Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của tòa án trong tố tụng dân sự ...

Tài liệu Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của tòa án trong tố tụng dân sự

.PDF
109
519
97

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ĐẶNG QUANG HUY ĐỀ TÀI NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Định hướng nghiên cứu HÀ NỘI 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI ĐẶNG QUANG HUY ĐỀ TÀI NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 8380103 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Định hướng nghiên cứu Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình HÀ NỘI 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Công Bình. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả luận văn Đặng Quang Huy DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự HĐXX : Hội đồng xét xử TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự VADS : Vụ án dân sự VVDS : Vụ việc dân sự MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............... 6 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ................................................................................... 6 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ............................................................................................................ 6 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự .................................................................................................. 10 1.2. Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự.............................................................................................................. 14 1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự .............................................................................................. 14 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự .................................................................................... 17 1.3. Các yếu tố quyết định hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ................................................... 22 1.3.1. Các quy định của pháp luật về hòa giải trong tố tụng dân sự .......... 22 1.3.2. Trình độ, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm của cán bộ Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán .............................................................. 23 1.3.3. Nhận thức pháp luật và thái độ của đương sự đối với hòa giải trong tố tụng dân sự .............................................................................................. 24 1.4. Mối quan hệ của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự với các nguyên tắc khác của pháp luật tố tụng dân sự .... 24 1.4.1. Mối quan hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự ...................................................................................................... 24 1.4.2. Mối quan hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự .................................................................................................. 25 1.4.3. Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ...................................................................... 26 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ........................................................ 28 2.1. Trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án ...................... 28 2.1.1. Trách nhiệm tiến hành hòa giải vụ việc dân sự của Tòa án ............. 28 2.1.2. Trách nhiệm tạo thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án................................................................................ 41 2.2. Việc hòa giải vụ việc dân sự phải theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự ............................................................................................... 45 2.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải .......................................................... 45 2.2.2. Thành phần phiên họp hòa giải ........................................................ 48 2.2.3. Nội dung hòa giải .............................................................................. 54 2.2.4. Trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải .................................................. 55 2.2.5. Xử lý kết quả hòa giải ....................................................................... 56 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 65 3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam..................................................................... 65 3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam ................................... 65 3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ................................................... 67 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự ............ 72 3.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam................................................. 74 3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam ................................................. 