SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THCS & THPT BÁ THƯỚC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI
NÂNG CAO HIỂU BIẾT VÀ Ý THỨC BẢO VỆ THÂN THỂ CHO
HỌC SINH LỚP 7 TRƯỜNG THCS & THPT BÁ THƯỚC THÔNG
QUA LỒNG GHÉP KĨ NĂNG VỆ SINH- BẢO VỆ THÂN THỂ
TRONG DẠY HỌC BỘ MÔN SINH HỌC 7
Người thực hiện: Hoàng Trọng Lực
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Sinh học
BÁ THƯỚC NĂM 2019
Mục lục
Nội dung
Trang
Phần I. Mở đầu
1
Phần II. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2
1. Cơ sở lý luận
2
2. Thưc trạng của vấn đề
3
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
4
3.1. Phân loại kiến thức kĩ năng sống:
4
3.2. Phân loại các bài dạy trong chương trình sinh học 7 có thể
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống:
3.3. Vận dụng kĩ năng sống thông qua bộ môn:
4. Kết quả thực nghiệm sư phạm:
Phần III. Kết luận và kiến nghị
4
4
15
16
1. Kết luận
16
2. Kiến nghị
17
Tài liệu kham khảo
19
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hiện nay, ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong hoạt động học tập, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là yêu
cầu cấp thiết mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra cho ngành Giáo dục. Công tác này
đã và đang triển khai thực hiện trên quy mô toàn quốc, được đội ngũ cán bộ giáo
viên tích cực hưởng ứng theo “Nghị quyết Số: 29-NQ/TW “ về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế" đã được hội nghị trung ương 8 (khóa XI) thông qua” và chỉ thị số 16/cp-ttg
của thủ tướng chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng công nghệ 4.0) Thay đổi mạnh mẽ các chính
sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực
có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung
vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM),
ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại
học, dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề, đào tạo đại học đối với một số
ngành đặc thù. Biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng thành lợi thế
trong hội nhập và phân công lao động quốc tế.
Một trong những nội dung căn bản của đổi mới GD đó là lấy học sinh làm
trung tâm - hiếu đơn giản: giáo viên chỉ là người hướng dẫn, học sinh tự chiếm
lĩnh tri thức. Thực tế cho thấy rằng, sự chiếm lĩnh tri thức chỉ thực sự có giá trị
khi học sinh có thể vận dụng những điều đã học từ nhà trường vào giải quyết các
vấn đề trong cuộc sống, kịp thời ứng phó với các tình huống nảy sinh từ thực
tiễn. Do vậy một yêu cầu nữa đặt ra cho người thầy, đó là: phải dạy cho các em
kĩ năng sống.
Bộ môn sinh học ở bậc THCS, trang bị cho học sinh những kiến thức cơ
bản và tương đối hoàn chỉnh về cấu tạo và hoạt động của cơ thể sống thông qua
các đại diện vi sinh vật, nấm, thực vật, động vật và con người, hiện tượng di
truyền và biến dị, mối quan bệ giữa sinh vật và môi trường….Riêng đối với
chương trình Sinh học 7, học sinh nghiên cứu, khám phá về thế giới động vật
xung quanh các em. Trên cơ sở kiến thức đã có các em tìm hiểu thêm về đời
sống của các loài động vật gần gũi để biết vai trò của chúng trong đó không thể
bỏ qua những tác hại mà một số động vật có thể gây hại cho con người, vật nuôi,
cây trồng để có biện pháp phòng tránh hiệu quả.
1
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua chương trình Sinh
học 7 là một điều hết sức quan trọng và cần thiết đặc biệt là kĩ năng liên quan
đến sức khỏe, kỹ năng phòng tránh một số bệnh tật do các động vật có hại gây ra
cho con người nhất là các em lại sống ở khu vực miền núi gần gũi với thiên
nhiên hay gặp phải những vấn đề nêu trên. Với mong muốn giúp học sinh tích
cực và chủ động trong việc tiếp thu kiến thức trang bị cho bản thân và gia đình
các em về chủ đề này, từ đó mong các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc
mắc của bản thân đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc
sức khỏe bản thân và những người thân yêu trong gia đình, tôi đã thực hiện tìm
hiểu, thu thập thông tin, một số phương pháp dạy học lồng ghép nhằm khai thác
có hiệu quả nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua một số bài ở sách
giáo khoa Sinh học 7.
