ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc khai thác các nguồn tài nguyên hóa thạch nói chung và dầu
mỏ nói riêng để phục vụ nhu cầu đời sống con người đã ngày càng
làm giảm nhanh trữ lượng của chúng trong tự nhiên. Để nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn nguyên liệu dầu mỏ, hạn chế việc khai thác
quá mức nguồn tài nguyên này, người ta nghiên cứu cải tiến về công
nghệ và tìm kiếm những xúc tác phù hợp để chế biến sâu nguyên
liệu, tạo ra các sản phẩm có giá trị cao hơn. Một trong những quá
trình ấy là cracking có mặt xúc tác.
Cracking xúc tác là phân xưởng quan trọng nhất trong các nhà
máy lọc dầu. Hiện nay, công nghệ cracking sử dụng chủ yếu trong
các nhà máy lọc dầu là công nghệ cracking xúc tác tầng sôi (Fluid
Catalytic Cracking – FCC) với xúc tác chứa zeolit. Xúc tác chứa
zeolit có những ưu điểm như hoạt tính và độ chọn lọc cao, dễ tách
khỏi sản phẩm, không gây ô nhiễm môi trường, … Với những ưu
điểm này nó đã thúc đẩy nhiều nhà khoa học đi sâu vào biến tính và
tìm kiếm những zeolit mới nhằm mục đích cải tiến xúc tác để đưa
vào ứng dụng trong công nghiệp. Tuy nhiên, zeolit cũng có những
hạn chế nhất định, đặc biệt hệ thống mao quản có kích thước bé
không phù hợp với những phân tử có kích thước lớn, cồng kềnh. Vì
vậy, nhiều nghiên cứu tập trung tìm kiếm xúc tác và các quá trình
phù hợp để có thể chuyển hóa được các phân đoạn dầu nặng thành
những sản phẩm nhẹ hơn, có giá trị kinh tế cao đáp ứng được nhu
cầu của con người.
Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các thành công trong việc
tổng hợp các vật liệu mao quản trung bình đã mở ra một giai đoạn
mới trong tổng hợp chất xúc tác và hấp phụ. Bên cạnh vật liệu M41S,
một họ vật liệu mao quản trung bình khác là SBA (Santa Barbara
Amorphous) được tổng hợp lần đầu tiên ở đại học Santa Barbara
(Califonia, Mỹ) bởi nhóm nghiên cứu Galen Stucky. Trong số các
vật liệu của họ SBA, SBA-15 được quan tâm hơn cả bởi SBA-15 có
cấu trúc sắp xếp các mao quản kiểu lục lăng với mức độ trật tự cao,
bền nhiệt và thủy nhiệt, diện tích bề mặt lớn, mặt khác nó còn có hệ
thống vi mao quản nối liền giữa các mao quản trung bình. Với các ưu
điểm như vậy nên vật liệu SBA-15 được ứng dụng khá nhiều trong
các lĩnh vực như xúc tác, hấp phụ, .... Tuy nhiên, SBA-15 thường
1
được tổng hợp trong môi trường axit mạnh nên vật liệu có thành
phần chủ yếu là SiO2, kém hoạt động về mặt hóa học. Vì thế, để có
thể làm xúc tác cho phản ứng cracking, vật liệu phải được biến tính
bề mặt có tính axit phù hợp. Thông thường, người ta thay thế nguyên
tử silic trong mạng của SBA-15 bởi một nguyên tử khác hoặc đưa
các oxit kim loại lên nền vật liệu.
Nhiệm vụ được đặt ra cho đề tài luận án là biến tính bề mặt
SBA-15 để thu được các vật liệu có khả năng làm xúc tác cho phản
ứng cracking dầu nặng có hiệu quả.
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Với mục đích tạo các pha hoạt động trên vật liệu SBA-15 làm
xúc tác cho quá trình cracking phân đoạn dầu nặng, luận án sẽ thực
hiện các nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu xác định điều kiện tổng hợp xúc tác chứa các
tâm axit trên nền vật liệu mao quản trung bình SBA-15 với các đối
tượng nghiên cứu cụ thể là Al-SBA-15, SO42-/Zr-SBA-15 và Al2O3ZrO2-Fe2O3-SBA-15.