74 3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam .................................................................... 80 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 86 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong xu thế chung của hội nhập quốc tế, Việt Nam có chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được đề cập trong Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp”, trong đó khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó. Hòa giải giúp giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống xã hội, góp phần giải quyết triệt để những mâu thuẫn, tranh chấp đó giữa các đương sự nói riêng và xã hội nói chung. Cụ thể hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW và tiếp nối tinh thần của BLTTDS (BLTTDS) năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011, BLTTDS sự năm 2015 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS (TTDS) như một nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của pháp luật TTDS. Đồng thời BLTTDS năm 2015 đã có những thay đổi, bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc hòa giải trên thực tế tại Tòa án. Có thể nhận thấy sau khi ban hành và được áp dụng trên thực tiễn, những quy định của BLTTDS năm 2015 cụ thể hóa nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS còn bộc lộ nhiều vướng mắc và bất cập. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh như sự chưa tương thích với pháp luật dân sự về vấn đề này; một số quy định còn chưa rõ ràng, cần đợi các văn bản hướng dẫn của TANDTC (TANDTC) để hướng dẫn thi hành; việc Tòa án thực hiện các thủ tục hòa giải đã đúng với tinh thần là tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án1 và đúng quy định của BLTTDS hay không. Chính những vấn đề này đã và đang ảnh hưởng đến việc thực hiện tinh thần của nguyên tắc hòa giải trong TTDS và trực tiếp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ việc dân sự. 1 Điều 10 BLTTDS năm 2015 2 Trước tình hình đó, việc nghiên cứu nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS Việt Nam để bảo đảm việc hiểu những tư tưởng và áp dụng đúng tinh thần của nguyên tắc là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, Học viên đã lựa chọn đề tài “Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự” nghiên cứu làm Luận văn tốt nghiệp của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Hòa giải là một vấn đề quan trọng của TTDS, đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về hòa giải trong TTDS đã được công bố. Về luận án, luận văn, có Luận án Tiến sĩ Luật học:“Chế định hòa giải trong pháp luật TTDS Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Văn Quảng bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004; Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật TTDS Việt Nam” của tác giả Lê Bích Ngọc bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013; Luận văn thạc sĩ luật học: “Hòa giải VADS và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Kim Ngân bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học: “Hòa giải VADS và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên”của tác giả Hà Thị Thanh Thủy bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016… Về các bài viết đăng trên các tạp chí pháp luật, có bài “Điểm mới của BLTTDS năm 2015 về hòa giải VADS và những nội dung cần hướng dẫn” của tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 08/2016; bài “Quy định về hòa giải VADS trong BLTTDS năm 2015 và những nội dung cần làm rõ” của tác giả Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 12/2016; bài “Đa dạng hóa cách tiếp cận đối với hòa giải vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Bích Thảo đăng trên Tạp chí Nghề luật số 05/2010; bài “Bình luận các sai sót từ việc hòa giải thánh một vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh và Vũ Thị Hương đăng trên Tạp chí Nghề luật số 03/2017… Tuy vậy, qua nghiên cứu các công trình đã công bố cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS Việt Nam. Vì vậy, có thể nói, luận văn của Học viên là công trình khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về 3 nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS Việt Nam. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và thực tiễn thực hiện nguyên tắc này tại các Tòa án Việt Nam. Tuy vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây. Trong đó, việc nghiên cứu cũng tập trung chủ yếu vào trách nhiệm hòa giải của Tòa án đối với vụ án dân sự (VADS) và loại việc dân sự yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành qua việc đối chiếu với các quy định trách nhiệm hòa giải VADS của Tòa án theo pháp luật TTDS một số nước để đối chiếu, so sánh và tham khảo. 4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và xây dựng nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự khoa học, hợp lý theo tinh thần cải cách tư pháp. Để đạt được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của nguyên tắc, các yếu tố quyết định hiệu quả thực