. Vì vậy, tôi đã tìm hiểu và hoàn thành đề tài: “ Nâng cao hiểu biết và ý thước
bảo vệ thân thể cho học sinh lớp 7 trường THCS & THPT Bá Thước thông
qua lồng ghép kĩ năng vệ sinh- bảo vệ thân thể trong dạy học bộ môn Sinh
học 7"
PHẦN 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Giáo dục kĩ năng sống, đây là một trong những nội dung của phong trào
xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, là yêu cầu và xu hướng của
xã hội hiện đại trong thời kì toàn cầu hóa như hiện nay.
Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục liên hợp quốc (UNESCO), kỹ
năng sống gắn liền với 4 trụ cột của giáo dục: học để biết (gồm các kỹ năng tư
duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề,
nhận thức hậu quả…); học làm người ( gồm các kỹ năng ca nhân như: tự nhận
thức, kiểm soát cảm xúc, tự tin…); học để chung sống với người khác ( gồm
các kỹ năng xã hội như: hợp tác, thương lượng, giao tiếp…); học để làm ( gồm
các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: đảm nhận trách nhiệm,
xác định mục tiêu...). Do vậy cần phải xây dựng chương trình giáo dục phổ
thông theo hướng tiếp cận năng lực, chú trọng vào việc yêu cầu học sinh học
xong phải thể hiện được, làm được; biết vận dụng những kiến thức để giải quyết
các tình huống trong cuộc sống,…Vì thế việc học tập theo hướng tiếp cận này
trở nên gần gũi và thiết thực đối với cá nhân và cộng đồng.
Thực tế cho thấy khả năng đáp ứng của bộ môn sinh học đối với đề tài
này là rất lớn, chúng ta có thể tiếp cận và thực hiện được.
2
Trên thực tế việc giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó có kĩ năng
sống ở những trường miền núi như trường THCS & THPT Bá Thước còn rất
hạn chế. Các trường nói chung còn chú trọng việc dạy kiến thức chứ chưa quan
tâm nhiều đến việc dạy các em thái độ, hành vi, kĩ năng ứng xử trong các mối
quan hệ (với con người, với các sinh vật và môi trường thiên nhiên…)
Mặt khác theo chuyên đề đổi mới đánh giá, trong các đề bài kiểm tra luôn
có các câu hỏi vận dụng ở mức độ thấp và vận dụng ở mức độ cao để biết được
khả năng của các em tiếp thu kiến thức và vận dụng như thế nào? Đối với môn
Sinh học những câu hỏi vận dụng luôn có nội dung liên quan đến sự ứng dụng
hiểu biết sinh học để giải thích những hiện tượng thực tế thường gặp trong đời
sống. Nếu trong quá trình giảng dạy trên lớp mà giáo viên không làm tốt khâu
lồng ghép kĩ năng sống vào trong các bài học thì học sinh sẽ không trả lời được
các câu hỏi vận dụng đó chứ chưa nói đến gặp trong thực tế.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Qua khảo sát học Sinh lớp 7, cụ thể là học sinh lớp 7 trường THCS & THPT
Bá Thước tôi thấy:
Thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến kĩ năng vệ
sinh- bảo vệ thân thể còn rất lúng túng, thậm trí không biết phải xử lí thế nào
nếu gặp phải những rắc rối liên quan đến vấn đề này trong thực tiễn. Ví dụ: Khi
bị rắn cắn phải xử lí như thế nào? Biện pháp phòng bệnh giun sán ra sao?.... hay
đơn giản như: mắc màn khi ngủ có cần thiết không?
Qua một năm học khi chưa áp dụng sáng kiến trên tôi thấy kết quả như sau:
Năm học
2017 - 2018
Số học sinh giải Số học sinh giải
quyết và xử lý
quyết và xử lý
tốt các kĩ năng còn đơn giản các
vệ sinh- bảo vệ kĩ năng vệ sinhKhối TS HS thân thể trong
bảo vệ thân thể
Sinh học 7
trong Sinh học 7
7
48
Số học sinh
còn mơ hồ
và không
biết
SL
%
SL
%
SL
%
5
10. 41
22
45. 33
21
44.26
3
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy kĩ năng sống trong thực tế của các em là
rất hạn chế, để giải quyết và xử lý các vấn đề thật không hề đơn giản cho các
em.
Học sinh lớp 7, 8 (12-16 tuổi) là lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh mẽ về
thể chất, sức khỏe và tâm sinh lý. Đây là lứa tuổi các em có nhiều tò mò thắc
mắc về những việc xảy ra xung quanh mình, đặc biệt ở lứa tuổi này khả năng
quan sát, tư duy của các em đang phát triển, sự nhạy bén với thế giới sinh vật
xung quanh rất tốt. Sự hiếu động và tò mò giúp các em tìm hiểu nhận biết được
nhiều loài động vật xung quanh, tuy nhiên nếu thiếu hiểu biết về lợi ích, tác hại
của chúng và không có kỹ năng rèn luyện vệ sinh thân thể tốt các em sẽ có nguy
cơ bị lây nhiễm một số bệnh về đường tiêu hoá, hô hấp, tim mạch…
Để khắc phục thực trạng trên, tôi đưa ra đề tài: “ Nâng cao hiểu biết và ý
thước bảo vệ thân thể cho học sinh lớp 7 trường THCS & THPT Bá Thước
thông qua lồng ghép kĩ năng vệ sinh- bảo vệ thân thể trong dạy học bộ môn
Sinh học 7"
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
3.1. Phân loại kiến thức kĩ năng sống:
Chương trình Sinh học 7 có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng sống. Chia
làm 2 nhóm:
3.1.1 Kĩ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân liên quan đến thể chất
sức khỏe.
3.1.2 Kĩ năng sống liên quan đến tự nhận thức, thực hành.
3.2. Phân loại các bài dạy trong chương trình Sinh học 7 có thể lồng ghép
giáo dục kĩ năng sống:
3.2.1. Kĩ năng sống tự phục vụ, chăm sóc bản thân liên quan đến thể chất sức
khỏe gồm các bài sau:
- Bài 6: Trùng kiết lị và trùng sốt rét;
- Bài 12: Một số giun dẹp khác và đặc điểm chung của ngành giun dẹp;
- Bài 13: Giun đũa;
- Bài 14: Một số giun tròn khác và đặc điểm chung của ngành giun tròn;
- Bài 17: Một số giun đốt khác và đặc điểm chung của ngành giun đốt.
3.2.2 . Kĩ năng sống liên quan đến xử lý tình huống bất ngờ gồm các bài như:
- Bài 25: Nhện và đa dạng của lớp hình nhện;
4
- Bài 29: Đặc điểm chung và vai trò của ngành chân khớp;
- Bài 40: Đa dạng và đặc điểm chung của lớp bò sát.
3.3. Vận dụng kĩ năng sống thông qua bộ môn:
Để việc lồng ghép kĩ năng sống thông qua bộ môn Sinh học 7 đạt hiệu
quả cao, tránh gò bó, ôm đồm đi quá đà ảnh hưởng đến nội dung bài dạy thì đòi
hỏi GV cần phải chuẩn bị đầy đủ và đúng các quy trình của một tiết dạy. Khâu
dặn dò rất cần thiết nên giáo viên giành 3 phút để dặn dò các em. Có dặn dò kĩ
các em mới chuẩn bị bài tốt và như thế tiết học mới đạt hiệu quả cao, khâu
chuẩn bị giáo án của GV cũng được đổi mới. GV phải đưa ra các câu hỏi, kết
hợp thông tin thực tế va kênh hình minh hoa để phát huy tính tích cực phù hợp
với mọi đối tượng, gần gũi với các em thì mới giáo dục kĩ năng sống có kết quả
cao.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện xuyên suốt cả năm
học nhưng để cô đọng tôi xin minh họa vấn đề này ở một số bài, cụ thể như:
Kĩ năng sống tự nhận thức, chăm sóc bản thân liên quan đến thể chất sức
khỏe:
Bài 6: Trùng kiết lị và trùng sốt rét:
Ngoài việc khai thác như sách giáo khoa tôi còn đặt thêm các câu hỏi:
Người bị nhiễm trùng kiết lị và người bị nhiễm trùng sốt rét có ảnh hưởng như
thế nào đến sức khoẻ? ( làm sức khỏe suy giảm, bệnh kéo dài gây tử vong..)
