấn đề tất yếu khách quan.
12
Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện tự do hóa
và mở rộng thị trường ngân hàng theo các cam kết quốc tế. Điều này đã và đang tạo ra cho các
NHTM Việt Nam những cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít những thách thức khó
khăn phải vượt qua.
13
CHƯƠNG III: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1. Cơ hội của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập
quốc tế:
Quá trình hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công
nghệ, kinh nghiệm, trình độ quản lý của một số NHTM lớn và có uy tín trên trường quốc tế.
Mặt khác, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị
trường trong và ngoài nước, tự thân các NHTM Việt Nam phải chủ động thực hiện cơ cấu lại
hoạt động và tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tiệm cận các chuẩn mực chung
của quốc tế. Các NHTM nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính ngân hàng trong nước sẽ
làm tăng sức ép cạnh tranh với các ngân hàng nội, làm gia tăng sự lành mạnh và an toàn của
toàn bộ hệ thống NHTM. Có thể chỉ ra những cơ hội như sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là cơ hội tăng năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam.
Thực tế quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD theo đề án của Chính phủ thời gian qua cho
thấy, vốn điều lệ của các NHTM đã tăng lên với tốc độ tăng trưởng khá tốt. Đến tháng 8/2015,
vốn điều lệ của Khối NHTM nhà nước đạt 144.999 tỷ đồng, tăng 0,54% so với 31/12/2014;
khối NHTM cổ phần đạt 186.147 tỷ đồng tăng 2,97% so với 31/12/2014. Trong hệ thống có 10
NHTM cổ phần có vốn điều lệ từ 9.000 tỷ đồng đến trên 40.000 tỷ đồng, trong đó Vietinbank
có vốn điều lệ cao nhất, tiếp theo là BIDV, Agribank, Vietcombank, Sacombank, MB,
Eximbank, SCB, SHB, ACB,… Giá trị tổng tài sản của các NHTM cũng tăng mạnh từ khi các
ngân hàng tham gia sâu vào quá trình hội nhập. Xem xét giai đoạn 2007 - 2014 cho thấy, quy
mô tổng tài sản của các NHTM Việt Nam đã tăng từ 1.069 nghìn tỷ đồng (2007) lên 6.515
nghìn tỷ đồng (2014), gấp 6,4 lần và đến cuối tháng 8/2015, đạt khoảng 6.753 nghìn tỷ đồng.
Cam kết hội nhập của Việt Nam cho phép các NHNNg được đầu tư mua cổ phần của
các NHTM trong nước. Đây chính là cơ hội để các NHTM trong nước tiếp cận dòng vốn quốc
tế thông qua phát hành cổ phiếu bán cho đối tác chiến lược là các NHNNg. Hiện nay, có rất
nhiều NHTM cổ phần của Việt Nam có cổ đông ngoại góp vốn với tỷ lệ sở hữu lên tới 20 14
30% như: Vietinbank có 2 cổ đông chiến lược nước ngoài là công ty tài chính quốc tế (IFC) sở
hữu 10% cổ phần (~ 173 triệu USD) và ngân hàng Tokyo Mitsubishi UFJ sở hữu 20% cổ phần
(~ 347 triệu USD); Vietcombank có cổ đông chiến lược là ngân hàng Mizuho sở hữu 15% cổ
phần (~128,1 triệu USD); VIB có cổ đông chiến lược là Commonwealth bank of Australia sở
hữu 15% cổ phần (~ 600 tỷ NVD);… Đây là một lượng vốn rất lớn làm tăng tiềm lực tài chính
của các ngân hàng nội. Tiềm lực tài chính mạnh là điều kiện tiên quyết giúp cho các NHTM
Việt Nam có thể đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới hoạt động, phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực từ đó nâng cao năng lực quản trị điều hành đáp ứng chuẩn quốc
tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế là cơ hội được chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản lý ngân
hàng hiện đại. Tại hầu hết các NHTM cổ phần có tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên 5% đều có các
chuyên gia nước ngoài đảm trách các vị trí quan trọng trong bộ máy quản trị điều hành như
Techcombank, VIB,… Được làm việc với các chuyên gia quản lý cấp cao trong ngân hàng là
cơ hội để chuyển giao công nghệ, kỹ năng, trình độ quản lý tốt đội ngũ cán bộ quản lý Việt
Nam. Mặt khác, có nhiều NHTM trong nước đã thuê các chuyên gia nước ngoài cung cấp các
gói thầu tư vấn về xây dựng chiến lược, lập kế hoạch kinh doanh, quản trị rủi ro, quản trị nhân
sự, đánh giá chất lượng dịch vụ,… Có thể khẳng định, đây là bước chủ động của các NHTM
Việt Nam trong việc đón đầu các cơ hội kinh doanh, đi tìm tiếng nói chung với các nhà đầu tư
nước ngoài, các đối tác nước ngoài trên con đường hợp tác, cạnh tranh để phát triển. Hiện nay,
hàng loạt NHTM Việt Nam đã áp dụng hệ thống phần mềm công nghệ hiện đại để quản trị
ngân hàng như: hệ thống core-banking, hệ thống quản trị khách hàng CRM, chất lượng và hiệu
quả hoạt động vì vậy được nâng lên rõ nét.
Thứ ba, hội nhập quốc tế là cơ hội để các NHTM Việt Nam nâng cao khả năng quản trị
ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao tính minh bạch, công khai. Thời gian qua, dưới
tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, các NHTM trong nước đứng trước áp lực phải
đổi mới mạnh mẽ, toàn diện về tổ chức và hoạt động để có thể khẳng định vị thế và đứng vững
trên thị trường. Nhiều NHTM trong nước đã chú trọng tăng cường kỹ năng quản trị rủi ro, tiệm
cận các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại của quốc tế (Basel II, III). Điển hình như
Vietinbank, ngay sau khi IFC trở thành cổ đông chiến lược (2010), đã ký kết và triển khai tích
15
cực thỏa thuận hợp tác kỹ thuật theo 4 cấu phần, trong đó hỗ trợ về công tác quản trị rủi ro là
một cấu phần quan trọng nhằm xác lập các điều kiện để áp dụng các chuẩn mực của Basel. Có
thể khẳng định, hội nhập quốc tế đã giúp các NHTM có cơ hội tiếp cận kinh nghiệm, kiến thức
của các ngân hàng lớn, các tổ chức tài chính lớn trên thế giới trong công tác quản trị rủi ro nói
riêng và quản trị điều hành nói chung. Mặt khác, với sự tham gia của các cổ đông chiến lược
nước ngoài, buộc các NHTM cổ phần phải công khai, minh bạch hóa thông tin, các hoạt động
quản trị, kế toán, tài chính phải chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế. Thực tế cho thấy, hàng loạt
các NHTM cổ phần Việt Nam khi niêm yết trên thị trường chứng khoán đã phải chuyển hệ
thống kế toán sang chuẩn mực quốc tế (IFRS) bên cạnh hệ thống kế toán theo chuẩn mực Việt
Nam (VAS). Yêu cầu này là tất yếu khi các NHTM Việt Nam có nhu cầu niêm yết trên thị
trường quốc tế. Một số NHTM lớn đã bắt đầu thuê các tổ chức định giá, xếp hạng tín nhiệm
quốc tế để định mức tín nhiệm như BIDV, VCB, Vietinbank. Việc công khai xếp hạng bởi các
tổ chức quốc tế sẽ mở ra cơ hội cho các NHTM lớn của Việt Nam thâm nhập thị trường quốc
tế.
Thứ tư, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội cho các NHTM Việt Nam mở rộng, phát triển thị
trường ra nước ngoài. Theo nội dung đã kết thúc đàm phán trong lĩnh vực dịch vụ tài chính,
một nhà cung cấp dịch vụ của một nước TPP có thể cung cấp dịch vụ tài chính tại thị trường
của một nước TPP khác nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép
cung cấp dịch vụ đó. Chính vì vậy, TPP đã mở ra cơ hội tiếp cận thị trường nước ngoài cho các
NHTM Việt Nam. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn 2010 - 2015, một số NHTM lớn đã tiên
phong trong việc xuất khẩu dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán ra thị trường
nước ngoài, điển hình như BIDV, VCB, Vietinbank. Các NHTM này đã có sự chuẩn bị, chủ
động đón đầu khá tốt cơ hội này: từ việc nghiên cứu, thăm dò thị trường ở các nước phát triển
(Mỹ, Đức, Nga) đến việc thâm nhập thị trường các nước trong khu vực ASEAN như Lào,
Campuchia, Myanmar,… mở các văn phòng đại diện, chi nhánh. Đến nay, có khoảng hơn 20
chi nhánh, văn phòng đại diện của các NHTM Việt Nam ở nước ngoài.
3.2. Thách thức của Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội
nhập quốc tế:
16
Hệ thống NHTM ở Việt Nam phát triển sau các NHTM trên thế giới và non trẻ, còn
những điểm yếu về các mặt như hệ thống quản lí, quản trị rủi ro, lượng vốn, phân bổ tín
dụng… Khi hội nhập kinh tế quốc tế, nghĩa là NHTM bắt buộc phải tuân theo các điều khoản
của những hiệp định đã kí kết, hai là bị sức ép cạnh tranh lớn từ các đối thủ lớn có thế mạnh từ
các quốc gia phát triển. Dẫn đến những thách thức mà NHTM buộc phải đối diện và vượt qua
để tồn tại và phát triển trên chính thị trường của chính mình.
- Một là, sức ép cạnh tranh trên thị trường ngân hàng trong nước ngày càng gay gắt
do sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài. Tính đến 31/12/2016, theo số liệu thống kê của
Ngân hàng nhà nước có 51 chi nhánh NHNNgđược cấp phép hoạt động tại Việt Nam và 7 ngân
hàng 100% vốn nước ngoài. Theo đó, cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt do số lượng
các NHNNgrất lớn với những tiềm lực về huy động vốn, qui mô tín dụng, năng lực quản trị,
hiện đại hóa về công nghệ trong giao dịch ngân hàng, trình độ chuyên môn cao…
Khi các cam kết gia nhập WTO, TPP, AEC có hiệu lực, NHNNgđược quyền huy động
vốn từ dân cư, cung cấp dịch vụ cho các cá nhân, tổ chức là người Việt Nam. Đây là lợi thế để
họ có thể khai thác hết bởi họ có thế mạnh về chất lượng dịch vụ tố hơn, chuyên nghiệp hơn
các NHTM trong nước.
NHTM trong nước có nguy cơ bị thua ngay trên sân nhà trong phân khúc khách hàng
có thu nhập cao và trung bình. Khách hàng là tầng lớp cao và tri thức sẽ dần dịch chuyển qua
các NHNNgbởi dịch vụ họ cung cấp tốt hơn.
Thách thức này đòi hỏi các NHTM trong nước phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đa
dạng hóa sản phẩm, đầu tư công nghệ hiện đại nhằm giữ chân khách hàng trong nước vốn là
lợi thế sẵn có của mình.
- Hai là, NHTM trong nước còn khoảng cách khá xa so với các NHNNgvề tiềm lực
tài chính, chất lượng tài sản thấp và chưa hợp lí.
Mặc dù hiện nay các NHTM trong nước đã tăng vốn điều lệ lên nhiều lần so với khi
chưa hội nhập, cụ thể Tính đến hết năm 2016, vốn điều lệ của ACB đạt 9.377 tỷ đồng và thuộc
nhóm NHTM cổ phần tư nhân có vốn điều lệ dẫn đầu.
17
Trong mùa đại hội cổ đông năm 2017, Nhiều ngân hàng đang lên kế hoạch tăng vốn
điều lệ bằng nhiều phương thức. Trong đó, tăng vốn dự kiến sẽ diễn ra phổ biến ở nhóm ngân
hàng lớn có quy mô hàng chục nghìn tỷ đồng nhưng vẫn chưa thể so sánh với các NHNNgcó
quy mô hàng tỷ USD (Ngân hàng Mitsubishi UFJ có số vốn lên đến 1.770 tỷ USD, hay United
Overseas Bank của Singapore có số vốn lên tới 13,4 tỷ SGD). Xét về mặt an toàn vốn thì các
NHTM trong nước bất lợi hơn.
Cơ cấu tài sản chưa hợp lí và chất lượng tài sản thấp, tỉ lệ nợ xấu trong ngân hàng cao
(VAMC đặt mục tiêu mua 33.000 tỷ đồng nợ xấu trong năm 2017), tuy nhiên việc xử lí nợ xấu
là chưa hiệu quả, chưa triệt, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong hoạt động ngân hàng.
Về hệ thống thanh toán và đảm bảo thông tin thanh toán, các NHTM Việt Nam còn ở
khoản cách khá xa so với các NHTM trên thế giới.
Việc áp dụng tiêu chuẩn Basel II đang được tiến hành ở hiện nay, và các ngân hàng
cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình này. Đây là một trong những khó khăn trong quá
trình hội nhập với hệ thông ngân hàng thế giới.
- Ba là, Áp lực nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư công nghệ
hiện đại.
Sản phẩm của các NHTM ở Việt Nam so với các NHTM chưa đa dạng và phong phú,
bởi hoạt động tài chính trong nước đang trong quá trình chuyển dịch từ truyền thống sang hiện
đai. Việc có một chiến lược ổn định về các sản phẩm tín dụng mới nhằm thu hút khách hàng là
một vấn đề lớn bởi nó đòi hỏi quá trình đồng bộ hóa trong cả hệ thống, đây là một thách thức
lớn bởi nó yêu cầu quản trị rủi ro hiệu quả
Chất lượng dịch vụ ngân hàng trong nước chưa cao, đó là một thực tế phải thừa nhận
hiện nay bởi văn hóa tài chính chưa có sự hội nhập sâu rộng và còn ảnh hưởng bởi văn hóa
truyền thống.
Về áp dụng khoa học công nghệ trong các ngân hàng nhà nước là một vấn đề khá khó
hiện nay bởi khoa học công nghệ trong lĩnh vực tài chính ở nước ta hiện nay đang trong quá
18
trình phát triển. Cần phải cải tiến nhiều về các thiết bị cũng như các phần mềm quản lí, hệ
thống lưu trữ và bảo mật thông tin.
- Bốn là, thách thức về nhân lực trong hoạt động của các NHTM trong nước.
Hiện nay, chất lượng nguồn nhân lưc trong lĩnh vực ngân hàng nước ta vẫn chưa kịp so
với các ngân hàng nước ngoài.
Do đặc thù ngành ngân hàng, chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi trình độ chuyên môn
cao, kỹ năng ngoại ngữ và tin học tốt, khai thác và sử dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Trong số đó các chuyên gia tài chính
đảm bảo phải có một tầm nhìn chiến lược, có thể ứng phó được với môi trường kinh doanh
ngân hàng luôn biến động hiện nay. Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt để đáp
ứng yêu cầu khắt khe khi hội nhập ngân hàng thế giới, đây cũng là điều kiện để đảm bảo sự
phát triển lành mạnh, có hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng nước
ngoài.
Theo báo Lao Động Thủ Đô ngày 9/1/2017, tài chính, ngân hàng giữ vững 2 trong ba
vị trí đầu về nhu cầu tuyển dụng, lần lượt chiếm 18% và 11%. Đây là một con số đang lưu ý và
chứng tỏ sự thu hút nhân lực của ngành, đặc biệt là ngân lực chất lượng cao.
Rất dễ bị mất nguồn nhân lực chất lượng cao
Một lợi thế của nhân lưc là việc trong các ngân hàng trong nước là am hiểu văn hóa,
nhu cầu người Việt, nên nhân lực chất lượng cao của các ngân hàng trong nước rất dễ bị các
NHTM nước ngoài thu hút bởi chế độ lương và phúc lợi cao, môi trường làm việc quốc tế. Đây
cũng là một vấn đề bức thiết đặt ra nếu các ngân hàng trong nước không có các chính sách kịp
thời để lưu giữ và phát triển nhân tài.
- Năm là, nguy cơ các NHTM trong nước bị các NHNNgthâu tóm, sáp nhập.
Hiện nay, các chính sách của nhà nước về sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với
các doanh nghiệp trong nước đã có những thay đổi theo hướng nới rộng, theo các hiệp định,
công ước quốc tế đã kí. Mở cửa thị trường tài chính ngân hàng kéo theo sự thôn tính của các
NHNNgvà những hệ lụy từ việc sở hữu chéo. Với thế mạnh về tài chính, nhân lực, các
19
NHNNgthực hiện việc xâm nhập và phát triển thị trường bằng cách mua cổ phần các NHTM
Việt Nam và trở thành cổ đông chiến lược, thực hiện các thương vụ mua bán sáp nhập (M&A)
hoặc bắt đầu quá trình thâu tóm. Đây là con đường ngắn để các NHNNgthâu tóm các ngân
hàng trong nước dễ dàng hơn, và rút ngắn được thời gian tham gia thị trường và tao dựng
lượng khách hàng.
Các quy định về nới room cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính một mặt
giúp thúc đầy sự phát triển, nhưng cũng làm gia tăng các hoạt động đầu tư chéo dẫn đến sở
hữu chéo lẫn nhau và pahts sinh nhiều vấn đề trong quản trị. Đây là một thách thức lớn hiện
nay, là rào cản lớn nhất thao túng và ảnh hưởng đến toàn hệ thống ngân hàng trong quá trình
xử lý, tái cơ cấu.
20
- Xem thêm -