hiện nguyên tắc và mối quan hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc khác của TTDS. Thứ hai, phân tích làm rõ được nội dung của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành, cụ thể là các quy định của BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án và đánh giá đúng được thực trạng của chúng. Thứ ba, khảo sát thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải 4 của Tòa án trong TTDS tại các Tòa án Việt Nam, phát hiện ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện, đồng thời tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn. 5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu, sử dụng các kết quả thống kê thực tiễn xét xử của ngành Tòa án. 6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN Luận văn là công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về “Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự”. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn có thể khái quát những điểm sau: - Luận văn đã luận giải làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS; - Luận văn đã phân tích, làm rõ những quy định của BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và việc thực hiện trên thực tiễn đồng thời đã chỉ ra những bất cập trong các quy định của pháp luật về nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải quyết vụ việc dân sự, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong VVDS; - Luận văn đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS và thực tiễn thực hiện để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này tại các Tòa án; - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy pháp luật TTDS tại các cơ sở đào tạo luật cũng như trong việc giải quyết vụ việc dân sự của các Tòa án Việt Nam. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương. 5 Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM HÒA GIẢI CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Nguyên tắc, theo cách hiểu chung nhất là “những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc”2. Theo đó, nguyên tắc của một ngành luật cũng được xây dựng dựa trên những nền tảng này. Dưới góc nhìn khoa học pháp lý, nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng pháp lý mang tính chỉ đạo có tính chất xuất phát điểm, thể hiện sự toàn diện và có ý nghĩa bao quát, quyết định sự đúng đắn về nội dung, chất lượng và hiệu quả pháp luật. Chính vì vậy, bất kì một hoạt động nào muốn đi đúng hướng đều đòi hỏi hoạt động đó phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động tư pháp với nhiệm vụ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án tiến hành được nhanh chóng và đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước. Chính vì vậy, hoạt động TTDS phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTDS quy định dựa trên những nguyên tắc nhất định. Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc của TTDS được hiểu là: “những tư tưởng chỉ đạo, biểu thị những đặc trưng TTDS, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho các hoạt động TTDS”3. Qua đó, nguyên tắc của TTDS là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo mang tính chất định hướng, chi phối tất cả các giai đoạn hoặc một số giai đoạn của quá trình TTDS. Những nguyên tắc này được thể hiện dưới hình thức các quy phạm pháp luật TTDS. Theo Từ điển Tiếng Việt thì khái niệm trách nhiệm được hiểu là: “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”4. Theo Hán – Việt tân từ điển thì trách nhiệm được hiểu là “phần việc mà mình phải gánh nhận, và phải Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr. 1217 Nguyễn Công Bình (1998), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật Học, Hà Nội, tr. 12 4 Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr. 1678 2 3 7 chịu luôn kết quả xấu tốt của việc đó” 5. Trong đời sống xã hội, ở những lĩnh vực khác nhau, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong khoa học pháp lý, “trách nhiệm” được dùng với cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Ở góc độ tính cực, trách nhiệm có nghĩa là chức trách, công việc được giao, nó bao hàm cả quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định. Ở khía cạnh tiêu cực, trách nhiệm được hiểu là hậu quả bất lợi mà cá nhân hoặc tố chức phải gánh chịu khi không thực hiện hay thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ được giao phó6. Chính vì vậy, trách nhiệm của Tòa án có thể được hiểu là việc Tòa án phải làm, nếu Tòa án không làm, Tòa án sẽ phải chịu hậu quả về việc không tiến hành đó. Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án là một nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của pháp luật TTDS, được ghi nhận trong các BLTTDS qua từng thời kì. Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp”, trong đó khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó7. Có thể thấy, hòa giải tại Tòa án đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết. Trong xu thế chung về hội nhập quốc tế và phát triển, các mối quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi các chủ thể tham gia vào các mối quan hệ pháp luật đó, họ khó có thể tránh khỏi các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh. Nếu các mâu thuẫn này không được giải quyết một cách kịp thời sẽ để lại nhiều hệ quả không tốt cho các bên tham gia vào quan hệ pháp luật nói riêng và toàn xã hội nói chung. Để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong các mối quan hệ pháp luật nói trên, các chủ thể quan hệ pháp luật có thể lựa chọn nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau. Có thể kể đến như tự thương lượng, tự thỏa thuận Nguyễn Quốc Hùng (1975). Hán Việt Tân từ điển, Nxb. Khai trí, TP Hồ Chí Minh, tr. 485 Nguyễn Cửu Việt (2004). Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 323 7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, tr. 7 5 6 8 hoặc hòa giải thông qua bên thứ ba, trọng tài. Trong trường hợp các bên không thể giải quyết mẫu thuẫn thông qua những phương thức trên, một trong các chủ thể của quan hệ pháp luật sẽ lựa chọn phương thức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi Tòa án thụ lý, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vụ việc dân sự theo yêu cầu của đương sự và trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, hòa giải trong TTDS là một thủ tục tố tụng bắt buộc đối với hầu hết các vụ việc dân sự. Như vậy, có thể thấy trong trường hợp các chủ thể lựa chọn việc khởi kiện, yêu cầu tại Tòa án để giải quyết tranh chấp, yêu cầu của mình, tranh chấp của các bên vẫn có thể được giải quyết thông qua con đường hòa giải tại Tòa án. Chính vì vậy, cần phải có sự minh thị giữa hai khái niệm đó là hòa giải và hòa giải trong TTDS. Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt thì Hòa giải là: “thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” 8. Khái niệm này đã làm rõ được mục đích của hòa giải tuy nhiên lại không đề cập đến chủ thể, bản chất và nội dung của hòa giải. Theo cuốn Từ điển luật học Black Law thì hòa giải (mediation) được hiểu là: “sự can thiệp, sự điều chỉnh, là hành vi của người thứ ba làm trung gian hòa giải giữa hai bên tranh chấp nhằm dàn xếp, thuyết phục, giải quyết tranh chấp giữa họ”9. Khái niệm hòa giải theo Từ điển luật học Black Law đã nêu rõ được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trung gian trong hòa giải giúp đỡ hai bên bằng việc giải thích, đưa ra những lời khuyên dành cho họ để giải quyết tranh chấp giữa họ. Bên thứ ba ở đây có thể được hiểu là trọng tài hoặc các hòa giải viên. Tuy nhiên, việc hòa giải thông qua trọng tài hay hòa giải viên không phải là hòa giải trong TTDS. Hiện nay chưa có một khái niệm cụ thể về hòa giải trong TTDS mà chỉ đề cập đến hòa giải VADS. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Thị Kim Nga, Vũ Mạnh Thông thì “hòa giải là một chế định quan trọng của Luật TTDS, là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự”10. Quan điểm này của các tác Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 340 Henry Campbell Black (1990), Black Law Dictionary, tr. 152, nguyên văn: “Intervention; interposition; the act of a third person who interferes between two contending parties with a view to reconcile them or persuade them to adjust or settle their dispute “ 10 Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Thị Kim Nga, Vũ Mạnh thông (1999), Tìm hiểu ngành luật tố tụng dân sự, Nxb Mũi Cà Mau, tr. 33 8 9 9 giả đã làm rõ được hòa giải là phương pháp để giải quyết VADS bằng chính sự thỏa thuận của các đương sự. Song quan điểm này chưa nêu rõ được bản chất, ai là chủ thể của hòa giải, ai là chủ thể tham gia hòa giải VADS… Theo ThS. Tống Công Cường thì “hòa giải là việc Tòa án hướng dẫn các đương sự tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ án”11. Còn theo quan điểm của Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội thì “Hòa giải VADS là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”12. Hai quan điểm này phần nào đã chỉ rõ hòa giải là một hoạt động tố tụng trong TTDS, chủ thể tiến hành hòa giải, mục đích của hòa giải và phần nào bản chất của hòa giải tuy nhiên lại chưa làm rõ được một số vấn đề như thời điểm tiến hành hòa giải và điều quan trọng nhất đó là có phải mọi thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án đều được Tòa án chấp nhận hay không? Bên cạnh đó, cần phân biệt hòa giải trong TTDS với các loại hình hòa giải tranh chấp trên thực tế như: hòa giải cơ sở, hòa giải tại UBND, hòa giải tại bên thứ ba,…Do đều là hòa giải nên giữa hòa giải trong TTDS hay hòa giải ngoài TTDS đều mang bản chất là hình thức giải quyết tranh chấp và đều mang đặc điểm chung của hòa giải. Thứ nhất, các hình thức hòa giải kể trên đều là các biện pháp giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ dân sự. Thứ hai, các hình thức hòa giải đều có sự tham gia của chủ thể thứ ba đóng vai trò trung gian giúp đỡ các bên giải quyết tranh chấp, đúng với định nghĩa hòa giải (mediation) được định nghĩa trong cuốn Từ điển luật học Black Law là: “sự can thiệp, sự điều chỉnh, là hành vi của người thứ ba làm trung gian hòa giải giữa hai bên tranh chấp nhằm dàn xếp, thuyết phục, giải quyết tranh chấp giữa họ”13.Thứ ba, các bên tranh chấp đều có quyền quyết định tự định đoạt khi tiến hành giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa giải, bất kể là trong hay ngoài TTDS. Điểm khác nhau cơ bản giữa hòa giải trong TTDS và hòa giải ngoài TTDS đó là về chủ thể tiến hành, phạm vi loại việc và hiệu lực thi hành. Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh, NxbĐại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 306 12 Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. CAND, tr. 261 13 Henry Campbell Black (1990), Black Law Dictionary, tr. 152, nguyên văn: “Intervention; interposition; the act of a third person who interferes between two contending parties with a view to reconcile them or persuade them to adjust or settle their dispute “ 11 10 Từ những phân tích trên, có thể kết luận: “Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản và đặc trưng trong TTDS, xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc hòa giải vụ việc dân sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS quy định và tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội”. 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS là một nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của pháp luật TTDS đồng thời có ý nghĩa hết sức quan trọng trong TTDS. Trong hoạt động tư pháp thì Tòa án giữ vai trò trung tâm và là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước tiến hành xét xử các vụ việc dân sự. Trong những năm qua việc hòa giải tại Tòa án đã góp phần giải quyết được những tranh chấp về các lĩnh vực dân sự tránh được những tranh chấp nghiêm trọng xảy ra và đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong các vụ việc dân sự. Qua nghiên cứu cho thấy, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có những ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có ý nghĩa đối với Tòa án Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS góp phần tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành hòa giải các VVDS tại Tòa án. Việc hòa giải thành các VVDS sẽ giúp Tòa án sớm giải quyết được VVDS, tránh được những thủ tục tố tụng kéo dài, phức tạp trong quá trình giải quyết VVDS. Qua đó, Tòa án sẽ giảm bớt được nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho việc giải quyết VVDS đồng thời còn giải quyết được mâu thuẫn giữa các đương sự một cách triệt để. Bên cạnh đó, hòa giải thành là một sự bảo đảm cho việc thi hành nghiêm chỉnh, nhanh gọn các quyết định của Tòa án. Trong trường hợp hòa giải thành, mỗi bên đương sự đều thỏa thuận trên cơ sở ý chí tự nguyện và phù hợp với lợi ích của mình, nên họ tự nguyện trong việc thực hiện các quyết định của Tòa án. Việc thi hành án do đó không cần sự tác động nào của Tòa án và trở 11 nên đơn giản, dễ dàng hơn, ít để lại hậu quả xấu. Khi các vụ tranh chấp dân sự được đưa ra xét xử, bản án của Tòa án thường không dễ dàng được các đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp nhận và thi hành nghiêm túc, ngay cả khi nó đã có hiệu lực pháp luật. Thực tế cho thấy đa số các bản án phải có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát của cơ quan thi hành án thì mới được thực hiện một cách đúng đắn. Rất ít những trường hợp các bên tự nguyện thi hành bản án của Tòa án. Một trong các nguyên nhân của hiện tượng đó là do bên bị thi hành án chưa "tâm phục, khẩu phục" đối với bản án của Tòa án. Họ cho rằng bị xử oan, quyền lợi của họ bị vi phạm, hoặc cảm thấy bị thua thiệt. Do đó, họ chỉ miễn cưỡng chấp nhận bản án sau khi đã kháng cáo, khiếu nại nhiều lần. Việc Tòa án tiến hành hòa giải, các đương sự sẽ tự nguyện thi hành quyết định của Tòa án như một việc đương nhiên cần phải làm để nhanh chóng kết thúc vụ việc tranh chấp, khắc phục các hậu quả, thiệt hại để sau đó bắt tay vào việc khôi phục, phát triển các mối quan hệ trong tương lai. Khi các bên tranh chấp chấp nhận phương án hòa giải do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử của Tòa án đề xuất thì việc Tòa án không phải mở phiên tòa đã giảm bớt được một cách đáng kể rất nhiều chi phí về thời gian, công sức, tiền bạc của không chỉ bản thân họ, mà còn giảm bớt được gánh nặng xét xử, giảm bớt được một phần đáng kể những chi phí của Tòa án (chi phí lấy lời khai, khảo sát, điều tra, thu thập chứng cứ, chi phí cho việc mở các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm...). Các quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự thường được giải quyết dứt điểm. Việc khiếu nại, kháng nghị quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ít xảy ra. Trong khi đó, nhiều vụ án đưa ra xét xử đã bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhiều lần, diễn ra kéo dài, phức tạp, tốn kém tiền của, công sức, thời gian của Nhà nước và đương sự. Bên cạnh đó, trong trường hợp hòa giải không thành VVDS thì việc Tòa án đã tổ chức hòa giải cũng giúp cho thẩm phán cũng như các đương sự trong VVDS đó có cái nhìn rõ hơn, cụ thể hơn nội dung của VVDS với những tình tiết, mâu