2. Sử dụng các phản ứng cracking xúc tác phân đoạn dầu nặng
để đánh giá hoạt tính xúc tác, từ đó xác định các điều kiện và xúc tác
tốt nhất cho mỗi quá trình.
3. Điểm mới của luận án
1. Ảnh hưởng của dung môi phân tán nguồn nhôm lên trên SBA15 trong tổng hợp vật liệu Al-SBA-15 bằng phương pháp gián tiếp
đã được nghiên cứu một cách có hệ thống. Mối quan hệ giữa tính
chất dung môi và khả năng phân tán cũng được rút ra. Trong số các
dung môi nghiên cứu (dung dịch HCl, n-hexan, C2H5OH, H2O),
C2H5OH cho kết quả tốt nhất. Kết quả này chưa được công bố trên
các tài liệu trong nước và trên thế giới.
2. Các xúc tác SO42-/Zr-SBA-15 đạt được từ sulfat hóa vật liệu
Zr-SBA-15. Trong tổng hợp Zr-SBA-15 bằng phương pháp trực tiếp,
việc sử dụng hai chất điều chỉnh pH là urea và NH4OH đã được so
sánh và kết quả chỉ ra rằng sử dụng NH4OH cho kết quả tốt hơn. Kết
quả này được công bố lần đầu tiên.
3. Hệ xúc tác bao gồm các hỗn hợp các oxit Al2O3, ZrO2 và
Fe2O3 phân tán trên SBA-15 đã được điều chế lần đầu tiên trên thế
giới. Hệ xúc tác này được thiết kế nhằm ứng dụng trong phản ứng
cracking oxi hóa phân đoạn dầu nặng, một cơ chế phản ứng mới
2
được phát hiện trong những năm gần đây nhằm giảm lượng cốc và
tăng hiệu suất tạo xăng.
4. Hoạt tính xúc tác cracking phân đoạn dầu nặng trên các xúc
tác Al-SBA-15, SO42-/Zr-SBA-15 và Al-Zr-Fe-SBA-15 đã được đánh
giá. Từ đó, chất xúc tác tốt nhất cho quá trình này đã được tìm thấy
là hệ Al-Zr-Fe-SBA-15 do đã thực hiện vai trò xúc tác cracking oxi
hóa dầu nặng. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xúc tác cracking
oxi hóa dầu nặng trên Al-Zr-Fe-SBA-15 cũng được khảo sát.
4. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 124 trang: Mở đầu 3 trang, nội dung chính 128
trang, được phân bố thành 3 chương: Chương 1 – Tổng quan tài liệu
(32 trang), chương 2 – Thực nghiệm (18 trang), chương 3 – Kết quả
và thảo luận (58 trang), kết luận (2 trang), đóng góp mới của luận án
(1 trang), danh mục các công trình của tác giả (1 trang), tài liệu tham
khảo (16 trang).
NỘI DUNG LUẬN ÁN
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Phần tổng quan tài liệu tập hợp các nghiên cứu quốc tế và
trong nước liên quan đến các vấn đề của luận án, cụ thể:
1.1. Vật liệu mao quản trung bình trật tự
1.2. Vật liệu mao quản trung bình trật tự SBA-15
1.3. Tổng quan về xúc tác Al-SBA-15 và SO42-/Zr-SBA-15
trên thế giới và ở Việt Nam
1.4. Quá trình cracking.
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Tổng hợp vật liệu xúc tác trên cơ sở SBA-15
1. Tổng hợp vật liệu SBA-15
3
Hình 2.1. Sơ đồ tổng hợp SBA-15
2. Tổng hợp xúc tác hệ Al-SBA-15
(a)
(b)
Hình 2.2. Sơ đồ tổng hợp Al-SBA-15 theo PP trực tiếp (a) và gián tiếp (b)
4
Hình 2.3. Sơ đồ tổng hợp Al-SBA-15 gián tiếp có thay đổi dung môi
3. Tổng hợp xúc tác hệ SO42-/Zr-SBA-15
Hình 2.4. Sơ đồ tổng hợp xúc tác hệ SO42-/Zr-SBA-15 bằng phương pháp
trực tiếp (a) và phương pháp gián tiếp (b)
Quá trình tổng hợp SO42-/Zr-SBA-15 gồm hai bước:
Tổng hợp Zr-SBA-15: bằng hai phương pháp trực tiếp và
gián tiếp;
5
Sulphat hóa Zr-SBA-15 bằng dung dịch H2SO4 0,5M.
4. Tổng hợp xúc tác hệ Zr-Fe-SBA-15 và Al-Zr-Fe-SBA-15
Hình 2.5. Sơ đồ tổng hợp xúc tác ZrO2-Fe2O3-SBA-15 (a) và Al2O3-ZrO2Fe2O3-SBA-15 (b)
2.2. Phương pháp (PP) nghiên cứu
1. Các phương pháp đặc trưng cấu trúc vật liệu
PP nhiễu xạ Rơnghen (XRD), PP đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp
phụ N2, PP hiển vi điện tử quét (SEM) và phân tích năng lượng tán
xạ tia X (EDX), PP hiển vi điện tử truyền qua (TEM), PP khử hấp
phụ NH3 theo chương trình nhiệt độ (TPD-NH3), PP phổ hồng ngoại
(IR), PP phổ hấp thụ tử ngoại và khả kiến (UV-Vis), PP phân tích
nhiệt, PP phổ quang điện tử tia X (XPS).
2. Hệ thống nghiên cứu đánh giá hoạt tính xúc tác cracking MAT
5000 – Zeton – Canada
Hoạt tính xúc tác được đánh giá trên hệ MAT 5000. Thành phần
sản phẩm cracking được xác định trên GC-MS, SIMDIST, RGA.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nội dung chương 3 gồm ba phần chính:
3.1. Tổng hợp và đặc trưng cấu trúc vật liệu
3.2. Ứng dụng của các xúc tác Al-SBA-15, SO42-/Zr-SBA-15
và Al-Zr-Fe-SBA-15 trong phản ứng cracking với nguyên liệu là
phân đoạn dầu nặng
3.3. Ứng dụng xúc tác Al-Zr-Fe-SBA-15 bằng phản ứng
cracking oxy hóa với nguyên liệu là phân đoạn dầu nặng.
6
3.1. TỔNG HỢP VÀ ĐẶC TRƯNG CẤU TRÚC VẬT LIỆU
XÚC TÁC
3.1. 1. Tổng hợp và đặc trưng cấu trúc vật liệu nền SBA-15
Giản đồ nhiễu xạ tia X của SBA-15 cho thấy sản phẩm tổng
hợp có trật tự cao của kiểu cấu trúc lục lăng mao quản trung bình.
Hình 3.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của SBA-15
Hình 3.2(a) cho thấy đồ thị có hai nhánh gần như song song với
nhau – đặc trưng cho vật liệu mao quản trung bình. Đường phân bố
kích thước mao quản trong hình 3.2(b) hẹp và có cường độ lớn
chứng tỏ vật liệu có hệ thống mao quản đồng đều. Số liệu đặc trưng
cho thấy, diện tích bề mặt riêng (SBET) là 797 m2/g và đường kính
mao quản tính theo BJH là 7,2nm.
Hình 3.2. Đường đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ N2 (a) và đường phân
bố kích thước mao quản BJH của vật liệu SBA-15 (b)
3.1.2. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu MQTB Al-SBA-15
3.1.2.1. Ảnh hưởng của phương pháp tổng hợp vật liệu đến cấu trúc
và tính axit của xúc tác
Ảnh hưởng đến cấu trúc của xúc tác
7
Giản đồ nhiễu xạ tia X cho thấy các pic của vật liệu SBA-15 sau
khi biến tính bởi muối nhôm tương tự về hình dạng với SBA-15 chưa
biến tính, điều này cho thấy các vật liệu biến tính vẫn có kiểu cấu
trúc SBA-15.
Hình 3.5. Giản đồ nhiễu xạ tia X
của SBA-15 (a) và Al-SBA-15 tổng
hợp gián tiếp (b), trực tiếp (c)
Hình 3.6. Ảnh TEM của vật liệu
(a) SBA-15, (b) Al-SBA-15-GT và
(c) Al-SBA-15-TT
Ảnh TEM cho thấy cấu trúc mao quản lục lăng trung bình với
các lỗ xốp xếp song song của Al-SBA-15 khá rõ và đồng đều, gần
giống với SBA-15, tuy nhiên khả năng phân tán Al lên bề mặt SBA15 của phương pháp trực tiếp không tốt bằng phương pháp gián tiếp.
Kết quả này cũng phù hợp với những nhận xét về giản đồ XRD.
Diện tích bề mặt riêng của Al- SBA-15 – hình 3.7(A), cho thấy
cấu trúc MQTB của các mẫu vẫn được bảo toàn sau quá trình biến
tính bởi muối nhôm bằng cả hai phương pháp tổng hợp trực tiếp và
gián tiếp.
Hình 3.7. (A) Đường đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ N2 và (B) đường
BJH của vật liệu Al-SBA-15-TT và Al-SBA-15-GT
8
Ảnh hưởng đến tính axit của vật liệu
Hình 3.8 cho thấy mẫu Al-SBA-15-GT hình thành khá nhiều
tâm axit mạnh; riêng mẫu vật liệu Al-SBA-15-TT tuy cũng có các
khoảng giải hấp tương ứng nhưng số tâm axit nhỏ hơn nhiều so với
Al-SBA-15-GT.
Hình 3.9. Độ chuyển hóa cumen
theo nhiệt độ trên vật liệu Al-SBA15-TT và Al-SBA-15-GT
Hình 3.8. Đường TPD-NH3 của vật
liệu Al-SBA-15TT và Al-SBA-15GT
Khảo sát hoạt tính xúc tác của vật liệu trên cơ sở phản ứng mô
hình cracking cumen. Kết quả độ chuyển hóa tăng khi nhiệt độ phản
ứng tăng, tuy nhiên độ chuyển hóa của Al-SBA-15GT có xu hướng
tăng nhanh khi nhiệt độ tiếp tục tăng, còn với vật liệu Al-SBA-15TT
thì xu hướng tăng chậm hơn. Điều này cho thấy số tâm axit và cường
độ axit của vật liệu Al-SBA-15-TT bé hơn rất nhiều so với vật liệu
Al-SBA-15-GT. Điều này khá phù hợp với đặc trưng TPD-NH3.
3.1.2.2. Ảnh hưởng của dung môi đến quá trình tổng hợp
Giản đồ XRD cho thấy nhau và theo thứ tự C2H5OH > nmẫu vật liệu Al-SBA-15- hexan > HCl > H2O.
GT(H2O) có các pic đặc
trưng của cấu trúc lục lăng
MQTB rất thấp; với các
dung môi còn lại HCl, nhexan và C2H5OH thì 3 pic
đặc trưng cho vật liệu
MQTB được quan sát rõ nét
hơn, trong đó mẫu Al-SBA15-GT(R) cho kết quả tốt
nhất – do bởi khả năng hòa
tan muối Al-iso trong các Hình 3.10. Ảnh hưởng của dung môi đến
dung môi khảo sát là khác sự hình thành MQTB của Al-SBA-15GT
9
3.1.2.3. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng
SBA-15 sau khi được cho
vào hỗn hợp dung dịch Al-iso
trong C2H5OH thì được khuấy
bằng máy khuấy từ ở nhiều thời
gian khác nhau: 6h, 12h, 24h và
48h. Kết quả ảnh TEM cho thấy
tăng thời gian khuấy sẽ làm
tăng khả năng phân tán muối
Al-iso trong vật liệu SBA-15 và
thời gian khuấy thích hợp là 24h
– vì lúc này đã đảm bảo được
Hình 3.11. Ảnh hưởng của thời
cấu trúc của vật liệu và việc
gian khuấy mẫu đến sự hình thành
tăng thời gian lên 48h là không
cấu trúc MQTB của Al-SBA-15GT
cần
thiết.
3.1.2.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung mẫu
Qua giản đồ XRD (hình 3.12) có thể nhận thấy rằng cấu trúc lục
lăng của vật liệu MQTB vẫn được duy trì cho đến 900oC. Với khảo
sát trên, chúng tôi chọn nhiệt độ nung thích hợp cho xúc tác Al-SBA15 là 600oC.
Hình 3.12. Ảnh hưởng của nhiệt độ
nung mẫu đến sự hình thành cấu
trúc MQTB của Al-SBA-15-GT
Hình 3.13. Giản đồ nhiễu xạ tia X
của (a) Al-SBA-15-GT(x),với x là tỷ
lệ Al/Si
3.1.2.5. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu MQTB Al-SBA-15 với các tỷ
lệ Al/Si khác nhau
Giản đồ XRD của các mẫu Al-SBA-15GT3(x), hình 3.13 đều có
ba pic nhiễu xạ đặc trưng của cấu trúc lục lăng MQTB chứng tỏ tỷ lệ
nhôm ngâm tẩm hầu như không ảnh hưởng đến cấu trúc của vật liệu.
10
Kết quả EDX, hình 3.16, cho thấy nhôm đã hiện diện trong mẫu
và tỷ lệ nhôm cũng giảm tương ứng theo tỷ lệ nhôm đưa vào mẫu .
Hình 3.16. Phổ tán xạ tia X (EDX) của (A) Al-SBA-15GT3(0,1), (B) Al-SBA15GT3(0,07) và (C) Al-SBA-15GT3(0,05)
Hình 3.17(A) cho thấy cấu trúc MQTB của xúc tác vẫn được
bảo toàn sau quá trình tẩm muối nhôm.
Hình 3.17. (A) Đường đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ N2 và (B) đường
BJH của vật liệu Al-SBA-15-GT(x), với x là tỷ lệ Al/Si
Kết quả khảo sát TPD-NH3
cho thấy mẫu Al-SBA-15GT(0,1) có nhiều tâm axit mạnh
và tâm axit trung bình. Còn hai
mẫu Al-SBA-15-GT(0,07) và
Al-SBA-15-GT(0,05) chủ yếu
tập trung các tâm axit trung
bình, tâm axit mạnh cũng có
nhưng không nhiều.
Hình 3.18. Đường TPD-NH3 của
các xúc tác Al-SBA-15-GT (x)
11
3.1.2.6. Đánh giá hoạt tính xúc tác Al-SBA-15 tổng hợp gián tiếp
trên phản ứng cracking cumen
Hình 3.19. Đồ thị biểu diễn độ
chuyển hóa theo nhiệt độ trên xúc
tác Al-SBA-15-GT(x)
Hình 3.20. Đồ thị biểu diễn độ
chọn lọc benzen theo nhiệt độ trên
xúc tác Al-SBA-15-GT(x)
Đồ thị hình 3.19 và 3.20 cho thấy xúc tác Al-SBA-15GT(0,07) với độ chuyển hóa tương đối và độ chọn lọc benzen cao
nhất – được chọn là xúc tác tối ưu để thực hiện phản ứng cracking
phân đoạn dầu nặng.
3.1.3. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu MQTB SO42-/Zr-SBA-15
3.1.3.1. Ảnh hưởng của pH
Kết quả UV-Vis rắn
biểu diễn trên hình 3.21
cho thấy pH dung dịch từ 2
÷ 4 cho zirconi oxit sau khi
nung ở dạng cấu trúc pha
đơn nghiên (227nm ) nhiều
hơn, khi tăng lên pH = 6
và 8 thì pha tứ diện
(210nm) bắt đầu tăng dần
lên. Chúng tôi đã chọn pH
dung dịch bằng 8 để tổng Hình 3.21. Phổ UV-Vis trạng thái rắn của
hợp xúc tác cho các khảo SZ-SBA-15-TT ở các giá trị pH khác nhau
sát tiếp theo.
3.1.3.2. Tổng hợp xúc tác SO42-/Zr-SBA-15 bằng các chất điều chỉnh
pH khác nhau
Kết quả đặc trưng XRD ở hình 3.22 cho thấy khi so sánh với
SZ-SBA-15(NH4OH) thì mẫu SZ-SBA-15(Urê) có độ trật tự không
cao – các pic không sắc nét và có cường độ thấp.
12
Hình 3.22. Giản đồ nhiễu xạ tia X
của (a) SZ-SBA-15(NH4OH) và (b)
SZ-SBA-15(Urê)
Hình 3.23. Ảnh TEM của vật liệu
(A) SZ-SBA-15(NH4OH) và (B) SZSBA-15(Urê)
Để có thể khẳng định thêm về điều này, hai mẫu xúc tác được đưa
đi chụp ảnh TEM để quan sát rõ hơn cấu trúc bên trong của vật liệu,
hình 3.23.
3.1.3.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung mẫu
Từ kết quả TG-DTA có thể nhận thấy rằng có hai khoảng mất
khối lượng lớn nhất: khoảng ở nhiệt độ dưới 200oC – xảy ra quá trình
mất nước hấp phụ vật lý bề mặt, và khoảng thứ hai ở nhiệt độ 550 ÷
800oC – xảy ra quá trình phân hủy sulphat.
Hình 3.24. Giản đồ TG – DTA của SZ-SBA-15-TT
Giản đồ XRD, hình 3.25, cho thấy ở nhiệt độ nung 550oC các pic
có độ sắc nét không cao; càng tăng nhiệt độ, các pic càng rõ ràng
hơn. Tuy nhiên, đến 800oC bắt đầu có hiện tượng giảm cường độ pic.
Mặc dù vậy, cấu trúc mao quản vẫn duy trì đến 900oC. Kết hợp với
yếu tố khi tăng nhiệt độ 650-8000C thì cấu trúc tứ diện bắt đầu bị phá
vỡ và chuyển sang cấu trúc đơn nghiêng, vì vậy chúng tôi đã chọn
13
nhiệt độ nung 650oC và kết quả XRD góc rộng của xúc tác khẳng
định sự duy trì của pha tứ diện trong cấu trúc vật liệu khi nhiệt độ
nung đạt 650oC, hình 3.26.
Hình 3.25. Giản đồ nhiễu xạ tia X
của SZ-SBA-15-TT ở các nhiệt độ
nung khác nhau
Hình 3.26. Giản đồ nhiễu xạ tia X
góc rộng của SZ-SBA-15-TT ở
nhiệt độ nung 650oC
3.1.3.4. Tổng hợp trực tiếp xúc tác SO42-/Zr-SBA-15 với các tỷ lệ
Zr/Si khác nhau
Kết quả XRD của các mẫu
SZ-SBA-15-TT(x)cho thấy cấu
trúc lục lăng của vật liệu được
bảo toàn.
Nhìn vào giản đồ ta thấy, khi tỷ
lệ Zr/Si tăng từ 0,07 đến 0,2 thì
cường độ các pic tương ứng với
các mặt (100), (110) và (200) có
sự giảm đi rõ rệt. Đặc biệt, khi
Hình 3.27. Giản đồ nhiễu xạ tia X
với tỷ lệ Zr/Si = 0,2 thì cường
của SZ-SBA-15-TT(x), x là tỷ lệ
độ các pic giảm khá mạnh, nhất
Zr/Si
là 2 pic tương ứng các mặt
(110), (200).
Hình 3.28 chỉ ra rằng cấu trúc MQTB của các mẫu vẫn được
bảo toàn sau quá trình biến tính. Tuy nhiên, khi thay đổi tỷ lệ Zr/Si
thì khoảng cách các vòng trễ cũng thay đổi, theo xu hướng diện tích
bề mặt riêng của vật liệu giảm theo tỷ lệ tăng của Zr/Si.
14
Hình 3.28. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ N2 (A) và đường BJH
(B) của SZ-SBA-15-TT(x)
Để minh chứng cho việc kết hợp thành công của Zr vào mạng
cấu trúc SBA-15 trong trường hợp tổng hợp trực tiếp, chúng tôi đã
đặc trưng XPS mẫu SZ-SBA-15-TT(0,07), kết quả cho thấy zirconi
tồn tại ở trạng thái Zr(IV) – tương ứng với các pic ở 182.2 eV và
184.4 eV, hình 3.29.
Kết quả đặc trưng TPD-NH3 trên hình 3.32 cho thấy, quá trình
biến tính SBA-15 bằng muối zirconi và sulphat hóa đã tạo được khá
nhiều tâm axit trung bình và mạnh và tỷ lệ Zr/Si càng lớn thì càng
hình thành nhiều tâm axit và cường độ axit cũng cao hơn.
Hình 3.32. Giản đồ nhả hấp phụ
TPD-NH3 của (a) SZ-SBA-15TT(0,2), (b) SZ-SBA-15-TT(0,1) và
(c) SZ-SBA-15TT(0,07)
Hình 3.29. Phổ XPS của SZ-SBA15-TT(0,07)
3.1.3.5. Tổng hợp gián tiếp xúc tác SO42-/Zr-SBA-15 với các tỷ lệ
Zr/Si khác nhau
15
Từ giản đồ XRD ở hình 3.33 có thể thấy, cấu trúc lục lăng của các
mẫu xúc tác không bị biến đổi. Tuy nhiên, xét về độ trật tự thì với
mẫu có tỷ lệ Zr/Si càng cao thì độ trật tự càng giảm.
Các đồ thị biểu diễn
trên hình 3.34 (A) đặc trưng cho
hiện tượng ngưng tụ mao quản
của vật liệu MQTB. Điều này
chứng tỏ cấu trúc MQTB của
các mẫu vẫn được bảo toàn sau
quá trình tẩm oxit kim loại.
Với đường phân bố kích
thước mao quản, hình 3.17 (B),
đường kính lỗ của các mẫu cũng
Hình 3.33. Giản đồ nhiễu xạ tia X
có sự giảm đáng kể, tỷ lệ nghịch
của (a) SZ-SBA-15-GT(0,2), (b)
với hàm lượng oxit zirconi
SZ-SBA-15-GT(0,1) và (c) SZ-SBAngâm.
15-GT(0,07)
Hình 3.34. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ N2 (A) và đường BJH
(B) của (a) SZ-SBA-15-GT(0,2), (b) SZ-SBA-15-GT(0,1) và (c) SZ-SBA-15GT(0,07)
Đặc trưng XPS hai mẫu SZ-SBA-15-TT(0,07) (a) và SZ-SBA15-GT(0,07) (b), kết quả cho lượng Zr(IV) tồn tại trong mẫu (a) – là
mẫu tổng hợp trực tiếp, nhiều hơn trong mẫu (b) – mẫu tổng hợp
gián tiếp.
Kết quả TPD NH3, hình 3.38, cho thấy các tâm axit đều có ở
vùng cường độ axit trung bình và mạnh. Cường độ axit trung bình và
mạnh tăng theo tỷ lệ oxit zirconi đưa vào mẫu – tập trung cao nhất ở
16
mẫu (a) có tỷ lệ Zr/Si = 0,1 và sau đó lại giảm mạnh ở mẫu (b) có tỷ
lệ Zr/Si = 0,2.
Hình 3.38. Giản đồ nhả hấp phụ
TPD-NH3 của (a) SZ-SBA-15GT(0,07), (b) SZ-SBA-15-GT(0,1)
và (c) SZ-SBA-15GT(0,2)
Hình 3.37. Phổ XPS của (a) SZSBA-15-TT(0,07) và (b) SZ-SBA15-GT(0,07)
3.1.3.6. Đánh giá hoạt tính xúc tác SZ-SBA-15-TT và SZ-SBA-15GT bằng phản ứng cracking cumen
Hình 3.39. Đồ thị biểu diễn độ chuyển hóa và độ chọn lọc benzen theo nhiệt
độ trên xúc tác SZ-SBA-15-TT(x)
Với xúc tác SZ-SBA-15 tổng hợp trực tiếp, đồ thị hình 3.39
cho thấy mẫu SZ-SBA-15-TT(0,2) cho kết quả tốt nhất.
Hình 3.40. Đồ thị biểu diễn độ chuyển hóa và độ chọn lọc benzen theo
nhiệt độ trên xúc tác SZ-SBA-15-GT(x)
Với xúc tác SZ-SBA-15 tổng hợp gián tiếp, đồ thị hình 3.40
cho thấy mẫu xúc tác SZ-SBA-15-GT(0,1) cho kết quả tốt nhất. Từ
17
kết quả phản ứng carcking cumen, chúng tôi đã chọn hai mẫu xúc tác
tổng hợp trực tiếp SZ-SBA-15-TT(0,2) và gián tiếp SZ-SBA-15GT(0,1) có độ chuyển hóa cao nhất để tính năng lượng hoạt hóa.
Kết quả:
+ Vật liêu SZ-SBA-15-TT(0,2): ETT = 4565,7 x R = 8983 cal/mol
+ Vật liệu SZ-SBA-15-GT(0,1): EGT = 3765,1 x R = 7194 cal/mol.
Nhận xét: Xúc tác SZSBA-15- GT(0,1) có hoạt tính cao
hơn và phản ứng cracking
cumen xảy ra trên xúc tác này dễ
dàng hơn khi so với xúc tác SZSBA-15- TT(0,2); tuy nhiên, về
nhưng độ ổn định thì xúc tác
tổng hợp trực tiếp tốt hơn bởi
mức độ chuyển hóa trên xúc tác
Hình 3.41. Đồ thị biểu diễn phương
khá cao và độ chọn lọc benzen
trình đường thẳng Arrhenius cho
vừa cao vừa ổn định theo chiều hai mẫu (a) SZ-SBA-15- GT(0,1) và
tăng của nhiệt độ phản ứng.
(b) SZ-SBA-15-TT(0,2)
3.1.4. Tổng hợp và đặc trưng vật liệu MQTB Zr-Fe-SBA-15
và Al-Zr-Fe-SBA-15
Hình 3.42. Giản đồ nhiễu xạ tia X của Zr-Fe-SBA-15 và Al-Zr-Fe-SBA-15
Giản đồ XRD góc nhỏ của Zr-Fe-SBA-15 cho thấy rõ ràng 3
pic đặc trưng của vật liệu MQTB với pic sắc nhọn chứng tỏ cấu trúc
lục lăng của vật liệu vẫn được duy trì.
Giản đồ XRD góc lớn của Zr-Fe-SBA-15 và Al-Zr-Fe-SBA-15
cũng đã được nghiên cứu, hình 3.43, để xem xét thành phần pha của
vật liệu tổng hợp được.
Đường đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ N2 của các mẫu ZrFe-SBA-15 và Al-Zr-Fe-SBA-15 đặc trưng cho các vật liệu MQTB.
18
Hình 3.45 (B), cho thấy đường kính mao quản trung bình ở khoảng
5,3nm.
Hình 3.43. Giản đồ nhiễu xạ tia X góc rộng của (A) Zr-Fe-SBA-15 và
(B) Al-Zr-Fe-SBA-15
Hình 3.45. (A) Đường đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ N2 và (B) đường
BJH của (a) Zr-Fe-SBA-15 và (b) Al-Zr-Fe-SBA-15
Các kết quả đặc trưng TPD
NH3, hình 3.48, cho thấy cả hai
vật liệu sau khi biến tính bằng
hỗn hợp muối zirconi và muối
sắt đều thể hiện tính axit, tập
trung chủ yếu ở các tâm axit
trung bình và mạnh.
Hình 3.48. Giản đồ nhả hấp phụ
TPD-NH3 của (a) Zr-Fe-SBA-15 và
(b) Al-Zr-Fe-SBA-15
3.2. ỨNG DỤNG CỦA XÚC TÁC Al-SBA-15, SO42-/Zr-SBA-15
VÀ Al-Zr-Fe-SBA-15 TRONG PHẢN ỨNG CRACKING VỚI
NGUYÊN LIỆU LÀ PHÂN ĐOẠN DẦU NẶNG
3.2.1. Xúc tác Al-SBA-15
Kết quả phản ứng của xúc tác Al-SBA-15-GT(0,07) trên phản
ứng cracking thể hiện ở hình 3.49. Nhiệt độ tối ưu được chọn trong
khoảng 450 ÷ 460oC.
19
Hình 3.52. Độ chuyển hóa và chọn lọc, hàm lượng cốc tạo thành của phản
ứng cracking trên xúc tác Al-SBA-15-GT(0,07)
3.2.2. Xúc tác SO42-/Zr-SBA-15
Nhìn trên đồ thị hình 3.50 ta thấy cả hai mẫu có độ chọn lọc
xăng tăng trong khoảng nhiệt độ 420 ÷ 4500C và giảm trong khoảng
450 ÷ 480oC. Nhiệt độ tối ưu cho phản ứng trong khoảng 450 ÷
460oC.
Hình 3.53. (A) Độ chọn lọc, (B) hàm lượng cốc tạo thành và (C) độ chuyển
hóa của phản ứng cracking trên xúc tác SZ-SBA-15 tổng hợp trực tiếp và
gián tiếp
3.2.3. Xúc tác Al-Zr-Fe-SBA-15
Hình 3.54. Độ chuyển hóa,độ chọn lọc và hàm lượng cốc của phản ứng
cracking oxy hóa phân đoạn dầu nặng trên xúc tác 0,8Al-Zr-Fe-SBA-15
20
- Xem thêm -