Người có thói quen sống như thế nào dễ nhiễm trùng kiết lị và trùng sốt
rét? ( ăn uông không sạch sẽ, không rửa sạch tay trước khi ăn đối với bệnh kiết
lị. Đi ngủ không mắc màn, không vệ sinh nơi ở sạch sẽ đối với bệnh sốt rét)
Để phòng, trị bệnh kiết lị và bệnh sốt rét ta cần làm gì? ( ăn chín uống
sôi, vệ sinh cá nhân sạch sẽ cũng như nơi ở xung quanh mình, tiêu diệt bọ gậy
trong các bể nước, phát quang bụi rậm nơi cư trú của muỗi…)
Tại sao người miền núi hay bị sốt rét? ( do thói quen ngủ không mắc
màn, do trình độ dân trí kém, cây cối nhiều là nơi cư trú của muỗi…)
Qua đây ta giáo dục cho học sinh biết được nguy cơ nhiễm bệnh lị là do
vệ sinh ăn uống không tốt, nhiễm bệnh sốt rét là do muỗi Anôphen truyền bệnh
do môi trường sống ô nhiễm, thói quen ngủ không mắc màn, khu vực miền núi
như chúng ta đang sống có loài muỗi gây bệnh sốt rét thường xuyên cư trú…nếu
đã bị nhiễm bệnh cần được đến khám ở cơ sở y tế và điều trị kịp thời.
5
Bài 12: Một số giun dẹp khác và đặc điểm chung của ngành giun dẹp
Bổ sung vào bài giảng một số câu hỏi sau để giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh:
Sán dây xâm nhập vào cơ thể người và động vật bằng con đường nào? ( con
đường tiêu hóa khi người ăn phải thịt trâu, bò, lợn gạo). Để đề phòng giun dẹp kí
sinh cần phải lưu ý giữ vệ sinh như thế nào cho người và gia súc? (tắm rửa nơi
sạch sẽ, vệ sinh chuồng trại chăn nuôi, ủ mục phân chồng dùng vôi bột…)
Người dân có thói quen ăn các món gỏi cá, thịt tái, tiết canh theo em thói quen
đó có tốt cho sức khoẻ không, tại sao? ( không tốt mà đó chính là nguyên nhân
gây ra bệnh về giun sán)
Qua đó không chỉ giáo dục cho bản thân các em mà bản thân các em còn
có trách nhiệm tuyên truyền đến những người thân trong gia đình và bạn bè cần
phải thay đổi một số thói quen như: không ăn tiết canh sống, ăn gỏi, nem chua…
cần phải ăn chín uống sôi, giữ vệ sinh, môi trường sạch sẽ trong chăn nuôi,
không dùng phân tươi để bón cây, không tắm nơi ao tù, nước bẩn…
Cung cấp cho học sinh 1 số hình ảnh và thông tin thực tế về hiện tượng
nhiễm giun dẹp (sán dây) ở người.
Các bác sĩ ở bệnh viện nhân dân Quảng Châu số 8 ở tỉnh Quảng Đông, miền
đông Trung Quốc đã thực sự bị sốc khi tiếp nhận một bệnh nhân có sán dây
khắp cơ thể. Nguyên nhân khiến người bệnh nhân có sán dây khắp cơ thể là do
ăn quá nhiều sashimi (món ăn truyền thống của người Nhật Bản với nguyên liệu
là thịt tươi sống).
Cách chữa trị bệnh sán dây theo kinh nghiệm chữa dân gian rất hiệu quả là lấy
rễ của cây cau đem sắc nước uống liên tục trong vòng 1 tuần là khỏi.
6
Thói quen sinh hoạt ăn của người dân
Bài 13: Giun đũa và bài 14: Một số giun tròn khác và đặc điểm chung của
ngành giun tròn.
Tương tự như bài 12, cũng sử dụng hệ thống câu hỏi tương tự để khai
thác tác hại của giun đũa đối với sức khoẻ con người, bổ sung thêm 1 số câu hỏi:
Tại sao trong gia đình có trẻ nhỏ đi học mẫu giáo, chúng ta rất giữ gìn
vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân cho chúng, vậy mà trẻ em vẫn rất dễ bị giun,
đặc biệt là nhiễm giun kim? ( giun kim thường chui ra hậu môn để đẻ trứng gây
ngứa ở hậu môn nên trẻ em thò tay vào đó để gải và bị trứng dính vào kẻ tay các
em không rửa sạch lại cho tay vào miệng)
Biện pháp khắc phục tình trạng dễ nhiễm giun ở trẻ là gì? ( giữ vệ sinh
sạch cho trẻ, tạo cho trẻ một thói quen sạch sẽ trước khi ăn phải rửa tay bằng sà
phòng diệt khuẩn, cắt gọn móng tay…)
Người Việt Nam có tỉ lệ người mắc giun đũa cao vì sao? (liên quan đến
thói quen ăn uống, sinh hoạt không sạch, ăn rau sống rửa không sạch còn trứng
giun bám trong kẽ lá…. )
Thông qua các câu hỏi trên giáo dục cho các em nhận thức tác hại của
giun tròn cụ thể là giun đũa đối với sức khoẻ con người, từ đó có ý thức giữ vệ
sinh thân thể, vệ sinh ăn uống (ăn chín, uống sôi, thức ăn hợp vệ sinh, rửa tay
bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, vệ sinh nơi sống sạch sẽ. Thay
đổi thói quen ăn uống ngoài đường phố, thay thế món ăn gỏi tái, nem chua, tiết
canh sống bằng các món ăn chế biến cẩn thận mà mùi vị hấp dẫn không kém
như: tiết canh hấp, nem chua rán…, Tránh xa các quán ăn không hợp vệ sinh,
mua thực phẩm phải lưu ý nguồn gốc xuất xứ hàng hoá. Lao động ở môi trường
có nguy cơ nhiễm giun cần có thiết bị bảo hộ phù hợp, quần ni lông, ủng, găng
7
tay…Để phòng và điều trị bệnh giun cần uống thuốc giun 1-2 lần/năm ( theo bộ
y tế)
Một số hình ảnh thực tế ăn không hợp vệ sinh ở con người chúng ta:
Quán ăn vỉ hè cạnh đống rác
khách
Dùng tay không bốc thức ăn cho
Cung cấp thêm 1 số hình ảnh về tác hại của giun tròn:
Giun lươn trên người
Em bé nhiễm nhiều giun đũa
Bài 17: Một số giun đốt khác và đặc điểm chung của ngành giun đốt
Ngoài việc khai thác nội dung bài học theo sách giáo khoa, tôi bổ xung thêm 1
số câu hỏi:
Khi lao động ở môi trường có đỉa sống cần lưu ý gì để không bị đỉa
bám? Khi bị đỉa bám và hút máu phải làm gì để lôi đỉa ra và cầm máu? ( phải
đeo ủng cao, khi đĩa bám vào người để lôi ra ta nhổ nước bọt vào chỗ đỉa bám sẽ
8
dễ lôi nó ra, rửa sạch vết cắn ( loại bỏ chất chống đông máu mà đỉa tiết ra) lấy
ngọn chuối hoặc cây cộng sản nhai đắp vào vết cắn)
Làm thế nào để không bị vắt cắn khi đi vào rừng? ( vắt là loài vật sống
trên cây, hút máu các sinh vật kể cả con người vì vậy cần mặc kín từ đầu xuống
chân, tránh để hở vùng cổ, tai là những điểm ấm trên cơ thể rất dễ bị vắt chui
vào cắn. Chú ý phát hiện những con vắt bò trên quần, áo phải búng đi ngay vì
chúng sẽ chui vào người qua thắt lưng, các kẽ hở có thể…)
Cách xử lí khi bị vắt cắn?
- Bình tĩnh dùng đầu ngón tay miết sát da và gạt đầu nhỏ (đầu hút máu) của
vắt, sau đó gạt tiếp đầu kia của vắt, rồi vẩy nó đi trước khi nó bám lại vào ngón
tay bạn.
- Có một cách của người dân tộc khi đi rừng đó là họ mang theo muối. Khi bị
vắt cắn, bạn chỉ việc lấy muối xoa vào chỗ con vắt, nó sẽ co rúm người lại và
nhả ra, đồng thời muối cũng có tác dụng sát trùng vết thương cho bạn.
Sau khi tìm hiểu về 2 con: Đỉa và vắt để giúp các em có thêm kĩ năng
phòng tránh và cách khắc phục loài sinh vật gây hại này, vì đa số các em là con
nhà nông, sống ở miền núi gần rừng thường xuyên tiếp xúc với 2 loài vật trên.
Một số hình ảnh minh họa:
Đỉa hút máu người
9
Con vắt đang hút máu người
Kĩ năng sống liên quan đến xử lý tình huống bất ngờ:
Bài 25: Nhện và đa dạng của lớp hình nhện.
Ngoài những thông tin trong sách giáo khoa về bọ cạp, tôi hỏi thêm học sinh:
Bọ cạp cắn có chết người không? ( Đối với hầu hết các loại bọ cạp, phần
lớn chỉ gây tổn thương tại chỗ, ngay sau khi bị châm có cảm giác đau rát bỏng,
sưng nề, dị cảm tại chỗ)
Phải làm gì khi không may bị bọ cạp cắn phải? ( Cần nâng cao chân và
bất động chi bị cắn. Nếu vẫn còn đau nhiều, cho giảm đau nhóm opioide. Do
thành phần chủ yếu của nọc bò cạp là các protein có thể bị huỷ bởi chất kiềm và
axit nên bạn phải nhanh chóng lấy vôi ăn trầu hoặc giấm, chanh, nước phèn
chua... xoa ngay vào chỗ bị đốt. Nếu cần thì dùng kim, lưỡi lam vô trùng khui
một tí chỗ vết đốt để xoa tiếp các thứ nước kiềm vá axit trên để trung hoà nọc
độc rồi đưa nhanh đến cơ sở y tế)
Làm thế nào để không bị cạp cắn? ( Bò cạp thường sống ẩn nấp dưới các
đống lá cây khô và các kẹt kẽ, vỏ cây. Vào mùa mưa chúng hay vào nhà tìm chỗ
trú ẩn. Do chúng hay tìm chỗ ấm để tránh lạnh nên giường, đệm, chăn, màn rất
dễ bị bò cạp ghé thăm. Bò cạp đốt người là do chúng ta sờ hay đạp phải nó chứ
10
không phải vì đói. Nên cần dọn dẹp vệ sinh nơi ở sạch sẽ, cống rãnh phải lấp
kín, giường chiếu trước khi đi ngủ phải giũ sạch)
Làm thế nào để ăn bọ cạp không bị nhiễm độc? (Khi bắt bọ cạp để vài
ngày trong thùng cho nọc độc giảm bớt rồi sau đó rửa sạch và nấu chín kĩ rồi ăn
là được )
Giáo dục các em vệ sinh nơi ở sạch sẽ không cho bọ cạp làm nơi ẩn náu,
biết cánh khắc phục trước mắt khi bị bọ cạp cắn, cần đến cơ sở y tế để theo dõi
và điều trị, cách sử dụng bọ cạp không bị nhiễm độc.
Một số hình ảnh về bọ cạp:
Người bị bọ cạp đốt.
11
Rượu ngâm bọ cạp
Bài 29: Đặc điểm chung và vai trò của ngành chân khớp.
Ngoài thông tin có trong sách giáo khoa, giáo viên mở rộng và liên hệ
thực tiễn con rết mà các em thường xuyên được tiếp xúc.
Rết cắn trong trường hợp nào? Cách xử lý như thế nào? (Rết cắn có thể
gây nguy hiểm nếu không được cấp cứu kịp thời. Khi bị rết cắn sẽ xảy ra 2
trường hợp: Trường hợp 1: Rết cắn chỉ gây dị ứng da, sau đó hết liền. Trường
hợp 2: Sau khi bị rết cắn cơ thể nạn nhân cảm thấy chóng mặt, ù tai, thậm chí là
nôn mửa và co giật. Điều này chứng tỏ độc tính đã ngấm sâu vào cơ thể và tình
trạng rất nguy cấp.
Cách xử lý khi bị rết cắn:
Đối với trường hợp 1: Rết cắn chỉ gây ra vết thương nhỏ, không có chất
độc bơm vào cơ thể. Chúng ta có thể dung một ít dầu gió bôi vào vết thương là
được.
Đối với trường hợp 2: Nạn nhân đã bị nhiễm độc của rết và các chất độc
trong cơ thể gây ra hiện tượng ngộ độc. Khi bị rết cắn, trước hết phải lấy vải,
dây hay tìm cái gì có thể buộc được để buộc vào phía trên vết cắn (thắt ga-rô) để
12
hạn chế nọc rết truyền về tim. Sau đó nhanh chóng đưa nạn nhân đến trung tâm
y tế để được xử lý kịp thời.
Làm thế nào để không bị rết cắn? (Để tránh bị rết cắn, trong nhà nên dọn
hết các vật dụng như chổi, đồ gỗ cũ, thảm, vải ướt ra ngoài hoặc kê lên cao... để
tránh rết làm tổ. Không để trẻ em chơi nơi ẩm thấp có nhiều đồ đạc, gạch ngói
mục cũ mà dễ bị rết cắn. Và đặc biệt, cần thực hiện tổng vệ sinh quanh nhà, lấp
kín cống rãnh để rết không còn chỗ ẩn náu)
Với các thông tin trên giáo dục cho học sinh kĩ năng xử lí và phòng tránh
khi bị rết cắn, công tác vệ sinh nhà cửa, nơi ở, trước khi đi ngủ phải mắc màn
cẩn thận để tránh rết và các côn trùng chui vào cắn như nhện,...Đi ban đêm các
em cần phải có đèn soi, không nên đi chân đất để tránh khi rết bò ra cắn vào
chân, nhất là vào mùa hè, ban đêm rết hay bò ra ngoài để kiếm ăn. Trời mua to
ngập thì rết cũng bò ra từ nơi nó cư trú bị ngập.
Một số hình ảnh minh họa:
Rết đang cắn người
13
Bài 40: Đa dạng và đặc điểm chung của lớp bò sát
Ngoài việc khai thác nội dung bài học theo sách giáo khoa, tôi bổ sung thêm 1
số câu hỏi:
Khi đi vào khu vực rậm rạp nhiều cây cối, cần làm gì để tránh bị rắn
cắn? ( dùng gậy để xua đuổi rắn đi nếu có)
Không nhìn rõ con rắn, nhưng nếu bị cắn, làm sao để biết được vết cắn
do rắn độc hay không độc gây ra? (nhìn vết cắn xác định được 2 vết răng to ở
phía trước miệng rắn là rắn độc, vết răng to ở 2 bên mép miệng là rắn không
độc)
Khi bị rắn độc cắn, cần thực hiện các thao tác gì để cơ thể không bị
nhiễm độc nặng? ( Khi bị rắn độc cắn phải biết cách sơ cứu như hút máu (lưu ý
không hút bằng miệng khi miệng có vết thương), thắt ga-rô (dùng dây buộc) vết
thương tránh độc vào tim, cứ 10 phút nới lỏng dây buộc tránh hoại tử bộ phận
không được lưu thông máu, di chuyển nhanh chóng đến cơ sở y tế gần nhất)
Đưa ra một số hình ảnh về các loài rắn độc để học sinh nhận biết.
Rắn cạp nong có độc cực mạnh, sinh sống chủ yếu ở vùng gần đồi núi hoặc các
đồng lúa vì thức ăn của chúng là ếch nhái và các loại rắn nhỏ nên chúng sống
khá gần con người.
14
Rắn lục đuôi đỏ có nọc độc khá mạnh. Triệu chứng khi bị nó cắn là sưng nề,
đau nhức, phồng rộp và mọng nước vết thương. Nọc độc khi vào cơ thể người sẽ
gây ra hiện tượng máu không đông nên chảy máu kéo dài.
Hổ mang, hay còn gọi là hổ đất, hổ mang bành... là loài rắn cực độc, sinh sống
nhiều tại các tỉnh miền Tây. Chúng khá hung dữ, khi bị kích thích thì phồng
mang đe doạ và tấn công cả con người lẫn các loài động vật lớn. Khi bị rắn hổ
15
mang cắn rất đau đớn, chảy máu nhiều và gây hoại tử, suy thận dẫn đến tử
vong.
Qua bài học, giáo dục cho học sinh kỹ năng phòng tránh rắn cắn. Khi
đi vào khu vực rậm rạp và cánh xử lí sơ cấp cứu ban đầu khi bị rắn độc cắn đồng
thời phải di chuyển ngay đến cơ sở y tế gần nhất. Đây là kỹ năng rất cần thiết
trong cuộc sống của các em vì phần đa các em là sống ở khu vực đồi núi, có
nhiều cây cối rậm rạp là nơi cư trú của nhiều loài rắn, trong đó có cả rắn độc mà
bản thân các em, cũng như người thân trong gia đình thường xuyên mắc phải rắn
cắn.
4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM:
Trong quá trình thực hiện đề tài cho học sinh khối 7 tôi đã sử dụng biện
pháp đối chứng với kết quả trong năm học này cụ thể như sau:
Năm học
2018 - 2019
Số học sinh giải Số học sinh giải
quyết và xử lý
quyết và xử lý
tốt các kĩ năng còn đơn giản các
Khối TS HS vệ sinh- bảo vệ kĩ năng vệ sinhthân thể trong
bảo vệ thân thể
sinh học 7
trong sinh học 7
7
40
Số học sinh
còn mơ hồ
và không
biết
SL
%
SL
%
SL
%
15
37.5
20
50.0
5
12.5
Nhờ giáo dục kĩ năng sống thông qua bộ môn mà học sinh nắm được
những kĩ năng sống cơ bản và cần thiết để sử lý tốt các vấn đề sảy ra trong cuộc
sống hàng ngày mà các em gặp phải. Trong năm học 2018- 2019 tôi đã thực
hiện đề tài này, nhận thấy các em học sinh đã có những chuyển biến rõ rệt từ
thái độ đến hành vi, nếp sống có ý thức, biết tự chăm sóc bản thân, yêu thích
môn học. Trong cuộc sống các em biết vận dụng kiến thức đã học để nhận biết
những lợi ích và tác hại của 1 số loài động vật đối với sức khoẻ con người, nhận
biết được những nguy cơ lây nhiễm các loài động vật gây bệnh để tránh và khắc
phục, nếu đã bị nhiễm bệnh do động vật có hại xâm nhập vào cơ thể thì có biện
pháp phù hợp để điều trị được minh chứng qua bảng số liệu trên khi tôi kiểm tra.
16
Khi có kiến thức và kĩ năng bảo vệ cơ thể trước 1 số động vật gây hại, các
em có thể giải thích tuyên truyền cho mọi người xung quanh kĩ năng bảo vệ sức
khoẻ như mình. Đối với các em ngoài việc nắm vững kiến thức cơ bản của
chương trình sinh 7, khả năng giải thích và ứng dụng thực tế của các em cũng tốt
hơn rất nhiều so với trước đây.
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn sinh học nói chung,
Sinh học 7 ở trường THCS & THPT Bá Thước nói riêng và thực hiện tốt nội
dung: “Học đi đôi với hành”, học sinh giỏi toàn diện.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã rút ra được trong
quá trình dạy môn Sinh học 7.
Đối với việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh chúng ta phải tiến hành
thường xuyên, kết hợp với theo dõi, kiểm tra, động viên, nhắc nhở.
Do trình độ của học sinh không đồng đều, ý thức của mỗi em cũng khác
nhau nên không thể một sớm một chiều các em thay đổi được. Vì vậy, trong
từng tiết dạy, tùy từng nội dung bài mà giáo viên lồng ghép giáo dục kĩ năng
sống sao cho phù hợp. Tránh tình trạng ôm đồm lo xoáy vào giáo dục kĩ năng
sống mà quên đi truyền thụ nội dung chính của bài học. Tuy nhiên trong quá
trình thực hiện chúng ta không có tham vọng thực hiện giáo dục tất cả các kĩ
năng sống. ( Bởi ở môn Sinh học chỉ lồng ghép, và chúng ta chưa có giáo trình
riêng cho giáo dục kỹ năng sống).
Giáo viên giảng dạy thông qua bộ môn tìm biện pháp lồng ghép linh hoạt,
nhẹ nhàng, hiệu quả nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh mà không ảnh
hưởng đến nội dung kiến thức của bài học. Với cách lồng ghép như thế trong các
tiết dạy tôi nghĩ đề tài này có tính khả thi rất cao trong thực tiễn, có thể áp dụng
cho những năm học tiếp theo và áp dụng cho các môn học khác ở trường trung
học cơ sở.
Đây là một đề tài bản thân tôi đúc kết trong quá trình giảng dạy bộ môn
Sinh học qua nhiều năm, tuy còn chưa được trọn vẹn, rất mong được các thầy cô
và đồng nghiệp cùng chia sẻ đóng góp giúp tôi hoàn thiện đề tài này. Để việc
giảng dạy sinh 7 đạt hiệu quả cao hơn, góp phần cùng thực hiện tốt nhiệm vụ
của nghành giáo dục đã đề ra.
2. Kiến nghị:
17
- Đối với Giáo viên: Để lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong bộ môn
Sinh học 7 một cách có hiệu quả, bản thân giáo viên cần thường xuyên tự bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật thường xuyên các thông tin từ thực tế,
trên đài báo, truyền hình… có liên quan đến chuyên môn để bài dạy gần gũi
hơn với đời sống của học sinh từ đó học sinh chủ động tiếp thu kiến thức tốt
hơn.
- Đối với nhà trường: Nên tổ chức cho học sinh có những buổi dã ngoại
thực hành ngoài thiên nhiên để học sinh có hứng thú hơn với môn học.
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Hoàng Trọng Lực
18
- Xem thêm -