thuẫn giữa họ trong đó. Từ đó Thẩm phán củng cố thêm hồ sơ vụ việc, đưa ra định hướng giải quyết đúng đắn cho vụ việc, nâng cao hiệu quả xét xử. 12 Thứ hai, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có ý nghĩa đối với các đương sự. Hòa giải VVDS bảo đảm được quyền tự định đoạt của đương sự, là cơ hội để các đương sự có thể bàn bạc, thỏa thuận với nhau về cách giải quyết tranh chấp đã phát sinh giữa các bên. Hòa giải tại Tòa án giúp các đương sự hiểu rõ về quyền tự định đoạt của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Quyền tự định đoạt trong giải quyết tranh chấp thể hiện trước hết ở việc các đương sự hoàn toàn được tự do thỏa thuận lựa chọn phương thức phù hợp để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ giữa họ. Đương sự được lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp. Nếu tranh chấp được đưa ra Tòa, thì toàn bộ quy trình, thủ tục giải quyết vụ kiện sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật TTDS. Trong quy trình đó, Tòa án đại diện cho quyền lực của Nhà nước sẽ đưa ra các quyết định có liên quan cũng như đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện. Từ đó, việc hòa giải tại Tòa án góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự. Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án trong phiên hòa giải, các đương sự sẽ phần nào hiểu được quy định của pháp luật về vấn đề mà họ đang tranh chấp. Từ đó, các bên có thể hiểu và tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp, không trái với quy định của pháp luật. Tòa án sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết VVDS. Việc thỏa thuận như thế nào về việc giải quyết vụ án do chính các đương sự thực hiện quyền quyết định và tự định đoạt của mình, Tòa án chỉ có vai trò trung gian, giải thích pháp luật để các đương sự hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ của mình trong VVDS, về tranh chấp giữa các bên, từ đó có thể các đương sự sẽ thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và hàn gắn được phần nào mâu thuẫn giữa họ - điều mà không một bản án nào có thể làm được. Bởi lẽ, trên thực tế, kể cả khi Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án giải quyết VADS nhưng một số đương sự vẫn trong trạng thái “không phục” và cố gắng kháng cáo “cầu may” hoặc không tự nguyện thi hành án. Có thể thấy trong trường hợp đó, các mâu thuẫn của các đương sự vẫn còn rất gay gắt, chưa thể hàn gắn được quan hệ giữa họ mặc dù đã có bản án của Tòa án giải quyết tranh chấp đó. Do đó, hòa giải thành giúp cho việc thi hành án thuận lợi, các cam kết đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án, nên các đương sự 13 tự giác thi hành các cam kết, mà không cần có sự tác động của cơ quan Nhà nước, do đó việc thi hành án trở nên đơn giản dễ dàng, nhanh gọn không có những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS khẳng định lại một lần nữa như là một cơ hội để các đương sự ngồi lại với nhau, làm rõ những tình tiết, sự kiện trong VVDS, từ đó mở ra cơ hội để họ có thể thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc. Chính vì những lý do trên, nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các đương sự trong VVDS. Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong TTDS có ý nghĩa đối với kinh tế - xã hội. Đối với việc xét xử VVDS, thời gian, kinh phí tổ chức việc xét xử của Tòa án và sự tham gia TTDS của đương sự, những người tham gia TTDS là rất lớn. Khi đã có tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp bao giờ cũng đòi hỏi các đương sự, Nhà nước, xã hội phải bỏ ra chi phí thời gian, sức lực, tiền bạc, mà những chi phí đó nhiều khi rất lớn, do việc giải quyết tranh chấp phải huy động nhiều cơ quan chức năng, cơ quan chuyên môn và có thẩm quyền, huy động nhiều người và phương tiện. Những công việc như: Thu thập chứng cứ để chứng minh và khai báo tại Tòa án, tổ chức các buổi gặp gỡ, tiếp xúc, đối chất giữa các đương sự và những cơ quan, những người có liên quan... đã làm hao phí rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của các đương sự, của xã hội cũng như của Nhà nước. Với việc Tòa án có trách nhiệm phải tạo điều kiện hòa giải cho các đương sự sẽ góp phần tạo điều kiện cho họ thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Từ đó, Tòa án sẽ sớm kết thúc việc giải quyết VVDS, tiết kiệm được thời gian, công sức của Tòa án, tiền bạc của Nhà nước. Còn đối với các đương sự, việc hòa giải thành sẽ giúp cho họ tiết kiệm được thời gian và những chi phí không cần thiết ở những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Bên cạnh đó, việc hòa giải VVDS còn giúp Tòa án giải quyết VVDS một cách thấu tình, đạt lý, củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời với việc tham gia vào các phiên hòa giải do Tòa án tiến hành, các đương sự hiểu biết hơn về pháp luật nói chung, quyền và nghĩa vụ của bản thân trong VVDS nói riêng, từ đó cùng nhau tháo gỡ những mâu thuẫn, bất đồng, khôi phục lại tình cảm hoặc ít nhất cũng giúp họ tham gia giải quyết
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất